Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13

Báo cáo vi phạm

Nội dung khiêu dâm

Vi phạm quyền của tôi

Chất lượng video kém, mờ

Mạng kém, bị loading và chập chờn

Nội dung bạo lực hoặc phản cảm

Nội dung kích động thù địch hoặc lạm dụng


Nếu bạn là chủ sở hữu video vui lòng làm theo hướng dẫn để thông báo về nội dung vi phạm bản quyền.

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13

 

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13

Hôm nay 13 tháng 4 năm 2012 (nhằm ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Thìn), các miếu thờ Bà Thiên Hậu trong thành phố đều lần lượt tổ chức lễ dâng hương mừng ngày vía của Bà.

Đây là lễ vía thần quan trọng nhất đối với đồng bào người Hoa tại thành phố Hồ Chí Minh, Bà là vị nhân thần cực kỳ nổi tiếng và có tầm quan trọng khá lớn trong tín ngưỡng dân gian. Bà được sinh ra trong một gia đình họ Lâm tại thôn Cảng Lý đảo My Châu huyện Phủ Điền tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), tương truyền mẹ của Bà do nằm mộng nuốt thuốc tiên của Quan Âm nên đã hạ sinh Bà, khi mới lọt lòng mẹ đến năm ba tuổi vẫn không cất một tiếng khóc nên được đặt tên là Lâm Mặc Nương.

Từ nhỏ Bà đã bộc lộ bản tính thông minh và rất thông thạo sông nước, tương truyền rằng năm 15 tuổi, Bà đã bắt đầu công việc cứu hộ tàu bè bị nạn trên quê hương của Bà, năm 16 tuổi nằm mộng cứu cha và anh khỏi bão tố trên biển và trị bệnh giúp dân. Sau khi qua đời, Bà vẫn tiếp tục các công việc cứu nạn, cứu ộ các ngư dân trên sông biển, người dân thường thấy BÀ hiển linh trên sóng nước với hình dạng của một thiếu nữ mặc áo đỏ, tay cầm đèn lồng màu đỏ để hướng dẫn ngư dân đến vùng an toàn tránh gió bão.

Cộng đồng người Hoa tại thành phố đa số là di dân phải vượt biển để đến vùng đất mới, trong quá trình vượt biển đầy khó khăn hiểm trở, trong tình cảm và tư tưởng của mình, Bà đã mặc nhiên trở thành người dẫn đường, người bảo hộ cho đồng bào người Hoa cập bến an toàn. Sau khi cập bến an toàn, người Hoa đã góp công góp của để xây dựng các miếu thờ Bà để tạ ơn Bà và mong muốn rằng Bà sẽ tiếp tục mang đến nhiều điềm lành, phúc lộc cho vùng đất mới cũng như việc làm ăn được thuận lợi.

C.Minh (Tin / Ảnh)

Đối với các định nghĩa khác, xem Chùa Bà.

Chùa Bà Thiên Hậu
Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Tôn giáo
Giáo pháiĐạo giáo
Phật giáo
Tín ngưỡng dân gian
Thờ phụngThiên Hậu nương nương
Vị trí
Vị tríChợ Lớn
Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh
Quốc gia
Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Việt Nam
Tọa độ địa lý10°45′10,48″B 106°39′40,22″Đ / 10,75°B 106,65°Đ
Kiến trúc
Người sáng tạoCộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn
Hoàn thànhKhoảng năm 1830

Chùa Bà Thiên Hậu hay còn gọi là chùa Bà Chợ Lớn, tên chữ Hán là Thiên Hậu miếu (天后廟), tiếng Quảng Đông Pò Mỉu (婆廟, Hán Việt: Bà Miếu), là một ngôi miếu thờ Thiên Hậu Thánh mẫu hiện tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh. Do bên cạnh miếu có Hội quán Tuệ Thành, Hội quán là nơi quy tụ của nhóm người Quảng Đông, nên chùa còn được gọi Tuệ Thành Hội quán (穗城會馆).

Đây là một trong những nơi thờ tự cổ nhất của người Hoa đã gây dựng trên đất Đề Ngạn xưa.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Chùa Bà Thiên Hậu vào năm 1866

Chùa Bà Thiên Hậu được nhóm người Hoa gốc Tuệ Thành (tức Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông) di dân sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng và được trùng tu nhiều lần. Do quá lâu đời và không có tài liệu cụ thể nên không biết chính xác hội quán được xây dựng vào năm nào. Tại Hội quán còn lưu giữ một đại hồng chung, đề "Đạo Quang năm thứ 10" tức làm vào năm 1830. Một bộ lư Pháp lam (cloisonne) vĩ đại, cũng đề một niên hiệu ấy.

Chùa nằm trong khu trung tâm của những người Hoa đầu tiên đến tạo lập nên Chợ Lớn sau này.

Sách Đại Nam nhất thống chí ghi: Cách huyện Bình Dương 12 dặm, ở phía tả và phía hữu đường quan lộ. Nơi chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc như hình chữ "điền", nhà cửa phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người Hán, người Thổ ở chung lộn dài độ 3 dặm, đủ cả hàng hóa trăm thức,... đầu phía bắc đường lớn có đền Quan Công, quán Tam Hội, xây cất đối nhau phía tả và phía hữu. Phía tây đường lớn có chùa Thiên Hậu, gần phía tây có Ôn Lăng Hội Quán...

