Thành nhà hồ ở đâu

Ngày 27 tháng 6 năm 2011, tại Kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản Thế giới ở Paris, Cộng hòa Pháp, Ủy ban Di sản Thế giới đã chính thức quyết định đưa Di tích Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa) vào Danh mục Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới.

Với tư cách là quốc gia thành viên Công ước UNESCO 1972 về việc Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên của thế giới, đoàn Việt Nam tham dự kỳ họp này có đại diện của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao, UBND tỉnh Thanh Hóa cùng một số tỉnh/thành phố có Di sản Thế giới ở Việt Nam. Là kinh đô của nhà Hồ, Thành được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, còn được gọi là Tây Đô để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Sau khi xây thành, Hồ Quý Ly đã dời đô từ Thăng Long về Tây Đô. 4 bên mặt thành được bao quanh bằng tường đá với tổng khối lượng đá xây thành khoảng 20.000m3 và gần 100.000m3 đất được đào đắp. Ngay từ đợt công nhận đầu tiên các di tích có giá trị cao, đặc biệt quan trọng của đất nước vào năm 1962, Di tích Thành Nhà Hồ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia. Kể từ đó tới nay, đã có thêm 02 di tích nữa thuộc khu vực này được công nhận cấp quốc gia, là: Đàn Nam Giao và La Thành. Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ bao gồm 3 di tích nói trên cùng với di tích hào thành, các di tích khảo cổ dưới lòng đất, các làng cổ, các di tích chùa đền, hang động, toàn bộ cảnh quan núi non, sông nước liên quan tới Thành Nhà Hồ. Để trở thành Di sản văn hóa Thế giới, Thành Nhà Hồ được đánh giá có giá trị nổi bật toàn cầu trên 3 cột trụ chính là: 1- Về Tiêu chí giá trị nổi bật toàn cầu: Thành Nhà Hồ đạt 2 tiêu chí sau: Tiêu chí ii: Khu di sản Thành Nhà Hồ là biểu hiện rõ rệt những sự giao thoa trao đổi quan trọng các giá trị nhân văn giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á vào cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV. Nơi mở đầu cho việc tiếp thu các tư tưởng tích cực của Nho Giáo thực hành (Trung Quốc) nở rộ từ thời Lê Sơ kéo dài đến đầu thế kỷ XX. Những tư tưởng ấy kết hợp với các đặc điểm của văn hóa Việt Nam và khu vực được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nhằm đưa đất nước đạt tới các thành tựu mới văn minh hơn, tích cực hơn, đem lại nhiều lợi ích hơn cho người dân, đáp ứng các yêu cầu đổi mới cấp bách của Việt Nam. Tất cả được thể hiện nổi trội và duy nhất ở Thành Nhà Hồ trên các phương diện thiết kế cảnh quan đô thị, kiến trúc thành đá, kỹ thuật xây dựng đá lớn và các ảnh hưởng tác động lẫn nhau nhiều chiều của khu di sản tới kỹ thuật xây dựng thành quách sau đó ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Tiêu chí iv: Khu di sản vừa là ví dụ nổi bật về một kiểu kiến trúc Hoàng thành biểu tượng cho quyền lực Hoàng gia tiêu biểu ở phương Đông, vừa là một pháo đài quân sự bề thế, chắc chắn, uy nghiêm. Thành Nhà Hồ là biểu hiện tiêu biểu của sự kết hợp hài hòa giữa các công trình xây dựng và cảnh quan thiên nhiên, tiêu biểu cho sự vận dụng quan niệm xây dựng theo phong thủy và cảnh quan văn hóa tại khu vực di sản. Kỹ thuật xây dựng đá lớn độc đáo, duy nhất của Việt Nam được thấy ở đây, đã được kết hợp một cách sáng tạo, tài tình với truyền thống kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng ở Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á, với một hệ thống thao tác kỹ thuật thủ công liên hoàn như khai thác đá, gia công đá, vận chuyển các khối đá nặng từ 10 tấn đến 26 tấn, xử lý móng nền đá, nâng các khối đá lớn lên độ cao trên 10m, vừa đảm bảo được công năng kiến trúc vừa đáp ứng yêu cầu mỹ thuật cần thiết của một đô thành. Kỹ thuật xây dựng thành công các bức tường thành bằng đá lớn đã phát huy ảnh hưởng của nó tới kỹ thuật xây dựng nhiều tòa thành sau đó ở khu vực, nhưng kỳ vĩ nhất, đặc sắc nhất chỉ có Thành Nhà Hồ vốn được xem như một hiện tượng đột khởi “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử xây dựng kiến trúc thành quách Việt Nam và khu vực. 2- Về tính toàn vẹn và tính xác thực: Khu di sản đã đáp ứng những yêu cầu cơ bản về tính toàn vẹn, tính xác thực được nêu trong Hướng dẫn thực hiện Công ước UNESCO 1972 về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên Thế giới. 3- Về công tác quản lý: Ngày 21/9/2010, ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định số 3341/QĐ-UBND thành lập Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ với chức năng quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản Thành Nhà Hồ. Trước đó, ngày 08/02/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cũng đã ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích Thành Nhà Hồ và các di tích phụ cận. Những văn bản này cùng với Luật di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở quan trọng để bảo vệ, quản lý tốt di tích Thành Nhà Hồ. Tuy nhiên, để bảo tồn bền vững Di sản Thành Nhà Hồ, chúng ta còn phải tích cực hơn nữa nhằm đưa ra các giải pháp phù hợp trong công tác quản lý, bảo vệ, gìn giữ sự toàn vẹn và tính xác thực của Di sản theo quy định của Công ước UNESCO 1972.

