So sánh thành phố quảng ngãi và quy nhơn năm 2024

Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 thực hiện theo Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 26/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã được Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Bình Định đã thực hiện hoàn thành theo đúng Phương án Tổng điều tra được quy định tại Quyết định số 01/QĐ-BCĐTW ngày 15/8/2018 của Trưởng ban Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương.

So sánh thành phố quảng ngãi và quy nhơn năm 2024

Cuộc Tổng điều tra năm 2019 thực hiện trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ; đây là cuộc Tổng điều tra đầu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các công đoạn, đặc biệt là công đoạn thu thập thông tin tại địa bàn với hình thức thu thập thông tin chủ yếu điều tra bằng phiếu điện tử trên thiết bị di động. Tỉnh Bình Định đến nay cơ bản hoàn thành Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, đây là một kỷ lục của Tổng điều tra dân số, thời gian rất ngắn đã công bố được kết quả cuộc Tổng điều tra, sớm hơn một năm so với phương pháp truyền thống. Kết quả sơ bộ Tổng điều tra năm 2019 được tổng hợp từ cơ sở dữ liệu của Tổng điều tra. Dữ liệu này đã được Ban Chỉ đạo tỉnh, trung ương kiểm tra, hoàn thiện theo đúng quy trình nghiệp vụ điều tra thống kê. Dân số xếp thứ 20 cả nước, thứ 4 vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Tổng số dân số của tỉnh Bình Định vào thời điểm 0 giờ ngày 01/4/2019 là 1.486.918 người; trong đó, nam 732.087 người, chiếm 49,23%; nữ 754.831 người, chiếm 50,77%. Tỷ lệ này của toàn quốc, nam chiếm 49,76%, nữ chiếm 50,24%. Với kết quả này Bình Định có số dân đông thứ 20 cả nước; đứng thứ 4 vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và đứng thứ 2 vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Sau 10 năm, quy mô dân số tỉnh Bình Định chỉ tăng thêm 453 người. Tỷ lệ dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 là 0,0031%/năm, giảm so với 10 năm trước 0,167% (tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 1999-2009 là 0,17%/năm). Mật độ dân số xếp thứ 3 vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: Tỉnh Bình Định là một trong các tỉnh đông dân, mật độ dân số 244,9 người/km2 (năm 2009: 244,8 người/ km2); trong khi đó, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 211,0 người/km2, vùng trọng điểm kinh tế miền Trung 231,0 người/km2; cao hơn mật độ dân số tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi lần lượt: 14,9 người/km2, 103,9 người/km2, 5,9 người/km2. Qua kết quả Tổng điều tra cho thấy mật độ dân số tỉnh Bình Định cao hơn các vùng lân cận và ổn định qua các năm, xếp thứ 33 cả nước, thứ 3 vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và đứng thứ 2 vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Dân cư tỉnh Bình Định vẫn lựa chọn vùng đồng bằng làm nơi sinh sống, vì vùng này có điều kiện sinh sống, sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn hẳn các vùng khác; vùng đồng bằng có mật độ dân số 497,9 người/km2, cao hơn vùng trung du 358,4 người/km2, vùng miền núi 459 người/km2. Cao nhất là thành phố Quy Nhơn 1.013,8 người/km2, tiếp đến 2 huyện, thị xã gần thành phố Quy Nhơn là huyện Tuy Phước 819,4 người/km2 và thị xã An Nhơn 718,6 người/km2; các huyện đồng bằng thuộc phía Bắc của tỉnh có mật độ dân số thấp hơn nhiều so các huyện đồng bằng phía Nam của tỉnh: huyện Hoài Nhơn 494,3 người/km2, Phù Mỹ 290,6 người/km2, Phù Cát 269,5 người/km2; thấp nhất là huyện Vân Canh 34,7 người/km2. Có thể thấy, mật độ dân số ở Bình Định khá cao, nhưng phân bố dân số không đồng đều; khoảng cách về dân số giữa thành phố/huyện/thị xã, giữa thành thị và nông thôn còn khá lớn với xu hướng tiếp tục gia tăng. Tỷ số giới tính: Tỉnh Bình Định 97,0 nam/100,0 nữ; Tỷ số này của cả nước là 99,1 nam/100 nữ, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 99,2 nam/100 nữ, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 97,5 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính của dân số tỉnh Bình Định liên tục tăng nhưng luôn ở mức dưới 100 kể từ Tổng điều tra năm 1989 đến nay (năm 1989: 90,4 nam/100 nữ; năm 1999: 93,8 nam/100 nữ; 2009: 95,1 nam/100 nữ). Như vậy, có thể sơ bộ đánh giá tỷ lệ dân số nam so với nữ của tỉnh Bình Định thấp hơn so với cả nước và các tỉnh do nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân chính là việc di dân của lao động nam giới đi làm ăn ở ngoài tỉnh diễn ra nhiều hơn nữ. Có sự khác biệt đáng kể về tỷ số giới tính giữa các vùng. Miền núi có tỷ số giới tính cao nhất, tiếp đến trung du, tương ứng là 97,2 nam/100 nữ, 96,3 nam/100 nữ và thấp nhất đồng bằng, chỉ là 94,8 nam/100 nữ. Nhìn chung, tỷ số giới tính của Bình Định có xu hướng tăng dần nhưng vẫn thấp hơn tỷ số chung của cả nước (99,1 nam/100 nữ). Tình trạng hôn nhân của dân số từ 15 tuổi trở lên: Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỷ lệ dân số của Bình Định từ 15 tuổi trở lên đang có vợ chồng chiếm 69,3%; ly thân hoặc ly hôn chiếm 1,7%. Tỷ lệ này tương đối đồng đều với tỷ lệ người đang có vợ/chồng chiếm 69,2%; đã ly hôn hoặc ly thân chiếm 2,1% của cả nước. Theo số liệu Tổng điều tra, trong 10 năm qua tỷ lệ người ly hôn của Bình Định tăng từ 0,7% lên 1,4%. Mức thay đổi không quá lớn nhưng cũng phản ánh thực trạng ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa khi điều kiện kinh tế - xã hội nâng lên. Phân bố dân cư: Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, Bình Định có 474.587 người ở khu vực thành thị, chiếm 31,9% tổng dân số; 1.012.331 người ở khu vực nông thôn, chiếm 68,1%. Sau 10 năm, tỷ lệ dân số thành thị tăng 4,2 điểm phần trăm. Tuy nhiên, tỷ lệ dân số khu vực thành thị tỉnh Bình Định vẫn đang ở mức thấp so cả nước và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là 2,5%, 8,3%. Trong 10 năm qua, dưới tác động tích cực của nền kinh tế và quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh cùng với việc huyện An Nhơn lên Thị xã An Nhơn vào ngày 01/01/2012; tỷ lệ tăng dân số bình quân khu vực thành thị giai đoạn 2009-2019 là 1,42%/năm; ngược lại, khu vực nông thôn giai đoạn này giảm 0,59%/năm. Phân bố dân cư giữa các vùng trong tỉnh có sự khác biệt đáng kể. Vùng đồng bằng vẫn là nơi tập trung dân cư đông nhất với 1.198.951 người, chiếm 80,6%, riêng thành phố Quy Nhơn – trung tâm kinh tế hành chính của tỉnh có 290.053 người, chiếm 19,5%; tiếp đến là vùng trung du có 201.668 người sinh sống, chiếm 13,6%. Vùng miền núi là nơi có ít dân cư sinh sống nhất với 86.299 người, chiếm 5,8% dân số của tỉnh. Dân số theo nhóm dân tộc: Toàn tỉnh có 1.445.150 người dân tộc Kinh, chiếm 97,2% và 41.768 người dân tộc khác, chiếm 2,8% tổng dân số của cả tỉnh. Trong 10 năm qua. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm của nhóm dân tộc khác 1,91%/năm, cao hơn bình quân chung của tỉnh 1,907%/năm, cao hơn nhóm dân tộc Kinh 1,96%/năm. Hộ dân cư: Toàn tỉnh Bình Định có 434.379 hộ, tăng 38.366 hộ (+9,7%) so với năm 2009; trong đó: khu vực thành thị 135.870 hộ, tăng 24.260 hộ (+21,7%); khu vực nông thôn 298.509 hộ, tăng 14.106 hộ (+5,0%). Tỷ lệ tăng số hộ dân cư giai đoạn 2009-2019 là 9,69%; bình quân mỗi năm tăng 0,93%/năm, thấp hơn 1,34 điểm phần trăm so với giai đoạn 1999-2009 và là giai đoạn có tỷ lệ tăng số hộ dân cư thấp nhất trong vòng 20 năm qua. Bình quân mỗi hộ là 3,4 người/hộ, thấp hơn 0,4 người/hộ so với năm 2009; trong đó: khu vực thành thị 3,5 người/hộ, thấp hơn 0,3 người/hộ; khu vực nông thôn 3,4 người/hộ, thấp hơn 0,4 người/hộ. Vùng đồng bằng và miền núi của tỉnh, quy mô hộ bình quân 3,4 người/hộ; trung du 3,2 người/hộ. Quy mô hộ bình quân của tỉnh là từ 2 đến 4 người/hộ, chiếm 68,7% tổng số hộ; trong khi đó, cả nước 65,5%, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 64,3%, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 64,6%. - Diện tích nhà ở bình quân 25,7 m2/người; trong đó khu vực thành thị 26,8 m2/người, khu vực nông thôn 25,2 m2/người. Hiện nay, tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố và bán kiên cố của toàn tỉnh là 99,0%, cao hơn tỷ lệ của cả nước và vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung lần lượt: 5,9% và 1,7%. Giáo dục: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết tăng mạnh sau 10 năm từ 2009 đến 2019; tỉnh Bình Định có 97,2% dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết, cao hơn 1,4 điểm phần trăm so với cả nước và 1,0 điểm phần trăm so với vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung. Trong 10 năm, tỷ lệ biết đọc biết viết của nữ 96,1%, thấp hơn nam 2,3% nhưng cao hơn 2,26% so năm 2009; khoảng cách tỷ lệ biết đọc biết viết giữa nam và nữ vẫn còn độ chênh lệch khá cao. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học không đi học ở khu vực nông thôn cao gấp 1,5 lần so với khu vực thành thị, tương ứng là 7,1% và 4,6%. Tỷ lệ không đi học của dân số nữ cao hơn dân số nam, tương ứng là 6,3% và 4,6%. Năm 2009, tỷ lệ dân số nữ trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học là 9,79%, thấp hơn tỷ lệ dân số nam trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học 2,5 điểm phần trăm và cao gấp 2,1 lần tỷ lệ này của nữ trong năm 2019. Điều này chứng tỏ sự bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục đã đem lại kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ biết đọc biết viết của khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn do có khoảng cách về sự phát triển của 2 khu vực này. Để đạt được thành quả trên, nhờ có các chính sách phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ nên khoảng cách tỷ lệ giữa 2 khu vực đang dần thu hẹp khoảng cách, với nữ chênh lệch 2%, thấp hơn mức chênh lệch 2,5 điểm phần trăm năm 2009. Thành phố Quy Nhơn và thị xã An Nhơn có tỷ lệ biết đọc biết viết cao nhất (98,8%); tiếp theo là huyện Tuy Phước 98,5%; 3 huyện miền núi tỷ lệ còn thấp: Vĩnh Thạnh 91,9%, An Lão 89,9%, Vân Canh có tỷ lệ thấp nhất tỉnh (86,4%). Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, tỉnh Bình Định có khoảng 92% (cả nước 91,7%, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 93,3%, vùng trọng điểm miền Trung 93,9%) dân số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện đang đi học. Trong 10 năm qua, tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng hiện không đi học (chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học) giảm đáng kể, từ 12,69% năm 2009 xuống còn 8% năm 2019. Nhà ở: Trong vòng 10 năm qua, tỉnh Bình Định đã thực hiện nhiệm vụ, giải pháp phát triển nhà ở trên địa bàn tỉnh. Từ kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy, điều kiện nhà ở của các hộ dân cư đã được cải thiện rõ rệt, nhất là khu vực thành thị. Hầu hết các hộ dân cư đều có nhà ở kiên cố và bán kiên