Sự tích bà Thiên Hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Chính điện thờ Bà Thiên hậu.

Theo học giả Vương Hồng Sển thì Thiên Hậu Thánh mẫu (vị thần được thờ chính trong chùa) có tên là Lâm Mặc Nương, người đảo Mi Châu, thuộc Bồ Dương (Phước Kiến). Bà sinh ngày 23 tháng 3 năm Giáp Thân (1044), đời vua Tống Nhân Tông. Sau đó, 8 tuổi bà biết đọc, 11 tuổi bà tu theo Đạo giáo. 13 tuổi, bà thọ lãnh thiên thơ: thần Võ Y xuống cho một bộ "Nguyên vị bí quyết" và bà tìm được dưới giếng lạn một xấp cổ thư khác, rồi coi theo đó mà luyện tập đắc đạo.

Một lần, cha bà tên Lâm Tích Khánh ngồi thuyền cùng 2 con trai (2 anh của bà), chở muối đến tỉnh Giang Tây để buôn, giữa đường thuyền lâm bão lớn... Lúc đó bà đang ngồi dệt vải cạnh mẹ nhưng xuất thần để đi cứu cha và 2 anh. Bà dùng răng cắn được chéo áo của cha, 2 tay nắm 2 anh, giữa lúc đó mẹ kêu gọi bà, buộc bà phải trả lời, bà vừa hở môi trả lời thì sóng cuốn cha đi mất dạng, chỉ cứu được 2 anh. Từ đó mỗi khi thuyền bè ngoài biển bị nạn người ta đều gọi vái đến bà. Năm Canh Dần (1110) nhà Tống sắc phong cho bà là "Thiên Hậu Thánh Mẫu" [1]

Kiến trúc[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa xây theo hình ấn, là kiểu kiến trúc đặc trưng của người Hoa, đây là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ba dãy nhà ở giữa tạo thành tiền điện, trung điện và hậu điện. Giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), giúp không gian chùa thoáng đãng, đủ ánh sáng cho hậu cung và có chỗ thoát khói hương.

Trang trí ở các điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc "tứ linh".

Chùa có gắn các tượng tròn, phù điêu bằng gốm dày đặc từ trên nóc chùa, mái, hiên chùa cho đến các bàn thờ, vách tường... do 2 lò gốm Bửu Nguyên và Đồng Hòa sản xuất vào năm 1908.

Kiến trúc độc đáo này được Vương Hồng Sển khen ngợi:

... Chùa ngày nay như ta thấy, toàn xây bằng vật liệu bên Tàu đem qua, từ viên gạch, tấm ngói, đến những đồ gốm gắn trên mái nóc đều do thuyền buồm chở sang đây, đến cách thức phong tô cũng giữ y thể thức Tàu, gạch xây liền mí không tô hồ, đếm rỡ từng tấm một, lằn hồ thẳng đường thẳng lối khít rịt và ngay bon như vẽ, thiệt là rất khéo và tưởng chừng thợ kim thời khó làm sắc sảo hơn được nữa. Truy ra chùa nầy trùng tu năm 1860 (Hàm Phong năm thứ 10). Ngày nay đứng sân chùa ngắm lên các cảnh chưng trên nóc bằng đồ gốm nung bên Tàu là biết được những phong tục Trung Hoa cổ thời, thuở vua chúa còn trị vì: đả võ đài, thi đậu vinh quy, công chúa tuyển phò mã, v.v... những vật này đáng được liệt kê vào sổ cổ tích vậy.

Thờ cúng[sửa | sửa mã nguồn]

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Cúng bái.

Tiền điện là hai tran thờ hai bên: Phúc Đức Chánh thần (phải) và Môn Quan Vương Tả (trái). Tại đây có bia đá ghi truyền thuyết về Thiên Hậu Thánh Mẫu và các bức tranh lớn vẽ cảnh bà đang hiển linh trên sóng nước.

Trung điện đặt bộ lư có năm món (ngũ sự) đúc năm Quang Tự thứ 12 (1886).

Chính điện, được gọi là Thiên hậu Cung, gian giữa thờ Bà Thiên Hậu, hai bên thờ bà Kim Hoa Nương Nương (phía phải) và Long Mẫu Nương Nương (phía trái).

Được biết pho tượng Bà Thiên Hậu tạc từ một khối gỗ nguyên cao 1m, có từ khá lâu, trước khi xây chùa, vốn được thờ ở Biên Hòa và đến năm 1836 mới di chuyển về đây. Hai pho tượng còn lại bằng cốt giấy sơn màu. Các pho tượng đều được khoác áo thêu lộng lẫy. Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài.

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Bàn thờ cúng.

