Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng là nhân vật đặc biệt dưới thời nhà Trần. Trải qua độ lùi của lịch sử, cũng cần phải nhìn nhận và đánh giá 1 cách khách quan về Người. Show
Thân thế Hưng Nhượng Vương Trần Quốc TảngTrần Quốc Tảng (sinh năm 1252 mất năm 1313) là con trai thứ 3 của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Nối chí cha, ngay từ nhỏ Quốc Tảng đã giỏi giang việc võ bị. Ông được vua Trần Nhân Tông sai cùng với cha mình chỉ huy quân dân Đại Việt chống lại cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông. Sau 2 lần chiến thắng quân Nguyên Mông, vua gia phong ông làm Hưng Nhượng Vương, tiết độ sứ. Các sách sử chép lại, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng do không hòa hiếu với cha nên bị cha mình là Trần Quốc Tuấn giận mà đày ra cửa biển Suất Ty (nay thuộc Quảng Ninh). Vương quản lý đất đai, dạy dân làm ăn ở vùng này và cũng mất tại đó. Đến nay, đền Cửa Ông nơi thờ ông vẫn quanh năm được hương khói. Khí phách Hưng Nhượng Vương – Trần Quốc TảngBi kịch gia đìnhNhắc tới khí phách của Trần Quốc Tảng là phải kể tới bi kịch gia đình ông. Trong đó những người phải chịu oan khuất chính là cha và ông nội của ông. Ông nội của Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng là Trần Liễu. Trần Liễu là anh cả của vua Trần Thái Tông. Do vua Trần Thái Tông không có con mà thái sư Trần Thủ Độ (người nắm thực quyền trong triều Trần) ép Trần Liễu phải nhường vợ cho nhà vua. (Như vậy vua Trần Thái Tông lấy chị dâu của mình). Điều này khiến Trần Liễu phẫn uất. Trần Liễu huy động quân sỹ làm cuộc binh biến. Cuộc binh biến không thành. Vua Trần Thái Tông thương anh nên không lỡ bắt phạt. Tuy nhiên, Trần Liễu vẫn nuôi mộng báo thù. Sử sách ghi lại, trước khi mất, ông căn dặn Trần Quốc Tuấn: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”. Xem thêm bài viết về anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn Chí lớn Trần Quốc TảngSử ghi lại, ngay từ thiếu thời, Quốc Tảng đã chịu khó văn ôn võ luyện. Ông trở thành tướng lĩnh quân sự xuất sắc thời Trần. Khi giặc Nguyên Mông xâm lược lần thứ 2, ông cùng cha và các anh mình trực tiếp chỉ đạo quân dân Đại Việt đánh bại cuộc xâm lược lần 2 của giặc Nguyên Mông. Quốc Tảng được phong vương, tiết độ sứ. (Theo tục lệ nhà Trần thì con trưởng của vương mới được phong vương, các con thứ chỉ được phong hầu. Quốc Tảng là con thứ mà vẫn được phong Vương chứng tỏ công lao của ông phải hiển hách nên mới được đặc cách như vậy). Cũng không rõ, quyền lợi của tước “Tiết độ sứ” đến đâu, nhưng chắc chắn là phải ngang tầm với cán bộ quản lý cả 1 vùng kinh tế như ngày nay. Còn nhớ, trước đây Ngô Quyền được phong Tiết Độ Sứ nhưng ông không phục mà tự xưng Vương. Sau, có thể do cha con bất hòa mà Trần Quốc Tảng ra vùng Hải Ninh, nay thuộc Quảng Ninh mà lập ấp, dưỡng dân. Công lao của ông tại đây là không nhỏ. Vì thế nhân dân mới dựng đền thờ ông tại Đền Cửa Ông (Cẩm Phả ngày nay). Nhiều vùng quê khác như Hải Dương, Ninh Bình… cũng có đền thờ ông để quanh năm hương khói. Giải oan cho Hưng Nhượng Vương Trần Quốc TảngTrần Quốc Tảng có thực sự muốn thoán nghịch?Nhiều người khi đánh giá về Trần Quốc Tảng vẫn giữ luận điểm rằng ông là người bất trung. Khi nuôi chí lớn để soán ngôi vua, dựng lại cơ nghiệp. Điều này xuất phát từ sách Đại Việt Sử Ký toàn thư, sách chép rằng: Khi nhắc lại thù nhà xưa, Trần Quốc Tuấn có hỏi Quốc Tảng ý thế nào, Quốc Tảng có trả lời rằng: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ”. – Ý nói cha nên tận dụng cơ hội là lên làm Vua. Vì câu nói này mà Trần Quốc Tuấn giận Quốc Tảng toan đem giết đi. Trần Quốc Tuấn mắng ông là đồ thoán nghịch. Sau nhờ các anh em nói đỡ mà Trần Quốc Tuấn không giết nhưng có dặn rằng: “Sau khi ta chết, nhớ đóng quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào kêu khóc”. Cũng trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Trần Quốc Tuấn 1 lần cho gọi 2 gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng đến để dò hỏi về câu căn dặn của cha mình về việc lấy lại Thiên Hạ. 2 người gia nô có nói rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay Đại vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi”. Quốc Tuấn cho rằng câu nói đó trúng ý mình. Cảm động mà phát khóc. Đánh giá Trần Quốc Tảng là thoán nghịch là không xác đángTheo chúng tôi, bi kịch gia đình của Trần Quốc Tuấn, Quốc Tảng là có thực. Tuy nhiên, quan niệm Trần Quốc Tảng bất trung là không có lý. Quy cho ông là bất trung chỉ vì 1 câu nói trong sách sử là không hợp tình lẫn hợp lý. Những câu nói trên của Quốc Tảng và Trần Quốc Tuấn chỉ được coi là điển tích trong dân gian. Đã là điển tích trong dân thì có thể đúng, có thể sai. Sử sách ghi lại điều này là cố tình nhấn mạnh đến tấm lòng trung nghĩa của Trần Quốc Tuấn. Việc Trần Quốc Tuấn nhắc lại thù xưa để dò hỏi xem ý kiến có nên làm phản không cho 2 người gia nô là điều thậm vô lý. Nếu việc này bị lộ ra thì tai họa sẽ giáng xuống là vô cùng kinh khủng. Không ai dại gì mà đem chuyện quan trọng đến vậy bàn với 2 người gia nô trong nhà cả. Những chuyện Quốc Tuấn dò hỏi ý chí của các con mình liên quan đến việc thoán ngôi. Cho dù là có thật thì cũng là chuyện nội bộ gia đình. Không thể lọt ra ngoài để người làm sử ghi lại được. Hơn nữa, nếu Quốc Tảng có ý đồ thoán nghịch thì triều đình chắc chắn sẽ không phong vương cho ông, cũng không dễ dàng giao cho ông chức Tiết Độ Sứ để dễ dàng hành động được. Do vậy, tri ân Đức Thánh Trần Hưng Đạo nhưng cũng không thể quên được vai trò, đặc biệt là cũng không nên làm giảm đi bản lĩnh nhân cách của Trần Quốc Tảng – con trai ông. Hinhmoc.com
Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng (1252 - 1313) là một tông thất hoàng gia và tướng lĩnh nhà Trần. Ông là con trai thứ 3 của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa. Ông chính là người cùng cha chỉ huy quân dân đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược vào thời Trần Nhân Tông. Nói về sự nghiệp cầm binh của ông, sử sách chép: Tháng 12 âm lịch năm Thiệu Bảo thứ 6 (1284), quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ 2. Được tin đại quân do Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy thua các trận đánh ở biên giới và rút về Vạn Kiếp, vua trần sai Trần Quốc Tảng cùng Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Minh Hiến vương Trần Quốc Uất và Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hưng Đạo vương để chống quân Nguyên. Vào năm 1289, sau 2 lần đánh bại quân Nguyên, thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông xét công phạt tội, gia phong Hưng Đạo vương làm Đại vương, Hưng Nhượng vương làm Tiết độ sứ. Năm 1297, vua Trần Anh Tông cử ông đem quân đi đánh sách Sầm Tử. Thời Trần Anh Tông, Hưng Nhượng vương rất ghét Nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung, mỗi khi thấy Khắc Chung thì mắng phủ đầu: "Thằng này là điềm chẳng lành đối với nhà nước. Họ tên nó là Trần Khắc Chung thì nhà Trần rồi mất về nó chăng?". Khắc Chung thường sợ hãi né tránh. Các quyển chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư hay Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục không ghi chép nhiều về hành trạng của ông cho nên không thể biết chắc chắn ông có từng sống và chỉ huy quân đội tại khu vực ngày nay thuộc tỉnh Quảng Ninh hay không. Việc ông trấn giữ khu vực này chỉ được chép trong một số sách như Trần triều hiển thánh Chính kinh tập biên do đền Ngọc Sơn Hà Nội khắc in năm 1900, hiện lưu trữ với ký hiệu A.2382 tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Trong đó viết rằng: "Quốc Tuấn công cho rằng, con trai tính ưa cương dũng ấy (tức Trần Quốc Tảng), không theo đúng đạo làm con, bèn nổi giận lôi đình, đày ra cửa bể Suất ti tuần thuộc phủ Hải Ninh, lộ An Bang". Việc này có lẽ bắt nguồn từ Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1818), trong đó tác giả cho rằng Hưng Ninh vương là Trần Quốc Tảng, trong khi An Nam chí lược của Lê Tắc soạn năm 1335 viết rất rõ rằng Hưng Ninh vương Trần Tung là anh họ của Thế tử (chỉ Trần Thánh Tông) và Thế tử mất năm 1290. (Nguyên tác: Qua tháng 2, Thế tử khiến anh họ là Hưng Ninh vương Trần Tung nhiều lần tới xin đầu hàng, có ý làm cho quân ta mệt mỏi rồi ban đêm cho quân cảm tử tới quấy rối các đồn và Năm Canh Dần hiệu Chí Nguyên (1290) Thế tử mất, con là Trần Nhật Tôn kế lập.). Xét theo phả hệ nhà Trần thì Trần Quốc Tảng chỉ ngang vai và là anh họ của Trần Nhân Tông, phải gọi Trần Thánh Tông bằng chú xưng cháu nên Hưng Ninh vương không thể là Trần Quốc Tảng. Trần Quốc Tảng mất tháng 3 âm lịch, năm Hưng Long thứ 21 (1313). Năm 1314, ông được truy tặng Thái úy. Ông được thờ tại một số nơi như Đền Cửa Ông (phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, Quảng Ninh), miếu thờ tại đình Tả, xã Trác Châu (nay là thôn Trác Châu, xã An Thượng, thành phố Hải Dương), Văn Miếu (hay còn gọi là Văn Chỉ Linh Khê) thuộc thôn Linh Khê, xã Thanh Quang, huyện Nam Sách, đình Phúc Xá A, xã Cẩm Phúc, huyện Cẩm Giàng. Ông cũng được thờ tự ở di tích chùa Đẩu Long, phường Tân Thành, thành phố Ninh Bình, Ninh Bình tương truyền ông từng có thực ấp ở đây. Tên ông được đặt cho nhiều đường phố tại các thành phố trên khắp Việt Nam như Hạ Long (từ đường Trần Hưng Đạo đến phố Vạn Xuân), Cẩm Phả (từ đường Lý Thường Kiệt đến đường Hoàng Quốc Việt), Móng Cái, Bắc Ninh, Nam Định, Long Xuyên, ... Cần minh oan cho Trần Quốc TảngNhư đã nói, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn có 4 người con trai là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, Hưng Hiến vương Trần Quốc Uất, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện. Dân gian gọi 4 người con của Hưng Đạo vương là Tứ vị Vương tử. Trong đó, người con thứ 3 là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng được ghi chép kỹ nhất bởi nghi án mà theo một số ý kiến cho là oan uổng. Các bộ chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư hay Khâm định Việt sử thông giám đều chép điển tích Hưng Đạo Vương thử lòng con để khi hậu thế đọc lại thì mặc nhiên cho rằng Trần Quốc Tảng là người có lòng phản nghịch. Điển tích xưa có chép: "Lúc sắp mất, cầm tay Quốc Tuấn trối trăng lại rằng: "Con không vì cha mà lấy được thiên hạ, thì cha dầu chết cũng không nhắm mắt được!". Trong bụng Quốc Tuấn vẫn không cho câu nói ấy là đúng. Khi quân Nguyên sang xâm lược, một mình nắm hết quyền binh, có lần Trần Quốc Tuấn đã đem câu trăn trối của cha hỏi hai người gia nô là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người này can ngăn: "Nếu thi hành kế ấy, dầu có giàu sang được một lúc, mà tiếng xấu để mãi đến ngàn đời. Đại vương bây giờ chả phải đã giàu sang rồi ư? Chúng tôi tình nguyện chết già làm người nô bộc, chứ không muốn làm sự bất trung bất hiếu để cầu may mà được một chức quan, chúng tôi mong học được như người mổ dê tên là Duyệt ở thời Xuân Thu ngày trước". Quốc Tuấn nghe hai người gia nô nói, vừa cảm động ứa nước mắt vừa khen ngợi. Sau đó có lần Trần Quốc Tuấn cũng đem chuyện đó ra dò hỏi ý con trai là Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn thì nhận được câu trả lời: "Cổ nhân giàu có cả thiên hạ, để truyền cho con cháu về sau, việc ấy con nghĩ thế nào?". Quốc Nghiễn thưa rằng: "Việc ấy đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là người cùng một họ". Quốc Tuấn cho rằng, đó là phải. Tiếp đó, ông lại đem chuyện dò hỏi ý tứ người con thứ 3. Lúc này, Trần Quốc Tảng tiến thẳng đến nói: "Tống Thái Tổ là một người làm ruộng, chỉ nhờ gặp thời vận mà lấy được thiên hạ". Quốc Tuấn liền tuốt gươm ra kể tội rằng: "Những người bầy tôi phản loạn chính là do những đứa con bất hiếu mà ra". Nói rồi có ý muốn giết đi. Quốc Nghiễn vội chạy ra kêu khóc xin nhận tội thay, mãi sau mới được Quốc Tuấn tha cho. Khi Quốc Tuấn sắp mất, bảo Quốc Nghiễn rằng: "Sau khi ta chết, đậy nắp áo quan đâu đấy xong rồi, sẽ cho Quốc Tảng vào viếng khóc". Điển tích có thể là câu chuyện dân gian chứ sự thực thì khó đảm bảo. Nhưng vì điển tích trên lại được các bộ chính sử viện dẫn và có ý nghĩa đề cao lòng trung quân ái quốc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nên dễ dàng được người đọc tiếp nhận. Chỉ có điều, điển tích đó khiến Trần Quốc Tảng mang tiếng. Tờ Một thế giới đã chỉ ra một số điểm vô lý trong điển tích: Thứ nhất, khó có chuyện Hưng Đạo vương lại đưa ra câu hỏi mang tính phản nghịch như vậy ra làm đề bài với gia nô Yết Kiêu Dã Tượng rồi sau đó hỏi các con. Nếu chuyện lộ ra mà dư luận khi đó đồn đại "Hưng Đạo vương hỏi ý gia thần có nên cướp ngôi không" thì nước loạn. Còn nếu chuyện giữ kín như bưng thì lấy ai để chép điển tích này vào sử. Thứ hai, chuyện Trần Liễu trăn trối với con trai hay chuyện Hưng Đạo vương hỏi các con