Sinh viên cần làm gì để hình thành những chuẩn mực đạo đức cách mạng cho bản thân

Chuẩn mực chung về đạo đức cách mạng

Trước khi đề cập về nội dung liên hệ bản thân về đạo đức cách mạng, chúng tôi xin giới thiệu qua về chuẩn mực chung về đạo đức cách mạng. Trong đó, trong phần này chủ yếu viết về chuẩn mực chung về đạo đức cách mạng Việt Nam theo Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi, Bác là một tấm gương sáng điển hình đối với đạo đức cách mạng để Đảng và dân ta noi theo, Mời quý vị tham khảo nội dung cụ thể như sau:

– Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh thì quan niệm đầu tiên là một nền tảng đồng thời là sức mạnh trong con người cách mạng, đây như là cái gốc đối với cây cối, là ngọn nguồn của sông nước.

Việc lấy đức làm gốc không có nghĩa là hoàn toàn tuyệt đối hóa mặt đức mà coi nhẹ về mặt tài, có nghĩa là có tài nhưng không có đức thì coi là người vô dụng và người có đức nhưng không có tài thì để làm bất cứ việc gì cũng khó. Theo đó, mặc dù lấy đức làm gốc nhưng vẫn cần kết hợp với tài để nhiệm vụ cách mạng được hoàn thành.

Vậy chuẩn mực về đạo đức cách mạng gồm:

+ Trung với nước đồng thời hiếu với dân: đây là một phẩm chất quan trọng nhất, nó chi phối và bao trùm các phẩm chất khác.

+ Luôn yêu thương con người: Như chúng ta đã biết trong Di chúc của Người đã căn dặn: cần có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, đồng thời nhắc nhở đối với mỗi Đảng viên, cán bộ luôn phải chú ý tới phẩm chất tình yêu thương con người.

Theo đó, tình yêu thương con người là một phẩm chất đạo đức cao đẹp, Người mong muốn cho đất nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, được tự do và ai cũng có một cuộc sống ấm no đầy đủ, được học hành.

Với mong muốn đó, Bác không phân biệt dù là ở nơi đâu, dù là độ tuổi nào, là trai hay gái,… thì sự yêu thương luôn hướng tới họ. Không chỉ vậy Bác còn dành tình cảm ấy cho những người có những sai lầm hay khuyết điểm nào đó, sự bao dung như từ một người cha.

+ Đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô cũng là một yếu tố cần có trong mỗi con người.

Cần – là cần cù trong lao động, trong đó lao động cần phải có một kế hoạch sáng tạo từ đó tạo ra năng suất cao, khi làm việc cần có tinh thần tự lực không ỷ lại hoặc dựa dẫm vào ai cả. Ta thấy rõ việc lao động là một nhiệm vụ linh thiêng cũng là nguồn sống, hạnh phúc của chúng ta.

Kiệm – là sự tiết kiệm về sức lao động, tiết kiệm tiền, tiết kiệm thời gian của chính mình, dù là lớn hay nhỏ thì nhiều cái nhỏ cộng lại sẽ là cái to.

Liêm – là sự tôn trọng giữ gìn của chung, của dân và không xâm phạm tài sản của Nhà nước, nhân dân. Ngoài ra, không được tham lam phải trong sạch, quang minh chính đại.

Chính – là thẳng thắn, đứng đắn, chịu khó học hỏi, khiêm tốn, thật thà, luôn kính trên nhường dưới,…

Như vậy, khi làm bất cứ việc gì thì không nên nghĩ đến lợi bản thân trước và khi có được thành quả thì việc hưởng thụ nên đi sau, đó cũng là những lời Bác đã nói “ lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”

+ Tinh thần quốc tế trong sáng: Cụ thể là tinh thần đoàn kết trong quốc tế vô sản theo lời Bác “ Bốn phương vô sản đều là anh em”. Như vậy không chỉ cần tinh thần đoàn kết đối với nhân dân Việt Nam mà còn cần cả sự đoàn kết với những người tiến bộ thế giới hướng tới hòa bình.