Chùa Bà Chợ Lớn hàng ngày vẫn đón tiếp những người đến cúng lễ khá đông. Nhưng đông hơn là vào các ngày mùng một và rằm hàng tháng, các ngày lễ Tết trong năm của người Hoa như Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên tiêu, Tết Đoan ngọ... Đặc biệt, ngày 28 Tết, chùa tiến hành lễ cúng Bà và Lễ khai ấn, cầu mong Bà phò trợ cho "Hộ quốc an dân" và "Hợp cảnh bình an". Riêng ngày vía Bà (23 tháng 3 [âm lịch]) được xem là ngày hội chính của chùa.

Vào ngày này, bà con người Hoa, người Việt đến cúng lễ rất đông. Ngay từ đêm hôm trước tại chùa đã cử hành Lễ tắm Bà. Sáng ngày 23, mọi người lại tổ chức Lễ rước Bà: Tượng Bà được đặt vào kiệu do các thanh niên nam nữ ăn mặc đẹp đẽ diễu qua các đường phố quanh chùa. Theo sau kiệu có thuyền rồng, các tấm bảng đỏ ghi tên các vị thần được thờ phụng trong chùa, các đội múa gồm: múa lân, múa sư tử, múa rồng, các đội nhạc dân tộc vừa biểu diễn vừa múa hát, tạo nên một quang cảnh náo nhiệt trong các khu phố đông đảo người Hoa...

Cổ vật quý[sửa | sửa mã nguồn]

Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Bộ lư lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886)

Chính điện chùa còn 2 đại đồng chung niên hiệu Càn Long năm thứ 60 (1796) và Đạo Quang năm thứ 10 (1830). Trung điện có bộ lư phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886). Trong tủ kính lớn ở chính điện là tượng Bát Tiên và tướng lĩnh của D'Ariès vào năm 1860 cấm các binh sĩ Phú Lang Sa và Y Pha Nho phá phách. 2 bên bộ lư là kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt, dành rước Bà vào ngày vía Bà với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân, rước theo cùng với kiệu Bà.

Ngoài ra, chùa còn khoảng 400 đồ cổ, trong đó có 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối và 41 tranh nổi... Tất cả những cổ vật này đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.

Giá trị[sửa | sửa mã nguồn]

Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa miếu có lịch sử lâu đời nhất của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hiện vật cổ, nơi đây còn có một giá trị khác: đó không chỉ là nơi đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng mà còn là nơi qui tụ và tương trợ lẫn nhau của bà con người Quảng Đông.

Sự tích Bà Thiên Hậu, qua người kể đôi khi có ít nhiều dị biệt nhưng chủ yếu vẫn là đề cao một người phụ nữ Hoa có lòng hiếu thảo, đức hạnh, dám xả thân vì mọi người... Sự đề cao này nhằm mục đích giáo dục.

Mặt khác trên bước đường nguy nan, nhiều sóng gió [2] khi sang vùng đất mới để mưu sinh, người Hoa tin tưởng sự hiển linh của bà sẽ giúp họ vượt qua được mọi trở ngại và được an cư lạc nghiệp. Để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với sự phù trợ của Bà, Chùa Bà Thiên Hậu có vị trí quan trọng đối với người Hoa và cả người Việt.

Chùa Bà được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 7 tháng 1 năm 1993.

Thông tin thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Các cơ sở hoạt động từ thiện xã hội của chùa Bà Thiên Hậu là Trường THCS Mạch Kiếm Hùng và bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Chùa cũng là nơi dung chứa ông Mạch Kiếm Hùng, một chiến sĩ cách mạng.

Ngoại trừ chùa Bà Thiên Hậu Chợ Lớn, ở Thành phố Hồ Chí Minh có ít nhất 6 nơi khác cũng thờ bà Thiên Hậu: Miếu Thiên Hậu (134 Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1), Quảng Triệu hội quán (122 Võ Văn Kiệt, quận 1), Quỳnh Phủ hội quán (276 Trần Hưng Đạo, quận 5), Tam Sơn hội quán (116 Triệu Quang Phục, quận 5), Hà Chương hội quán (802 Nguyễn Trãi, quận 5), Quần Tân hội quán (2 Lý Thường Kiệt, quận Gò Vấp).

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Xem chi tiết trong Sài Gòn năm xưa, (tr. 201-202). Có nguồn kể khác, xem thêm trang Thiên Hậu Thánh mẫu.
  2. ^ Thời trước, người Hoa sang Việt Nam bằng tàu chạy buồm.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kiến thức phục vụ thuyết minh du lịch (Giáo trình Trường Đào tạo nghiệp vụ du lịch Sài Gòn), Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
  • Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
  • Nhiều tác giả, Hỏi đáp về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (tập 6), Nhà xuất bản trẻ, 2006.
  • Lê Quang Ninh, Stéphane Dovert, Sài Gòn – Ba thế kỷ phát triển và xây dựng, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
Một số chùa miếu của người Việt gốc Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thiên Hậu thánh mẫu Tập 13
Miếu Nhị Phủ · Hội quán Hà Chương · Hội quán Ôn Lăng · Đình Minh Hương Gia Thạnh · Chùa Bà Thiên Hậu · Chùa Ông · Hội quán Quỳnh Phủ · Hội quán Tam Sơn · Hội quán Phước An · Chùa Ngọc Hoàng