Trường hợp nhà thầu từ chối thương thảo

Mới đây, bộ phận chăm sóc khách hàng của DauThau.info có nhận được một câu hỏi của khách hàng gửi về như sau:

“Công ty chúng tôi đã có kết quả trúng thầu và chưa ký hợp đồng. Tuy nhiên, vì một số lý do khách quan nên chúng tôi không muốn ký hợp đồng nữa. Như vậy thì có vấn đề gì không ạ?”

Với câu hỏi này, chuyên gia đấu thầu của DauThau.info - anh Vũ Đình Sơn trả lời như sau:

Như trường hợp đã đề cập ở trên, công ty này khi đã trúng thầu nhưng không ký hợp đồng thì sẽ bị tịch thu bảo lãnh dự thầu theo điểm d) và đ) Khoản 8, Điều 11, Luật Đấu thầu 2013

d) Nhà thầu không tiến hành hoặc từ chối tiến hành hoàn thiện hợp đồng trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu hoặc đã hoàn thiện hợp đồng nhưng từ chối ký hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng;

đ) Nhà đầu tư không tiến hành hoặc từ chối tiến hành hoàn thiện hợp đồng trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu hoặc đã hoàn thiện hợp đồng nhưng từ chối ký hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng.

Ngoài ra, theo Điều 90, Luật đấu thầu 2013: 

1. Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về đấu thầu và quy định khác của pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; trường hợp hành vi vi phạm pháp luật về đấu thầu gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

2. Ngoài việc bị xử lý theo quy định tại khoản 1 của Điều này, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về đấu thầu còn bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu và đưa vào danh sách các nhà thầu vi phạm trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia.

Có thể nói đây là việc làm cực kỳ tối kỵ trong đấu thầu. Đôi khi chỉ cần một gói thầu nhỏ bị hủy sẽ dẫn đến cả một dự án lớn có thể bị chậm tiến độ, điều này gây ảnh hưởng lớn về thời gian, chi phí và công sức của bên mời thầu. Đặc biệt, “chữ tín” trong đấu thầu lại càng quan trọng hơn vì sức lan tỏa đối với các chủ đầu tư, bên mời thầu, tư vấn là rất lớn.

Bởi vậy, nếu nhà thầu đã trúng thầu thì nhà thầu hãy nên sắp xếp để tiến hành thương thảo, ký kết hợp đồng, việc bị tịch thu bảo lãnh dự thầu không thể so sánh được với việc nhà thầu bị đánh mất niềm tin từ chính các nhà đầu tư...

Trên đây là câu trả lời của anh Vũ Đình Sơn - Chuyên gia đấu thầu của DauThau.info về câu hỏi “Pháp luật xử lý như thế nào về trường hợp nhà thầu đã trúng thầu nhưng không ký hợp đồng?”. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Khách hàng có thể liên hệ với DauThau.info qua 0904.634.288 hoặc messenger: http://m.me/dauthau.info để được tư vấn, hỗ trợ nhanh chóng.

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Trường hợp nhà thầu từ chối thương thảo

Skip to content

Công ty A đã tham gia đấu thầu gói thầu mua sắm hàng hóa và nhận được công văn mời thương thảo hợp đồng từ phía chủ đầu tư. Công ty A có hỏi như sau:

Do bản vẽ trong HSMT của chủ đầu tư quy định bản vẽ trong HSMT chỉ mang tính chất tham khảo và thực tế trong quá trình thương thảo, Công y A có khảo sát lại sản phẩm thực tế thì có sai khác so với bản vẽ nên giá chào thầu của công ty A là không phù hợp vì giá thực tế cao hơn giá chào thầu.

Công ty A thấy rằng theo điểm b khoản 3 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/06/2014 của Chính phủ thì thương thảo hợp đồng không được thay đổi đơn giá dự thầu. Vì vậy Công ty A từ chối làm gói thầu này và được chủ đầu tư chấp thuận. Hỏi trong trường hợp này, Công ty A có bị tịch thu bảo lãnh dự thầu.

Các chuyên gia của chúng tôi trả lời như sau:

Theo quy định điểm d khoản 8 Điều 11 của Luật đấu thầu năm 2013, một trong những trường hợp không được hoàn trả bảo đảm dự thầu là nhà thầu không tiến hành hoặc từ chối tiến hành hoàn thiện hợp đồng trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo trúng thầu của bên mời thầu hoặc đã hoàn thiện hợp đồng nhưng từ chối ký hợp đồng, trừ trường hợp bất khả kháng.

Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định nhà thầu xếp hạng thứ nhất được mời đến thương thảo hợp đồng. Trường hợp nhà thầu được mời đến thương thảo hợp đồng nhưng không đến thương thảo hoặc từ chối thương thảo hợp đồng thì nhà thầu sẽ không được nhận lại bảo đảm dự thầu.

Do vậy, trường hợp Công ty A từ chối thương thảo, hoàn thiện hợp đồng thì Công ty A sẽ bị tịch thu bảo đảm dự thầu theo quy định nêu trên.

(Xây dựng) - Trường hợp thương thảo không thành công, bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo. Trường hợp thương thảo với các nhà thầu xếp hạng tiếp theo không thành công thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định hủy thầu.

Trường hợp nhà thầu từ chối thương thảo
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet).

Ông Phan Huy Bình đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống sau: Bên mời thầu đã gửi thư mời nhà thầu xếp hạng thứ nhất đến thương thảo hợp đồng qua đường bưu điện. Thời gian nhà thầu nhận được thư mời thương thảo hợp đồng là ngày 10/12/2021 và thời gian yêu cầu nhà thầu có mặt để thương thảo là 8h00 ngày 15/12/2021.

Tuy nhiên nhà thầu được mời không đến tham dự theo thời gian và địa điểm nêu trong thư mời (trong suốt thời gian từ ngày 10/12/2021 đến ngày 15/12/2021, bên mời thầu không nhận được bất kỳ đề nghị nào về lùi thời gian thương thảo, dưới bất kỳ hình thức nào (bằng văn bản, thư điện tử, điện thoại,...).

Ông Bình hỏi, bên mời thầu mời nhà thầu xếp hạng thứ nhất đến để đối chiếu tài liệu và thương thảo hợp đồng qua ứng dụng làm rõ HSDT trên Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia thì có sai với quy định không? Bên mời thầu báo cáo với chủ đầu tư và tiến hành mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo hợp đồng được chưa? Có phải tiếp tục gửi thư mời nhà thầu xếp hạng thứ nhất nữa không?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:

Khoản 5 Điều 40 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định trường hợp thương thảo không thành công, bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo; trường hợp thương thảo với các nhà thầu xếp hạng tiếp theo không thành công thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định hủy thầu theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật Đấu thầu.

Theo đó, trường hợp do dịch bệnh Covid-19, một số địa phương thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ (trường hợp bất khả kháng) dẫn đến nhà thầu không thể trực tiếp đến thương thảo hợp đồng thì bên mời thầu và nhà thầu có thể thực hiện thương thảo, đối chiếu hồ sơ qua mạng.

Trường hợp nhà thầu không tiến hành thương thảo qua mạng hoặc đã hết thời gian giãn cách xã hội mà nhà thầu vẫn không tiến hành thương thảo hoặc từ chối tiến hành thương thảo hợp đồng trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo mời thương thảo hợp đồng của bên mời thầu thì nhà thầu sẽ không được hoàn trả giá trị bảo đảm dự thầu.

Bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo hợp đồng theo quy định tại Khoản 6 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP.

Hạ Nhiên

Theo

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:

Khoản 5 Điều 40 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định trường hợp thương thảo không thành công, bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo; trường hợp thương thảo với các nhà thầu xếp hạng tiếp theo không thành công thì bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, quyết định hủy thầu theo quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật Đấu thầu.

Theo đó, trường hợp do dịch bệnh COVID-19, một số địa phương thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ (trường hợp bất khả kháng) dẫn đến nhà thầu không thể trực tiếp đến thương thảo hợp đồng thì bên mời thầu và nhà thầu có thể thực hiện thương thảo, đối chiếu hồ sơ qua mạng.

Trường hợp nhà thầu không tiến hành thương thảo qua mạng hoặc đã hết thời gian giãn cách xã hội mà nhà thầu vẫn không tiến hành thương thảo hoặc từ chối tiến hành thương thảo hợp đồng trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo mời thương thảo hợp đồng của bên mời thầu thì nhà thầu sẽ không được hoàn trả giá trị bảo đảm dự thầu.

Bên mời thầu báo cáo chủ đầu tư xem xét, mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo vào thương thảo hợp đồng theo quy định tại Khoản 6 Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP.