So sánh động cơ 2 kì và 4 kì năm 2024

Khi quyết định chọn một chiếc xe máy lý tưởng để mua hoặc sử dụng, một trong những câu hỏi cần tự hỏi bản thân là: tôi muốn loại động cơ nào? Sự khác nhau giữa động cơ hai thì và động cơ bốn thì, loại nào tốt hơn?

So sánh động cơ 2 kì và 4 kì năm 2024

Để đơn giản hóa mọi thứ, điển hình là xe máy với động cơ hai thì không còn được sản xuất nữa, vì chúng không tuân thủ luật môi trường của nhiều quốc gia và không được phép lái trong các thành phố, và cuộc tranh luận giữa hai loại động cơ này được áp dụng nhiều hơn cho các loại xe địa hình, chẳng hạn như xe cào cào. Một động cơ bốn thì, như tên gọi, có một pít-tông trải qua bốn kỳ (hoặc hai vòng quay trục khuỷu) để hoàn thành một chu kỳ đầy đủ; hành trình nạp, nén, công suất và xả. Điều này có nghĩa là khi piston chuyển động từ đỉnh xy lanh xuống đáy sẽ làm giảm áp suất bên trong xy lanh. Áp suất giảm này hút hỗn hợp nhiên liệu và không khí vào xi lanh thông qua cửa nạp. Tiếp theo, piston quay ngược lên, nén hỗn hợp nhiên liệu và không khí, sau đó một tia lửa sẽ đốt cháy nhiên liệu và không khí. Quá trình đốt cháy kết quả là những gì đẩy piston xuống trở lại trong cái được gọi là “hành trình công suất”. Cuối cùng, piston đi lên và đẩy các khí cháy ra ngoài.

So sánh động cơ 2 kì và 4 kì năm 2024

Động cơ hai thì hoạt động bằng cách kết hợp nhiều chức năng hơn vào một chuyển động piston. Trong quá trình chuyển động lên của pít-tông (nén hỗn hợp không khí / nhiên liệu / dầu) trong buồng đốt, bên dưới pít-tông một hỗn hợp không khí / nhiên liệu / dầu mới được hút vào trong cacte kín. Trong quá trình chuyển động đi xuống của pít-tông (hành trình công suất), hỗn hợp không khí / nhiên liệu / dầu trong lành được nén và chảy qua một hoặc nhiều cửa xả đến buồng đốt để đẩy các khí cháy ra ngoài thông qua chuyển động đi xuống của pít-tông mở ra, cổng ra. Sau đó, một hành trình nén mới tiếp theo.

So sánh động cơ 2 kì và 4 kì năm 2024

Về cơ bản, một chu trình hoàn chỉnh trong động cơ hai thì yêu cầu một vòng quay hoàn toàn của trục khuỷu hoặc hai vòng quay piston, trong khi ở động cơ bốn thì, piston phải hoàn thành bốn vòng quay hoặc hai vòng quay hoàn toàn của trục khuỷu.

Vậy cái nào tốt hơn? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích của người cầm lái. Động cơ hai thì thường ồn hơn và tạo ra nhiều khói thải hơn, nhưng cũng tạo ra nhiều công suất hơn so với trọng lượng của chúng so với động cơ bốn thì, khiến chúng trở nên phổ biến cho các cuộc đua. Động cơ bốn thì, trong khi nặng hơn và tạo ra ít công suất hơn trên một đơn vị trọng lượng, thường được mô tả là chạy êm hơn, thải ra ít khói thải hơn và thường kéo dài hơn.

Bởi vì cả hai yêu cầu chế độ bôi trơn hoàn toàn khác nhau, trong đó trong động cơ hai kỳ, dầu được trộn với nhiên liệu và sau đó bốc cháy (mất hoàn toàn khả năng bôi trơn), trong khi ở động cơ bốn thì, dầu được sử dụng để bôi trơn các bộ phận động cơ khác nhau chảy trở lại cacte và không được tiêu thụ . Điều này có nghĩa là hai loại dầu động cơ có thành phần hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào mục đích sử dụng. Dầu động cơ hai thì phải có khả năng trộn đều với nhiên liệu và cháy tốt trong buồng đốt của động cơ, ngược lại dầu động cơ bốn thì cần bảo vệ bộ van chống mài mòn và giữ cho động cơ sạch nhất có thể. Cuối cùng, bất kể bạn sử dụng loại động cơ nào, dầu động cơ chất lượng cao có thể kéo dài đáng kể tuổi thọ của động cơ.

Bài viết dưới đây trình bày những thông tin cơ bản để bạn có thể phân biệt giữa động cơ hai kỳ và động cơ bốn kỳ.

So sánh động cơ 2 kì và 4 kì năm 2024
Hình ảnh về động cơ hai kỳ

1. Động cơ hai kỳ

Động cơ hai kỳ là một loại động cơ đốt trong thường được chế tạo theo kiểu động cơ có pít tông đẩy. Động cơ hai kỳ cần thiết để tạo ra năng lực được hoàn thành trong một vòng quay của trục khuỷu. Một thì là chuyển động của pít tông từ một trạng thái tĩnh theo một hướng về trại thái tĩnh mới (chuyển động từ một điểm chết này về đến điểm chết kia). Trục khuỷu hoàn thành nửa vòng quay trong một kỳ. Loại động cơ diesel của động cơ hai thì vẫn còn được sử dụng trong tàu hỏa, tàu thủy, các máy phát điện, máy cắt, máy cưa,… Hầu hết chúng đều là những động cơ có công suất nhỏ, tuy có những ngoại lệ như xe Jawa của Tiệp dung tích tới 350 và 360cc, hay như những chiếc ôtô của hãng Audi trước đây .

Cấu tạo động cơ hai kỳ bao gồm: Buồng đốt, Bugi (nến đánh lửa), đường thải, van lưỡi gà, đường nạp hoà khí vào, hộp trục khuỷu và hoà khí.

Nguyên lý hoạt động của động cơ 2 kỳ:

Kỳ đầu: Piston sẽ di chuyển từ ĐCT (Điểm chết trên) xuống ĐCD (Điểm chết dưới) lúc này hỗn hợp nhiên liệu và không khí sẽ được đưa vào trong buồng đốt. Trục khuỷu sẽ quay được nửa vòng tròn (180 độ).

Kỳ sau: Piston di chuyển từ ĐCD lên đến ĐCT lúc này hỗn hợp nhiên liệu sẽ bị nén lại đồng thời bugi đánh lửa sẽ đánh lửa và đốt cháy nhiên liệu. Nhiên liệu đốt cháy trong buồng đốt và cung cấp năng lượng cho Piston đẩy Piston đi xuống Piston sẽ truyền năng lượng đó cho trục khuỷu thông qua thanh truyền.

Trong kỳ sau cửa nạp được mở ra và hỗn hợp nhiên liệu sẽ được đưa vào buồng đốt và chuẩn bị để được đưa vào trong buồng đốt. Khi Piston đi xuống cửa nạp được đóng lại và đồng thời hòa khí sẽ được đưa vào bên trong buồng đốt và khi thải sẽ bị thải ra ngoài nhờ vào áp lực của hòa khí, khí thải thoát ra ngoài thông qua cửa thoát

Ưu – nhược điểm của động cơ 2 kỳ:

  • Ưu điểm: Cùng dung tích xi-lanh cho công suất gấp đôi; cấu tạo đơn giản.
  • Nhược điểm: Kém bền, gây ô nhiễm cao, hao nhiên liệu hơn.
    So sánh động cơ 2 kì và 4 kì năm 2024
    Một buổi định hướng nghề nghiệp của sinh viên HPC

2. Động cơ bốn kỳ

Động cơ bốn thì là một loại động cơ đốt trong ra đời đầu thế kỷ 20, nó gồm bốn hành trình riêng biệt: nạp, nén, nổ, xả khi piston dịch chuyển lên xuống hai lần trong một chu kỳ làm việc. Ngày nay động cơ bốn kỳ đã trở thành động cơ phổ biến, khó có thể có động cơ nào thay thế được trong ngành công nghệ ô tô.

Cấu tạo của động cơ 4 kỳ bao gồm: Piston; trục khuỷu; thanh truyền; đối trọng, bugi; xupap nạp và xupap xả.

Nguyên ý hoạt động của động cơ 4 kỳ:

Kỳ 1: Piston sẽ di chuyển từ ĐCT (Điểm chết trên) xuống ĐCD (Điểm chết dưới) Đồng thời xupap nạp được mở ra mà hòa khí sẽ đi vào trong buồng đốt, Xupap xả đóng lại và đồng nghĩa với việc trục khuỷu sẽ quay 180 độ

Kỳ 2: Piston sẽ di chuyển từ ĐCD đến ĐCT để nén hòa khí lại đồng thời Xupap nạp đóng lại tất nhiên Xupap xả cũng đóng; trục khuỷu quay 180 độ.

Kỳ 3: Bugi đánh lửa đốt cháy hòa khí cung cấp năng lượng cho Piston. Piston sẽ di chuyển từ ĐCT xuống ĐCD. Lúc này cả Xupap xả và Xupap nạp đều đóng lại, trục khuỷu quay một góc 180 độ

Kỳ 4: Piston di chuyển từ ĐCD lên ĐCT đồng thời Xupap xả mở ra để khí thải được thoát ra ngoài động cơ, Xupap nạp vẫn đóng thanh truyền sẽ quay một góc 180 độ