Trên cơ sở đề nghị của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Thành Nhà Hồ đã được Chính phủ cho phép chuẩn bị hồ sơ kể từ tháng 01 năm 2006. Từ đó tới nay, với sự quyết tâm của các cấp chính quyền cùng nhân dân tỉnh Thanh Hóa, các Bộ, ngành và các nhà khoa học của Việt Nam, Thành Nhà Hồ đã chính thức được vinh danh trên toàn thế giới, thể hiện những bước đi vững chắc của chúng ta trong công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị đối với di tích đặc biệt quan trọng này.

| Chào mừng bạn đến với Thành Nhà Hồ

Nằm trên địa phận tỉnh Thanh Hóa, thành nhà Hồ hay còn gọi là thành Tây Đô thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, cách thành phố Thanh Hóa 45 km theo hướng quốc lộ 45, được xem là tòa thành kiên cố có kiến trúc độc đáo bằng đá, quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam. Là kinh đô nước Đại Ngu, dù chỉ tồn tại trong bảy năm (1400 - 1407) nhưng nơi đây từng là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội của nước ta.

| Cho chuyến đi tuyệt vời hơn:

Một di sản văn hóa thế giới của nước ta được công nhận vào năm 2011. Nơi đây thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan. Đến đây du khách được khám phá tòa thành lịch sử, cảm nhận sự kiên cường ở phía chân tòa thành.

Thành nhà hồ ở đâu

Tòa thành được xây chủ yếu bên ngoài là đá, bên trong là đắp đất, hai mặt Nam và Bắc của thành dài hơn 900m, phía Đông - Tây dài hơn 700m. Đến đây du khách được chiêm ngưỡng một không gian tường thành kiên cố, vững chắc bao bọc xung quanh.

Thành nhà hồ ở đâu

Ở phía Nam thành còn có đàn tế Nam Giao, đây là kiến trúc đàn tế hoành tráng, được trang trí khá độc đáo. Phía Đông của thành có đền thờ nàng Bình khương, Đình Đông Môn. Phía Tây có nhà cổ gia đình ông Phạm Ngọc Tùng. Phía Nam có đền Tam Tổng - di tích văn hóa cấp tỉnh năm 1992. Hướng Tây Bắc có Hồ Mỹ Đàm với nhiều loài sinh vật độc đáo nổi tiếng; Hang Nàng trên núi An Tôn. Phía Đông Nam có chùa Giáng - di tích lịch sử quốc gia 2009; đền thờ Trần Khát Chân - di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gian 2001. Phía Tây Nam có chùa Du An - di tích lịch sử văn hóa Quốc gia năm 2009; động Hồ Công - di sản văn hóa vô cùng quý giá cùng những di văn Hán được khắc trên vách động.

Thành nhà hồ ở đâu

Thành nhà hồ ở đâu

Ngoài ra đến với thành nhà Hồ du khách được chiêm ngưỡng những hiện vật liên quan đến Triều Hồ: những viên gạch bìa bằng đất nung, những ngói múi, ngói bò dùng để trang trí mái; các loại vũ khí như đạn đá, công sắt, mũi dao, mũi tên,...với những hoa văn tinh xảo.

Thành nhà hồ ở đâu

Thành nhà Hồ sẽ là địa điểm khám phá lịch sử, khảo cổ học thú vị đối với những du khách yêu sử sách Việt Nam. Du khách nên đến đây để tận mắt thấy kiến trúc của những tòa thành thời xa xưa.