Theo tấm gương Người thì chủ nghĩa quốc tế về vô sản luôn đi với chủ nghĩa yêu nước, nhưng phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính, chủ nghĩa quốc tế về vô sản trong sáng.

– Nguyên tắc cơ bản để định hướng cho Đảng trong lãnh đạo và nhân dân Việt Nam cần: + Nói luôn đi đôi với làm, nêu những tấm gương sáng về đạo đức trước cán bộ, đảng viên, quần chúng

+ Việc tu dưỡng đạo đức không phải chỉ ở một thời điểm nhất định, mà cần phải rèn luyện suốt đời.

+ Xây dựng luôn đi với việc đề phòng kiên quyết đấu tranh những chủ nghĩa cá nhân

>>>>> Tham khảo: Liên hệ bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc

Sinh viên cần làm gì để hình thành những chuẩn mực đạo đức cách mạng cho bản thân

vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng hồ chí minh để xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.9 KB, 17 trang )

Đề tài 2……………………………………………………………………19
Lời mở đầu……………………………………………………………… 20
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên………… 21
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức…………………………21
2. Sinh viên học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh ……………… 21
2.1. Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá
nhân………………… 21
2.2. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh…………… 22
2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…………… ……23
II. Xây dựng lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay………………25
1. Thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên hiện nay…………… 25
1.1. Những ảnh hưởng tích cực……………………
………………………… 25
1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực…………………………………………………28
2, Xây dựng đạo đức, lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay………… 28
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………
32
Đề tài 2:
Vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây
dựng đạo đức lối sống cho sinh viên hiện nay
Lời mở đầu
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã
hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội
VI ( l2 /l986 ) đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh thành một thế hệ.Người
đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh chúng ta, cổ vũ
khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ chúng ta những yếu kém, hạn
chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành.
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã
xác định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá trở thành nền
tảng tinh thần của xã hội. Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một


hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trò
quan trọng của nó.Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người không có nhân
tính đầy đủ, không phát triển được nhân tính để thành người và làm người. Suy
thoái đạo đức, xã hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực từ kinh
tế đến chính trị, văn hoá và xã hội.
Trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần
không thể thiếu.Và chúng ta, thế hệ của tương lai, những sinh viên phải làm gì để
có thể duy trì một nếp sống đạo đức tốt đẹp hơn.Vậy ta hãy vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh để xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên hiện nay.
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
1, Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của
Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết
chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện
những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên
Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề
đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-
1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn
Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi
thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại
không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu


cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực
hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của
con người: đối với mình, đối với người, đối với việc.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá nhân
Đạo đức hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy
tắc, những quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự,
hạnh phúc, công bằng… được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa
con người với sự nghiệp, giữa con người với nhau và giữa con người với xã hội.
Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát vọng hướng tới chân, thiện, mĩ nhằm
hoàn thiện bản thân.Để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người phải tự tu
dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách
tạo nên giá trị con người, vì vậy ai cũng phải tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức.
Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là “người chủ
tương lai của nước nhà”, là cái cầu nối các thế hệ – “người tiếp sức cách mạng cho
thế hệ già, đồng thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính
vì vậy, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm giáo dục đạo đức, chăm lo
rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Nói chuyện với sinh viên, Người khẳng định:
“Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh
tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì có
ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa.Nếu có đức mà không có tài ví như
ông Bụt không làm hại gì nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”.
2.2. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp
sinh viên, thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo
đức tối cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Trong Bài nói tại
Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 7–5–1958), những phẩm chất đó
được Người tóm tắt trong “sáu cái yêu”: yêu Tổ quốc; yêu nhân dân; yêu chủ nghĩa
xã hội; yêu lao động; yêu khoa học và kỉ luật: Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải có khoa học và kỉ luật”.


