Thông điệp được rút ra từ bài ca dao Trâu ơi là gì

Câu hỏi: Biện pháp tu từ trong bài ca dao Trâu ơi

Lời giải:

Biện pháp tu từ trong bài ca dao Trâu ơi là:

- Biện pháp tu từ nhân hóa. Người nông dân đã gọi con trâu bằng từ ngữ như gọi một người bạn. Bài thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa có tác dụng là thể hiện sự thân thiết giữa người nông dân và con trâu. Người nông dân đã coi trâu như một người bạn đồng hành trong lao động và cuộc sống.

Các em cùng Toploigiai tìm hiểu thêm về bài ca dao này nhé!

1. Những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật của ca dao dân ca Việt Nam

-Ca dao là một trong những thể loại nổi bật trong văn học dân gian. Nó diễn tả một cách trực tiếp tâm hồn, tình cảm của nhân dân lao động. Nhắc đến nội dung của ca dao thì thường rất đa dạng từ cuộc sống sinh hoạt, đến tình cảm của con người. Đặc điểm về nghệ thuật trong ca dao từ ngôn ngữ đến kết cấu, thủ pháp nghệ thuật, cuối cùng là thể thơ đều mang đậm chất dân gian.

-Trước hết, về ngôn ngữ, ca dao đã vận dụng rất thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đó là thứ ngôn ngữ rất giản dị, đẹp đẽ và trong sáng để diễn tả được tâm hồn đa dạng phong phú của con người. Trong ca dao đã có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nghệ thuật với ngôn ngữ của đời sống và lời ăn tiếng nói hằng ngày.

"Lá này là lá xoan đào

Tương tư gọi nó thế nào hở em"

-Vì sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày nên ca dao sức quyến rũ mạnh với nhân dân lao động. Đó là vẻ đẹp của sự chân thực, giản dị. Ca dao vì thế dễ đi vào lòng người hơn. Ca dao có mang tính nghệ thuật và giàu sức biểu cảm cao. Ngôn ngữ trong ca dao được trau chuốt, tinh luyện dựa trên ngôn ngữ dân tộc

"Đèn tà thấp thoáng bóng trăng

Ai đem người ngọc thung thăng chốn này"

-Ca dao vì là sáng tác của tập thể, truyền miệng từ đời này sang đời khác nên ngôn ngữ của nó còn mang tính địa phương. Ca dao Bắc Bộ thì được sáng tác một cách trau chuốt, tỉ mỉ, sử dụng nhiều cách so sánh, ví von nói bóng nói gió. Ca dao miền Trung thì lại mang tính chất phóng khoáng, không quá trói buộc bởi những quy tắc chặt chẽ:

"Anh đến tìm em thì em đã có chồng

Em yêu anh như rứa, có mặn nồng chi mô"

-Trong ca dao, tác giả còn sử dụng rất nhiều đại từ nhân xưng nhất là trong các bài ca đối đáp giao duyên để biểu lộ tình cảm quan hệ lứa đôi. Lúc thì "anh - em", "mình - ta", có lúc lại vô cùng trang trọng "thiếp - chàng"

"Mình ơi ta hỏi thật mình

Còn không hay đã chung tình với ai"

-Đặc điểm thứ hai của ca dao chính là kết cấu ngắn ngọn, có sử dụng lối đối đáp và công thức truyền thống. Kết cấu ngắn ngọn chính là một bài ca dao có khi chỉ từ hai đến bốn dòng thơ (1-2 cặp lục bát). Tiếp theo chính là sử dụng lối đối đáp "Bây giờ mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa? Mận hỏi thì đào xin thưa/ Vườn hồng rộng mở nhưng chưa ai vào?". Với lối đối đáp này ta có thể hình dung được đây có thể đổi đáp giữa một nam - một nữ. Đặc điểm thứ ba là sử dụng công thức truyền thông. Hàng loạt các từ ngữ với mô tip mở đầu như là "Thân em" trong bài ca than thân. "Chiều chiều" gợi khoảng thời gian buổi chiều, tâm trạng buồn, "Ngó lên", "Trèo lên".. "rủ nhau"...

"Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng"

"Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ

-Đặc điểm thứ ba là các thủ pháp nghệ thuật chủ yếu trong ca dao đó là biện pháp so sánh ẩn dụ. Đó là kiểu so sánh A như B "Đôi ta như thể con tằm/ Cùng ăn một lá, cùng nằm một phòng". Ngoài ra có sử dụng kết cấu so sánh tương hỗ bổ sung đối tượng được nhấn mạnh rong sự đối chiếu với sự vật khác: "Đôi ta như lửa mới nhen/ Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu". Có thể hai đối tượng so sánh được đưa ra với những nét tương đồng: "Tình anh như nước dâng cao/ Tình em như dải lụa đào tầm hương". Sử dụng so sánh trong ca dao có ý nghĩa nâng cao giá trị nhận thức và tạo hình ảnh biểu cảm cao cho ca dao. So sánh làm cho hình tượng của ca dao thêm rõ nét hơn. Ngoài ra, giúp cho ca dao biểu đạt được chức năng biểu cảm có nghĩa là bộc lộ cảm xúc. Biện pháp thứ hai chính là biện pháp ẩn dụ. Thực chất, ẩn dụ là cách so sánh ngầm mà đối tượng so sánh được ẩn đi " Em tưởng nước giếng sâu, em nối sợi dây dài/ Ai ngờ giếng cạn, em tiếc hoài sợi dây". Biện pháp ẩn dụ trong ca dao giúp cho tác giả dân gian có thể diễn tả được những điều thầm kín, khó nói nhưng vẫn mang tính giản dị và giàu chất thơ.

-Trong ca dao, thể thơ nổi tiếng và được dùng nhiều nhất chính là thể lục bát. Thể thơ này giúp cho con người biểu lộ được trạng thái tình cảm phong phú và tinh tế. Đặc điểm của thể thơ vô cùng dễ nhớ bởi cách hiệp vần, nhịp. Cách hiệp vần được thể hiện ở chữ cuối của câu sáu vần với chữ thứ sáu của câu tám, và chữ cuối của câu tám vần với chữ cuối câu sáu.

"Cổ tay em trắng như ngà

Con mắt em liếc như là con dao"

-Ngoài ra còn luật bằng trắc và cách ngắt nhịp. Có thể theo luật 2/2/2, câu 8 là 2/2/2/2. Nhưng cách ngắt nhịp trong ca dao cũng vô cùng linh hoạt. Ngoài ra, ca dao còn dùng các thể như thể vãn, thể song thất lục bát, thể hỗn hợp.

- Vì những đặc điểm trên về nghệ thuật của ca dao mà ta thấy được ca dao đã đi vào tâm hồn của con người một cách tự nhiên. Nó đã là một sản phẩm tinh thần có giá trị và được truyền từ đời này qua đời khác và được lưu giữ cả trong tài liệu. Ca dao quả là một thể loại có giá trị đến muôn đời.

2. Cảm nghĩ về bài ca dao trâu ơi ta bảo trâu này

-Từ ngàn xưa, người nông dân quanh năm vất vả một nắng hai sương ở ngoài đồng để làm ra củ khoai, hạt lúa nuôi mình và nuôi đời. Gắn bó với họ ngoài thửa ruộng còn có con trâu. Họ coi con trâu là đầu cơ nghiệp, là người bạn chí tình chí nghĩa:

Trâu ơi ta bảo trâu này,

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Cấy cày vốn nghiệp nông gia,

Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Bao giờ cây lúa còn bông,

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

-Bài ca dao đã thể hiện tình cảm yêu quý, biết ơn của người nông dân đối với con trâu – con vật đã giúp họ rất đắc lực trong lao động sản xuất.

-Mở đầu bài ca dao là tiếng gọi trìu mến thiết tha:

Trâu ơi ta bảo trâu này,

-Người nông dân không chỉ đơn thuần coi trâu là một con vật kéo cày mà còn là người bạn thân thiết. Họ tâm tình, trò chuyện với nó như với một người bạn. Không quý sao được khi con trâu là tài sản lớn. Không thương sao được khi từ sáng sớm cho đến nửa đêm, con trâu luôn làm việc bên cạnh con người. Con trâu gắn bó với người nông dân từ thuở ấu thơ cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Vì vậy, quan hệ giữa người nông dân với con trâu không chỉ là mối quan hệ bình thường giữa người chủ và vật nuôi mà còn là quan hệ bạn bè tình sâu nghĩa nặng.

-Ta thử hình dung một buổi sớm mai, người nông dân vai vác cày, tay dắt trâu, vừa đi vừa thủ thỉ: Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cách xưng hô thật dịu dàng, thân mật. Việc cày đồng vất vả, mệt nhọc bởi trên đầu nắng như đổ lửa, dưới chân nước nóng như nung, cả trâu và người cùng chịu. Người thì mồ hôi thánh thót như mưa, trâu thì vươn cổ kéo cày bước đi nặng nề, chậm chạp. Người nông dân ta là thế đấy! Thương mình một, thương trâu mười.

-Câu thứ ba và câu thứ tư khẳng định người và trâu gắn bó không rời trong công việc. Ta đây trâu đấy như hình với bóng, cùng làm việc vất vả trên đồng ruộng để làm ra củ khoai, hạt lúa. Trâu với người hiểu nhau trong từng cử chỉ, từng công việc.

-Người không quản vất vả, trâu cũng chẳng ngại nhọc nhằn. Người hiểu công sức to lớn của trâu trong công việc nhà nông. Trâu là người bạn tốt, làm sao người có thể quên ơn? Mạch cảm xúc của bài ca dao đã phát triển từ sự gắn bó, biết ơn, đến lời hứa hẹn đền ơn:

Bao giờ cây lúa còn bông,

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

-Công sức của người và trâu sẽ được đền bù xứng đáng. Cả hai đã cùng làm việc, cùng chịu dầm mưa dãi nắng thì sẽ cùng hưởng thành quả lao động. Người được hưởng những bông lúa vàng, trâu được hưởng những ngọn cỏ non. Cái điều tưởng chừng giản dị ấy lại là lời hứa trước sau như một của con người biết trọng nghĩa tình.

-Bài ca dao là tiếng nói tâm tình của người nông dân với con vật gắn bó thân thiết suốt cuộc đời mình. Ngoài ra, bài ca còn thể hiện ước vọng của người nông dân muốn có một cuộc sống no đủ, lòng nhủ lòng cố gắng làm việc để có một vụ mùa bội thu. Những người lao động chân lấm tay bùn nhưng có một tấm lòng đôn hậu, thủy chung đáng quý biết bao!

-Ca dao nói về lao động sản xuất phản ánh sinh động cuộc sống vất vả của người nông dân xưa kia. Dù cuộc sống khó khăn cực nhọc nhưng họ vẫn thiết tha với công việc, yêu quý từng tấc đất. Trong lao động, họ không chỉ yêu thương gắn bó với nhau mà còn trân trọng công lao của những con vật hữu ích đả giúp họ trong công việc đồng áng. Đây là một nét tình cảm cao đẹp của người nông dân Việt Nam.

Người dân Việt Nam từ ngàn xưa đến nay vốn giàu tình cảm. Những gì xảy ra hàng ngày xung quanh họ. Thiên nhiên, cuộc sống, công việc được cảm nhận với những cảm xúc sâu sắc ấy đã ngưng đọng lại thành những lời thơ lưu truyền rộng rãi mà ngày nay vẫn được giữ gìn: ca dao. Ca dao là một kho tàng phong phú những kinh nghiệm và cảm xúc của con người Việt Nam về cuộc sống, con người, tình cảm. Trong đó nổi lên một mảng bao gồm những bài ca dao về người lao động và công việc của họ:

Trâu ơi ta bảo trâu này:

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Cấy cày vốn nghiệp nông gia

Ta đây trâu đấy ai mà quản công.

Bao giờ cây lúa có bông

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Thông điệp được rút ra từ bài ca dao Trâu ơi là gì

Bài ca dao ấy là một điển hình của những bài ca dao lao động. Hãy cùng lắng nghe lời ca dao ấy để hiểu thêm về tâm hồn của người dân Việt Nam và những gì người xưa muốn gửi gắm đến chúng ta.

Mở đầu bài ca dao là tiếng gọi của người nông dân:

Trâu ơi ta bảo trâu này.

Hai tiếng Trâu ơi nghe'thật thân thiết, đầy tình cảm. Con trâu trong cuộc sống của người nông dân Việt Nam vốn là một yếu tố rất quan trọng.

Con trâu là đầu cơ nghiệp.