đều là chuyện nội bộ gia đình không thể có người ngoài làm lộ thông tin cho "dân chép sử" được. Nếu có những lời này đi chăng nữa thì người trong nhà đâu thể nào "vạch áo cho người xem lưng" để mang tiếng xấu cho Trần Liễu và Trần Quốc Tảng. Hai điều trên mang tính suy luận nhưng điều thứ 3 và quan trọng nhất để tin Quốc Tảng bị oan là sau đó "sự cố ghi trong điển tích", ông vẫn trọng dụng. Nếu Hưng Đạo vương ghét con đến mức không muốn nhìn mặt thì không bao giờ có chuyện tiếp tục để triều đình trọng dụng con trai, để Quốc Tảng tiếp tục giữ chức vương, tiếp tục giữ binh quyền. Trong "Trần triều hiển thánh Chính kinh tập biên", in năm Thành Thái (1900) có chép như sau: "Quốc Tuấn công cho rằng, con trai tính ưa cương dũng ấy (tức Trần Quốc Tảng), không theo đúng đạo làm con, bèn nổi giận lôi đình, đày ra cửa bể Suất Ti Tuần thuộc phủ Hải Ninh, lộ An Bang". Đây cũng không phải chính sử nhưng tạo ra một hướng để có thể đoán định rằng giữa cha con Quốc Tuấn - Quốc Tảng có thể có bất đồng và tranh cãi gay gắt đến mức khó có thể làm việc chung. Chứ còn dựa vào điển tích để nói rằng, Quốc Tảng có ý xui cha làm Triệu Khuông Dẫn (tạo binh biến Trần Kiều để cướp ngôi nhà Hậu Chu) thì không thỏa đáng. Hãy nhìn lại, sau đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ 3, nhà Trần phong thưởng rất công bằng. Sử chép: Tiến phong Hưng Đạo vương Quốc Tuấn làm Đại vương; Hưng Vũ vương Nghiễn làm Khai quốc công; Hưng Nhượng vương Tảng làm tiết độ sứ. Còn Đỗ Hành vì khi bắt được Ô Mã Nhi, không đem nộp nhà vua, nên chỉ được phong tước quan nội hầu; Hưng Trí vương Nghiễn vì trái tướng lệnh, ngăn cản đường quân Nguyên rút về nước, nên không được thăng trật. Đỗ Hành chỉ mắc lỗi nhỏ trong quy trình, con trai thứ tư của Hưng Đạo vương chỉ vì ham đánh giặc mà trái chủ trương chung (đáng ra được thông cảm nếu xét động cơ vi phạm) đều bị triều đình để ý thì làm sao có chuyện Quốc Tảng lại được phong làm Tiết độ sứ (có không gian quyền lực lớn) nếu có tư tưởng thoán nghịch. Không chỉ vậy, một thời gian ngắn sau, triều đình lại nhắm đến Trần Quốc Tảng vào vị trí nhạy cảm là quốc trượng tương lai. vào năm 1292, “tháng 2 ngày mồng 3, lập Đông cung Thái tử Thuyên (tức Trần Anh Tông sau này) làm Hoàng thái tử. Lấy con gái trưởng của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng làm phi cho Thái tử”. Một năm sau, Anh Tông Hoàng đế kế vị, sách lập Hoàng thái tử phi Trần thị làm Văn Đức Phu nhân. Sau Anh Tông phế Văn Đức phu nhân nhưng cũng không muốn làm mếch lòng của Trần Quốc Tảng nên lập một con gái khác của ông làm Bảo Từ Thuận Thánh Hoàng hậu. Nếu Quốc Tảng có lòng thoán nghịch thì các vua Trần có dám để ông ở vị trí như vậy không? Thêm nữa, năm 1313, Trần Quốc Tảng qua đời và triều đình đã trung phong ông làm Thái úy. Đó là cái kết đẹp cho một danh tướng có công chống quân Nguyên Mông. Nhưng vì điển tích không đáng tin cậy mà sau này hậu thế nhớ đến ông với tư tưởng khoán nghịch. Rất có thể Hưng Nhượng vương cũng bị trở thành "nạn nhân của điển tích". Chúng ta nên nghĩ khác về ông. (Theo Wiki, Một thế giới) Xem thêm: Tài thao lược của Hưng Đạo Vương khiến đạo quân mạnh nhất thế giới đại bại |