Theo Hồ Chí Minh, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn
luyện cho mình những đức tính như: Trung thành, tận tụy, thật thà, trung thực và
chính trực, phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã
cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?Mình phải làm
thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn?Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hi sinh
phấn đấu chừng nào”. Trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lí luận với thực hành,
học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư
tưởng háo danh, hám lợi. “Chống tâm lí ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống
thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng xa xỉ, chống
cách sinh hoạt ủy mị.Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được
câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai?Phải xác định rõ tác nào là tốt, thế nào
là xấu?Ai là bạn, ai là thù?”… Người chỉ rõ: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho
nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kì là ai làm điều gì có hại cho nhân dân
và Tổ quát ta tức là kẻ thù.Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích
cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ
quốc và đồng bào là kẻ thù… Điều gì phải, thì phải cố làm cho kì được, dù là việc
nhỏ.Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế
hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở một số nội dung cơ
bản sau:
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt
khoát mục tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận
một sự hi sinh, luôn kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn,
“thắng không kiêu, bại không nản”, “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không
chuyển lay, uy vũ không khuất phục” nhằm thực hiện bằng được mục tiêu đó
Người nói: “Bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn cống hiến đời


mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc giải phóng giai cấp công
nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác
anh em và hòa bình giữa các dân tộc”; “Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Đến lúc phải rời thế giới này, điều luyến
tiếc duy nhất của Người là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm gương vì nước, vì dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế
giới và bạn bè quốc tế thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và
trang trọng nhất để ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhà cách mạng triệt để”, “nhà
hoạt động quốc tế thần thoại”, “một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại của chúng
ta”, “một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân đạo cao cả
nhất”. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng
suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường
như vậy”, một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống và nguồn cổ vũ
đời đời bất diệt”.
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, ít lòng ham muốn vật chất. Đó là tư cách người cán bộ cách mạng, và
tự mình Người đã gương mẫu thực hiện. Suốt đời, Người sống trong sạch thực
hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người,
không gợn chút riêng tư. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chủ tịch không
có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người.Quyền lợi tối cao của nước,
lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người.Gia đình của Người là
đại gia đình Việt Nam.
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa
chuộng những nghi thức trang trọng cầu kì, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch
tao nhã, giản dị, khiêm tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc
cho dân. Nói về những đức tính vĩ đại của Hồ Chí Minh, X. Agienđê – vị Tổng
thống anh hùng của nước Cộng hoà Chilê đã khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự


tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng
giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân
dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn thân ái, vị tha, khoan dung và nhân
hậu với con người
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền
với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán
bộ, đảng viên việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải
hết sức tránh; phải gần dân, hiểu dân, phải học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng,
hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán quyết liệt đầu óc “quan cách mạng” và
tự mình thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu “lắng nghe ý kiến của đảng viên,
của nhân dân, của những người không quan trọng”. Là người có uy tín rất cao và
sức hấp dẫn rất lớn, song không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân,
chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, “như một người lính vâng lệnh
quốc dân ra trước mặt trận”.
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh giành cho tất cả, chia sẻ với mọi người
những nỗi đau riêng.Người nói, trong “mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ
riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mọi người, mọi gia đình thì thành nỗi
đau khổ của tôi”.
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của
dân tộc, nên có sức mạnh và cảm hoá to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương
tri. Ở Hồ Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn.Cho nên, khi làm cách
mạng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện
chủ nghĩa nhân văn cộng sản vừa thánh thiện, vừa gần gũi đã làm xúc động trái tim
nhân loại và Người được suy tôn “một ông thánh cộng sản”, “một con người của
huyền thoại”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bình luận: Lòng nhân đạo, tình
thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất, tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ
tịch.
+ Bốn là, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách,
gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống.


Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng vô cùng gian khổ.
Hai lần ngồi tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi,
được đánh giá rất cao, có giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kị, không được giao nhiệm
vụ… Song, nhờ ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên
cường, chủ động vượt qua thử thách gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ
chân lí, giữ vững quan điểm cách mạng của mình. Người đã làm thơ để tự răn:
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách
Hồ Chí Minh. Một tờ báo nước ngoài viết: “Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ
Hồ là một ý chí sắt thép. Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh
hùng không có gì uy hiếp nổi”.
Để cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có
hiệu quả, đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự
bồi dưỡng, rèn luyện của sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội,
trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lí giáo
dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp luật. Nếu coi thường một trong
những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong
muốn.
II. Xây dựng đặc điểm lối sống mới cho sinh viên hiện nay
1. Thực trạng đạo đức lối sống sinh viên hiện nay
1.1. Những ảnh hưởng tích cực
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
một nền đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng
là nguồn động lực quan trọng của công cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức
vừa phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người,
song nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư với những yêu cầu
mới, những nội dung mới do đòi hỏi của dân tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn sinh
viên, thanh niên trí thức vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh;
khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo trong học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân,


lập nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức,
dám chịu trách nhiệm, không ỷ lại, trây lười; luôn gắn bó với nhân dân, đồng hành
cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
- Là những con người năng động và sáng tạo. Chính sinh viên là những người
tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu
họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến
các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo
ra cơ hội.Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh , sáng chế; và không ít
trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu
ích trong thực tiễn. Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu,
sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước.
Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương phấp học sao cho lượng
kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự
mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn.Phần lớn sinh viên
đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ
không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn
phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân
loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực
khác như văn hóa, nghệ thuật… Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở
việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện…Ngoài giờ học,
những sinh viên-tuyên truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang
kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà… Bằng sự năng động, sinh viên
luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và
phát triển của xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của
sinh viên Việt Nam thời đại mới.
- Thứ hai táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách.
Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm
trong thực tế. Có thể thành công hoặc thất bại, song họ không hề chùn bước. Với
họ, mỗi lần thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh nghiệm hơn.Đứng trước


cha anh, họ luôn tự tin vào chính mình. Họ tin rằng với những tri thức mình có
trong tay, với những gì họ đã, đang và sẽ làm, các bậc cha anh sẽ tự hào về họ.Tự
tin nhưng không kiêu- đó chính là sinh viên Việt Nam. Phần lớn sinh viên đều rất
khiêm tốn, họ không bao giờ nghĩ rằng như thế là mình đã hơn các bậc tiền bối.
Trong suy nghĩ của họ, họ còn thiếu nhiều lắm, nhất là kinh nghiệm và sự từng
trải. Chính vì thế, khi quyết định một điều gì, sinh viên không bao giờ quên tham
khảo ý kiến của những người xung quanh, đặc biệt là bậc cha chú của mình. Và khi
đã nhận được sự ủng hộ của lớp người đi trước, họ thêm tự tin thực hiện ý định
của mình. Táo bạo song sinh viên không hề liều lĩnh.Trước khi thực hiện một việc
gì, họ luôn tính toán, xem xét vấn đề một cách thận trọng. Nói rằng táo bạo, nghĩa
là trước đó chưa có ai dám làm, dám thử nghiệm, họ là người đầu tiên thực hiện,
chứ không phải họ đâm đầu thực hiện một việc mà họ không biết tỉ lệ thành công
của mình. Khi cảm thấy mình đã có đủ mọi điều kiện cần thiết, họ mới bắt tay vào
thực hiện. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì họ
sẵn sàng chấp nhận như một chuyện đương nhiên tất yếu sẽ xảy ra, tức là có thất
bại thì thất bại ấy cũng nằm trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng vào thất bại và
vượt qua nó.Tóm lại, táo bạo và tự tin cũng là điểm rất đáng quý trong lối sống của
sinh viên Việt Nam.
- Thứ ba, phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng
góp phần xây dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Không giống như
sinh viên các thế hệ trước chỉ biết sống phụ thuộc vào gia đình, sinh viên ngày nay
đã biết thân tự lập thân.Không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong
cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ động. Nếu như trong quá
khứ, sinh viên còn chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu tháng thì ngày nay
mọi chuyện dường như đã khác đi rất nhiều. Ngoài giờ học, họ tìm việc làm kiếm
thêm tiền mua sách vở hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều
người không chỉ lo được cho bản thân mà còn có thể giúp đỡ những người bạn
khác thiệt thòi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong
gảng đường đại học. Những con người ấy thật đáng khâm phục, xứng đáng trở
thành những gương mặt tiêu biểu đại diện cho sinh viên Việt Nam thời đại mới.


- Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, đó là truyền thống hiếu học. Sinh viên Việt Nam mọi thời đại luôn
ham học, ham hiểu biết.Họ khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức. Họ say
mê với những điều mới lạ.
- Ngày nay tuy điều kiện học đã tốt hơn cha ông nhưng sinh viên Việt Nam vẫn
phải vượt qua nhiều khó khăn khác để đến với chân trời tri thức. Có những người
dù bị tật nguyền vẫn đi học như bao bạn bè cùng trang lứa khác, họ không những
tần mà không phế mà còn trở thành những sinh viên giỏi, làm được nhiều điều cho
gia đình, đất nước. Có những người dù gia đình gặp nhiều khó khăn, bất hạnh,
khiến họ phải bôn ba kiếm sống không được học hành đến nơi đến chốn vẫn mang
trong mình khát vọng được chiếm lĩnh tri thức nhân loại; và khi có cơ hội họ lại đi
học trở lại, với niềm hạnh phúc lớn lao.
Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của sinh viên.
Không thỏa mãn với những gì được dạy trong truờng, họ tự mình học thêm bên
ngoài, qua sách báo, qua bạn bè khắp nơi.
1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, do
sự bùng phát của lối sống thực dụng, chạy theo danh lợi bất chấp đạo lí đã dẫn đến
những tiêu cực trong đời sống xã hội ngày càng phổ biến. Đó là: tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra
nghiêm trọng”.Đó còn là tình trạng “một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số
cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong,
gương mẫu, vừa không đủ trình độ hoàn thành nhiệm vụ”. Thêm vào đó là những
biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục, sự chống phá
của thế lực phản động quốc tế nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”… đã
tác động không nhỏ đến đời sống đạo đức công dân, ảnh hưởng lớn đến tâm tư,
tình cảm, ý chí phấn đấu của sinh viên, thanh niên trí thức. Hậu quả là đã có một
bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lí tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không
có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm,


thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiện ngập, hút sách; thiếu
trung thực, gian lận trong thi cử, chạy điểm, chạy thầy, chạy trường, mua bằng
cấp… Đây là những biểu hiện không thể coi thường.
Chúng ta đang sống trong thời đại mới - thời đại văn minh, khoa học, nhất là sự
phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin; nó đã làm cho cuộc sống con
người ngày được nâng cao. Đáng tiếc thay giá trị đạo đức đang bị xói mòn bởi chủ
nghĩa thực dụng, duy vật chất, kéo theo đó là cả một hệ lụy. Hơn nữa, giới trẻ ngày
nay chạy theo lối sống hưởng thụ, mà họ cho là hợp thời, sành điệu; họ bỏ qua
những giá trị đạo đức là nền tảng cốt yếu của con người. Vấn đề này đang là thách
đố cho các nhà giáo dục cũng như những người có trách nhiệm.
2, Xây dựng đạo đức, lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay
- Chăm lo giáo dục lý tưởng cách mạng
Lý tưởng cách mạng mà Bác Hồ quan tâm giáo dục cho thế hệ trẻ chính là
mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam: Ðộc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã
hội. Ðây cũng là lý tưởng của Người khi tiếp thụ chân lý khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, sau hơn
10 năm trải nghiệm cuộc sống trên khắp các châu lục, lao động, hoạt động trong
phong trào công nhân quốc tế và các dân tộc bị áp bức để tìm ra con đường cứu
nước, cứu dân là giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ðiểm nổi bật trong giáo dục lý tưởng cho thế hệ trẻ là cùng với việc nêu cao
lý tưởng, quyết tâm phấn đấu cho giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu gương bằng chính cuộc đời hoạt động cách mạng, chịu mọi gian
khó, hy sinh, đồng cam cộng khổ với đồng bào, đồng chí. Bác Hồ cho rằng, thực
tiễn đấu tranh cách mạng là trường học giáo dục lý tưởng tốt nhất cho thế hệ
trẻ.Giác ngộ lý tưởng không chỉ dừng ở nhận thức mà điều có ý nghĩa trong việc
thấm nhuần lý tưởng cách mạng là tinh thần và quyết tâm hành động thực hiện lý
tưởng. Và khi đã thấm nhuần lý tưởng, quyết tâm phấn đấu cho lý tưởng thì như
Người dạy thanh niên:
“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền


Ðào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên!”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta, cần quan tâm giáo
dục thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc rằng, vì lý tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và chủ nghĩa xã hội mà những chiến sĩ cộng sản tiền bối và biết bao
đảng viên cộng sản, lớp lớp đoàn viên, thanh niên đã cống hiến trọn đời, hy sinh
bao máu xương.
Ðối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ
không phải là cái gì quá cao xa mà là gần gũi, giản dị, dễ thấy. Chẳng hạn, Người
quan niệm chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh.Trong chủ nghĩa xã hội ai
cũng phải làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Ðối với người già, ốm
đau thì được xã hội chăm lo nhưng không chấp nhận lười biếng, lười lao động, lười
học tập. Phải giáo dục cho mọi người ý thức cần kiệm liêm chính, làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, ai không làm thì không hưởng.
- Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho thế hệ trẻ, giúp họ phấn đấu vươn lên trong học tập, công tác, chiến đấu,
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trở thành con người phát triển toàn diện, người
chủ xứng đáng của đất nước.
Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên phải
thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải thường xuyên trau dồi, rèn luyện
đạo đức cách mạng.Theo quan điểm của Bác Hồ, đạo đức cách mạng là "trung với
nước, hiếu với dân" và đạo đức cách mạng phải được thể hiện trong hành động, chỉ
có trong hành động, hoạt động trong thực tế đấu tranh cách mạng của nhân dân thì
thanh niên mới tỏ rõ được đạo đức của mình.
Bồi dưỡng tinh thần làm chủ và giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên,
Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói những điều chung chung mà Người thường
xuyên nêu những việc cụ thể, thiết thực. Bác Hồ luôn nhắc nhở thanh niên trung
với nước, hiếu với dân là như thế nào, đồng thời phải luôn luôn hiếu thảo, kính
trọng ông bà, cha mẹ, thương yêu mọi người trong gia đình.Giáo dục cho thanh


niên biết thương dân, yêu nước, thương nhân loại bị áp bức, bóc lột thì phải chăm
lo bảo vệ lợi ích của nhân dân, dám đấu tranh chống những sách nhiễu dân, chống
chủ nghĩa cá nhân.
Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bác Hồ
nêu rõ: Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không
quan tâm đến lợi ích chung của tập thể. "Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy". Nó
là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư, nết xấu như: lười biếng, suy bì, kiêu căng, kèn cựa,
nhút nhát, lãng phí, tham ô Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, chủ
nghĩa xã hội (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t10, tr306).
- Dạy nghề, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật.
Nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
chăm lo xây dựng các thế hệ người Việt Nam phát triển toàn diện. Do đó, cùng với
việc giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng là chăm lo đào tạo, dạy nghề, nâng cao
trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật cho thanh niên. Ngay sau khi cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp đầu
tiên của Chính phủ đã đề nghị một trong những công việc khẩn cấp lúc bấy giờ là
diệt giặc dốt, xóa nạn mù chữ. Trong ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập, Bác Hồ viết thư cho học sinh khẳng định: Non sông Việt Nam
có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để
sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn
ở công học tập của các em.
Xuất phát từ nhiệm vụ mới của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ
tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo để nâng
cao trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật và nghề nghiệp cho thế hệ trẻ. Theo quan
điểm của Người, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, xây dựng đời sống mới, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh" còn khó khăn, lâu dài hơn nhiều so với cuộc đấu
tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc. Chính vì thế, Bác Hồ thường căn dặn,
dạy bảo thanh niên phải "ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa
học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân
dân". Và, làm nghề gì cũng phải học, mục đích của việc học không gì khác hơn là