Nhưng dù vậy, con trâu vẫn chỉ là một con vật trung thành và giúp ích cho con người vậy mà ở đây hai tiếng Trâu ơi kia như xoá đi cái ranh giới chủ tớ giừa người nông dân với con trâu. Tiếng gọi như gọi một người bạn, một người thân và tiếp theo đó là người nhắn nhủ: Ta bảo trâu này. Đọc những lời này, người ta không cảm nhận gì khác hơn là một lời khuyên nhủ, nhắn gửi hết mực chân tình. Người nông dân bảo với trâu:

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Bảo trâu ra ngoài ruộng làm việc, người dân cày không dùng đến mệnh lệnh hoặc đòn roi mà là một lời nói thật chân tình. Nhất là từ với ta đầy thân thiết. Nó thể hiện sự gắn bó của người nông dân với công việc. Trâu cày với ta là sự chia sẻ của người nông dân với con trâu với con trâu trong những công việc cực khổ, nhọc nhằn như việc cày đồng. Nó càng chứng tỏ sự gần gũi giữa người lao động và con trâu, cái cày của họ, như một số câu ca dao khác cũng đã nói đến:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu.

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

Câu tiếp theo vẫn là lời khuyên nhủ chân thành của người nông dân:

Cấy cày vốn nghiệp nông gia,

Ta đây, trâu đấy ai mà quản công.

Người nông dân Việt Nam luôn gắn bó với ruộng đồng - Sự nghiệp cha truyền con nối: Cấy cày vốn nghiệp nông gia. Từ vốn càng nhấn mạnh hơn sự gắn bó đó giữa cái cày, cây lúa với người nông dân.

Thông điệp được rút ra từ bài ca dao Trâu ơi là gì

Ta đây, trâu đấy ai mà quản công – Mấy từ ta đây - trâu đấy nhịp nhàng, thể hiện sự gắn bó cũng trong công việc đồng áng, cùng với tiếng ai thể hiện sự trân trọng của người nông dân đối với con trâu, coi nó cũng như con người. Đặc biệt là cụm từ ai mà quản công nghe thân thương lạ. Nó như lời nói yêu thương dành cho một người bạn thân mật và đầm ấm. Hiểu sâu hơn, đây chính là lời nhắn gửi đến con người xưa và nay trong xã hội: lao động thì phải hết lòng, tận tụy, đừng nên tiếc công, ngại khó. Cùng nhau dốc sức làm việc thì mới mong có được thành quả:

Bao giờ cây lúa có bông

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Đây là lời hứa hẹn phần thưởng dành cho công sức lao động bỏ ra. Trâu giúp người cày cấy, người có được hạt lúa thơm thì trâu cũng được thưởng những ngọn cỏ tươi xanh. Đó chính là lời hứa hẹn đối với con người: cùng nhau lao động hết lòng, khi có được thành quả thì mỗi người đều được đền bù xứng đáng công lao của mình. Bài ca dao là một bài học kín đáo gởi gắm đến chúng ta của người xưa. Xuyên suốt bài ca dao là giọng điệu chân tình, nhắn nhủ, tâm sự, nhẹ nhàng mà thấm thía. Bên cạnh đó, sự có mặt của thanh bằng tràn ngập trong bài ca dao và những hình ảnh thân quen: trâu, cày, ruộng đồng, lúa, cỏ... góp phần tạo nên bức tranh thôn dã quen thuộc, êm đềm. Lời lẽ nhẹ nhàng, thân thiết bài ca dao thể hiện tâm hồn của người nông dân Việt Nam: nhân hậu, bao dung và tình yêu công viêc lao động của họ. Hơn thế nữa, bài ca dao giúp chúng ta hiểu hơn về giá trị của sự cần cù lao động trong cuộc sống mà chúng ta đã được biết một phần qua một số bài ca dao khác:

Cày đồng đang buổi ban trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi! Bưng bát cơm đầy,

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang

Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.

Đọc bài ca dao, tôi thấy mình như được trở về miền quê Việt Nam, ngồi trong bầu không khí đầy mùi thơm rơm rạ mà nghe tiếng hát những bài ca dao văng vẳng, càng thấm thía hơn bài học trong bài ca thôn dã ấy. Trải qua bao tháng năm, bài học ấy vẫn không bao giờ là cũ đối với con người ngày nay; Hãy làm việc hết mình để có được những thành quả xứng đáng như những người nông dân xưa kia đã làm. Như bao bài và câu ca dao khác, bài ca dao này cũng cho tôi thêm hiểu, thêm yêu con người Việt Nam và tiếp nhận một bài học thấm thía để rèn luyện bản thân mình.