Ảnh: Internet

Tài liệu: tổng hợp

Đang cập nhật khách sạn gần Thành Nhà Hồ

Có thể bạn quan tâm

Mời bạn tham khảo các tour đang HOT giá RẺ

Thành nhà hồ ở đâu

Thành nhà hồ ở đâu

Thành nhà hồ ở đâu

Thành nhà hồ ở đâu


Hồ Quý Ly trước có tên là Lê Quý Ly. Ông sinh năm Bính Tý (1336), quê ở Đại Lại, Vĩnh Lộc (nay là Hà Đông, Hà Trung, Thanh Hóa) Nhà Hồ do Hồ Quý Ly, một đại quý tộc và đại thần nhà Trần thành lập. Từ năm 1371, Hồ Quý Ly, khi đó mang họ Lê, được tham gia triều chính nhà Trần, được vua Trần Nghệ Tông đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh. Thời hậu kỳ nhà Trần, mọi việc chính sự do Thượng hoàng Trần Nghệ Tông quyết định. Trần Nghệ Tông lại rất trọng dụng Hồ Quý Ly nên khi về già thường ủy thác mọi việc cho Quý Ly quyết định. Dần dần binh quyền của Quý Ly ngày một lớn. Năm 1394 Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, nắm trọn quyền hành trong nước. Sau khi vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu (Ngu có nghĩa Yên Vui), lập nên nhà Hồ. Hổ Quý Ly từ khi nắm quyền lực của triều Trần cho đến khi sáng lập vương triều mới đã ban hành và thực thi một loạt chính sách cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, giáo dục nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng của chế độ quân chủ cuối triều Trần, củng cố chính quyền trung ương và chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Minh. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn với một hệ thống chính sách và biện pháp khá toàn diện, táo bạo. Năm 1407 nhà Minh lấy cớ Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần, đem 80 vạn quân sang đánh chiếm nước ta. Nhà Hồ đã đánh trả quyết liệt nhưng vẫn thất bại. Bố con Hồ Quý Ly bị bắt ngày 17/6/1407 kết thúc 7 năm ngắn ngủi của Nhà Hồ Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở tại Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Thành được xây dựng trong thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397) và cho đến nay, dù đã tồn tại hơn 6 thế kỷ nhưng một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn. Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ). Thành xây trên địa phận hai thôn Tây Giai, Xuân Giai nay thuộc xã Vĩnh Tiến và thôn Đông Môn nay thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Thành Tây Đô được xây vào năm 1397 dưới triều Trần do quyền thần Hồ Quý Ly chỉ huy, người không lâu sau (1400) lập ra nhà Hồ. Theo sử sách, Người quyết định chủ trương xây dựng là Hồ Quý Ly, lúc bấy giờ cương vị Tể tướng, nắm giữ mọi quyền lực của triều đình. Hồ Quý Ly xây thành làm kinh đô mới với tên Tây Đô, nhằm buộc triều Trần dời đô vào đấy trong mục tiêu chuẩn bị phế bỏ vương triều Trần. Tháng 3 năm 1400, vương triều Hồ thành lập (1400- 1407) và Tây Đô là kinh thành của vương triều mới, thành Thăng Long đổi tên là Đông Đô. Vì vậy thành Tây Đô được dân gian quen gọi là Thành nhà Hồ. Các cấu trúc khác như các cung điện, rồi La Thành phòng vệ bên ngoài, đàn Nam Giao... còn được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cho đến năm 1402. Thành Tây Đô ở vào địa thế khá hiểm trở, có lợi thế về phòng ngự quân sự hơn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá. Vị trí xây thành đặc biệt hiểm yếu, có sông nước bao quanh, có núi non hiểm trở, vừa có ý nghĩa chiến lược phòng thủ, vừa phát huy được ưu thế giao thông thủy bộ. Như mọi thành quách bấy giờ, thành bao gồm thành nội và thành ngoại. Thành ngoại được đắp bằng đất, trên trồng tre gai dày đặc cùng với một vùng hào sâu có bề mặt rộng gần tới 50m bao quanh. Bên trong thành ngoại là thành nội có mặt bằng hình chữ nhật chiều Bắc - Nam dài 870,5m, chiều Đông - Tây dài 883,5m. Mặt ngoài của thành nội ghép thẳng đứng bằng đá khối kích thước trung bình 2 m x một m x 0,70 m, mặt trong đắp đất. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng tiền - hậu - tả - hữu. Trong đó to nhất là cửa chính Nam, gồm 3 cửa cuốn dài 33,8 m, cao 9,5 m, rộng 15,17 m. Các phiến đá xây đặc biệt lớn (dài tới 7 m, cao 1,5 m, nặng chừng 15 tấn). Các cung điện, dinh thự trong khu vực thành đã bị phá huỷ Thành Tây Đô thể hiện một trình độ rất cao về kĩ thuật xây vòm đá thời bấy giờ. Những phiến đá nặng từ 10 đến 20 tấn được nâng lên cao, ghép với nhau một cách tự nhiên, hoàn toàn không có bất cứ một chất kết dính nào. Trải qua hơn 600 năm, những bức tường thành vẫn đứng vững. Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ còn là dấu ấn văn hóa nổi bật của một nền văn minh tồn tại tuy không dài, nhưng luôn được sử sách đánh giá cao. Sau 6 năm (2006 - 2011) xây dựng hồ sơ và đệ trình UNESCO, ngày 27/6/2011 tại kỳ họp thứ 35 được tổ chức tại Paris (Cộng Hòa Pháp), Ủy ban Di sản Thế giới đã chính thức công nhận Thành Nhà Hồ trở thành di sản văn hoá thế giới.

Toàn bộ khu di sản được bảo tồn toàn vẹn theo Luật pháp của Nhà nước Việt Nam và qui định của Unesco.


Nếu hữu ích xin bạn 1 Like cho bài viết này. Cảm ơn bạn nhiều!