cố; diện tích nhà ở bình quân dầu người đều tăng lên đáng kể. Kết quả sơ bộ Tổng điều tra năm 2019 chia nhà ở dân cư thành hai loại nhà: Nhà kiên cố và bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố và đơn sơ. Phân loại nhà ở được thực hiện dựa trên chất lượng vật liệu của ba bộ phận cấu tạo chính (kết cấu chính) của một ngôi nhà, gồm: cột (trụ, tường chịu lực), mái, tường. Nhà kiên cố và bán kiên cố là nhà có từ hai kết cấu chính trở lên được làm bằng vật liệu bền chắc. Nhà thiếu kiên cố và đơn sơ là nhà chỉ có một trong ba kết cấu chính hoặc không có kết cấu chính nào được làm bằng vật liệu bền chắc. Theo kết quả sơ bộ Tổng điều tra 2019, tỉnh Bình Định, tỷ lệ hộ sống trong nhà ở kiên cố và bán kiên cố đã tăng mạnh từ 98,3% (năm 2009) và lên đến 99% (năm 2019). Tỷ lệ này ở khu vực thành thị 99,4%, cao hơn khu vực nông thôn 0,5%. Điều này cho thấy các chính sách phát triển nhà ở của tỉnh đã phát huy hiệu quả, góp phần cải thiện đáng kể điều kiện sống của dân cư. So sánh với cả nước và vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, tỷ lệ hộ sống trong nhà ở kiên cố và bán kiên cố của Bình Định cao hơn 5,9 điểm phần trăm và 1,7 điểm phần trăm. Tuy nhiên, toàn tỉnh Bình Định vẫn còn 1% hộ đang sống trong nhà thiếu kiên cố và đơn sơ; trong đó, khu vực nông thôn 1,1%; nhất là 3 huyện miền núi tỷ lệ này còn khá cao: An Lão 4,3%, Vĩnh Thạnh 6,8%, Vân Canh 10,7%; hầu hết những hộ này là những hộ cần được tỉnh quan tâm trong việc cải thiện điều kiện nhà ở trong thời gian tới. Diện tích nhà ở bình quân 25,7 m2/người; trong đó khu vực thành thị 26,8 m2/người, khu vực nông thôn 25,2 m2/người. Trong đó, diện tích nhà ở bình quân khu vực thành thị 26,8 m2/người, khu vực nông thôn 25,2 m2/người (Cả nước 23,5 m2/người, vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 24,2 m2/người, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 25,9 m2/người). So với năm 2009, diện tích nhà ở bình quân đầu người tăng 6,8 m2/người; tuy nhiên, vẫn có 3.775 hộ (khu vực thành thị 2.039 hộ) sống trong điều kiện nhà ở chật hẹp, có diện tích bình quân dưới 6 m2. Tóm lại, kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 cho thấy, trải qua 10 năm (2009-2019) tại tỉnh Bình Định chính sách về dân số và các chính sách liên quan đến dân số đã phát huy kết quả tích cực nhiều mặt. Tốc độ tăng dân số bình quân năm của 10 năm nay thấp hơn của 10 năm trước (0,17%/năm so với 0,0031%/năm). Đây cũng là tốc độ tăng thuộc mức thấp so với cả nước, các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Tốc độ tăng thấp và chậm lại là kết quả tích cực của chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình trong 10 năm qua. Việc tốc độ tăng dân số chậm lại đã góp phần GRDP bình quân đầu người tăng với tốc độ khá cao (228,5%). Đồng thời, việc học hành nâng cao trình độ dân trí với tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết hiện đang ở mức cao (từ 95,8% lên 97,2%), tỷ lệ dân số trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng hiện không đi học (chưa bao giờ đi học hoặc đã thôi học) giảm đáng kể, từ 11,08% năm 2009 xuống 8% năm 2019. Thêm vào đó, tốc độ diện tích xây dựng nhà ở tăng 4,7%/năm, nên đã góp phần giảm mạnh tỷ lệ hộ không có nhà ở, tăng diện tích nhà ở bình quân đầu người, tăng tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố và bán kiên cố, điều kiện nhà ở các hộ dân cư đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt ở khu vực thành thị, đảm bảo mục tiêu chính sách phát triển kinh tế - xã hội và các mục tiêu liên quan đến an sinh, xã hội, phát triển con người./.