để nâng cao năng lực, làm cho kinh tế phát triển, chiến đấu thắng lợi, đời sống
nhân dân ngày càng được ấm no, tươi vui.
Tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh về việc học tập của thế hệ trẻ là giáo
dục cho họ học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho nước nhà giàu
mạnh và để làm tròn trách nhiệm của người chủ tương lai của đất nước. Vì thế,
thanh niên phải học nữa, học mãi, bởi vì, "nếu không chịu khó học tập thì không
tiến bộ.Không tiến bộ là thoái bộ.Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy
móc càng tinh xảo.Mình mà không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải,
tự mình đào thải mình" (Hồ Chí Minh, Toàn tập, t9, tr554).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
phải chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cốt cán, bởi "đó là đội quân chủ lực trong
công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Chủ tịch Hồ Chí Minh
di chúc, nhấn mạnh rằng, những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân
dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều tỏ ra
dũng cảm.Ðảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cho các cháu ấy đi học
thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật
giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật,2011
2. “Một lãnh tụ ở bước ngoặt lịch sử”, Báo Nhân dân số ra ngày 17-9-1969.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, (xuất bản lần thứ 2), Nxb Chính trị Quốc gia,
1995
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
II, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, 2010.
6. Giáo trình trung cấp lý luận chính trị hành chính: Những vấn đề cơ bản về
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị hành chính, 2009.
7. Lược đồ chủ nghĩa tư bản ( thế kỷ XVI- 1914)

Chuyên đề: Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dịị

Chuyên đề: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,

làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân,

đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị

I. TƯ TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH SUỐT ĐỜI PHẤN ĐẤU CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ, LÀM NGƯỜI CÔNG BỘC TẬN TỤY, TRUNG THÀNH CỦA NHÂN DÂN, ĐỜI TƯ TRONG SÁNG, CUỘC SỐNG RIÊNG GIẢN DỊ

1. Suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Hồ Chí Minh khẳng định: Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Người quan niệm: đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác trong mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện thường xuyên trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của mình.

Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

Chính tấm gương đạo đức trong sáng, suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sự quy tụ đặc sắc nhất những giá trị của đạo đức cách mạng của Người. Đặc biệt, việc Hồ Chí Minh giải thích cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư bằng thực tiễn, bằng tấm gương rèn luyện đạo đức cần mẫn hằng ngày của Người, đã củng cố thêm giá trị những phẩm chất này, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống nhân dân.

Theo Hồ Chí Minh, cần có nghĩa là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học tập, trong lao động, trong chiến đấu và trong sản xuất; cần còn có nghĩa là làm việc có phương pháp, có khoa học và có trí tuệ. Cần mà không có trí tuệ thì đó cũng chỉ là bán thân bất toại.

Kiệm là tiết kiệm thời gian, tiền bạc của cải vật chất và tinh thần cho nhân dân, không lãng phí, tiêu dùng hợp lý nhằm mục đích mở rộng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Liêm là liêm khiết, trong sáng, không tham của cải vật chất, không tham địa vị, không tham sung sướng; không nịnh hót kẻ trên và cũng không thích người khác tâng bốc mình.

Chính là luôn đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, lên án những cái xấu, cái sai trái.

Chí công vô tư là mình vì mọi người; luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên hàng đầu; khi khó khăn thì đi trước, hưởng thụ sau; không tham tiền tài, địa vị, danh vọng, chỉ có một mục đích cao nhất là làm sao để cuộc sống của nhân dân no đủ, hạnh phúc, đất nước phồn vinh.

Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn chí công vô tư thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.

Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.

Hồ Chí Minh thực hành triệt để tất cả những quan niệm đạo đức mình đưa ra, thậm chí Người còn làm nhiều hơn, tốt hơn những gì Người nói.

Trong công việc, Hồ Chí Minh sắp xếp có kế hoạch, giờ nào việc ấy và bằng mọi cách duy trì thời gian biểu đã vạch ra. Người thường xuyên suy nghĩ để đổi mới cách nghĩ, cách làm, tìm tòi những biện pháp tối ưu để công việc được tiến hành nhanh chóng, đạt hiệu quả cao nhất.

Không chỉ xây dựng kế hoạch làm việc của cá nhân, Hồ Chí Minh còn phân công hợp lý công việc cho mọi người, để ai cũng có thể làm đúng năng lực, phát huy sở trường, khắc phục sở đoản của mình. Đặc biệt, trong công việc và sinh hoạt đời thường, Hồ Chí Minh luôn tôn trọng nhân cách người khác; Người biết nâng cao con người lên, khuyến khích, động viên để con người thấy rõ giá trị đích thực của cuộc sống, có khát vọng sống làm người mãnh liệt và có ý nghĩa. Người tin tưởng ở tính tự giác và tinh thần trách nhiệm của mọi người, nhưng không bao giờ sao nhãng việc kiểm tra, đánh giá công việc của từng người, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân cần cù, sáng tạo trong công việc.

Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, giữ liêm khiết, trong sạch trở thành phong cách riêng của Người ở mọi lúc, mọi nơi. Người sống trung thực, chân thành với chính mình và với người khác.

Hồ Chí Minh là một tấm gương đấu tranh không mệt mỏi chống lại cái ác, cái xấu trong xã hội, trong mỗi con người, chống lại những biểu hiện tiêu cực, nhất là căn bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu trong bộ máy tổ chức của Đảng, Nhà nước để các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong sạch, đại diện cho nhân dân, Hồ Chí Minh có thái độ rõ ràng, công minh trước công và tội của từng cá nhân. Người viết nhiều bài báo giáo dục, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên không được phép làm “quan cách mạng”, phòng tránh những cám dỗ đời thường để không bị gục ngã trước những “viên đạn bọc đường”. Người đã trực tiếp chỉ đạo xét xử những vụ án lớn; phân tích thấu tình đạt lý những nguyên nhân dẫn đến lỗi lầm của cán bộ, đảng viên, trong đó có đảng viên có chức, có quyền. Người chỉ ra hậu quả kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức mà các hành vi phạm tội gây ra, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào luật pháp, vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

2. Suốt đời vì dân, vì nước, làm người công bộc tận tụy trung thành của nhân dân

Sinh ra, lớn lên ở một vùng quê nghèo khổ nhưng giàu truyền thống yêu nước, văn hiến, Hồ Chí Minh được nuôi dưỡng, thấm nhuần sâu sắc triết lý sống của cha ông: Muốn dựng làng và giữ nước phải bắt đầu từ việc làm người một cách thành thật, đúng nghĩa. Người cũng bộc lộ rất sớm một nét tính cách lớn: Sống có lý tưởng trong tâm hồn, trung kiên trong bản chất. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ thuở nhỏ Hồ Chí Minh đã có ý thức gắn vận mệnh cá nhân mình với vận mệnh chung của đồng bào, đất nước, luôn đau đáu một nỗi niềm: Hỏi xem non nước mất hay còn! Đấy chính là những biểu hiện ban đầu của một nhân cách lớn, một trí thức chân chính: luôn trăn trở, đau đớn trước nỗi nhục mất nước, đồng bào nô lệ, lầm than, suy nghĩ về những vấn đề liên quan đến số phận con người và các giá trị làm người. Bài học đạo đức lớn nhất mà Hồ Chí Minh để lại cho mọi thế hệ người Việt Nam chính là bài học ở đời và làm người mà nội dung và chiều sâu nhân văn của nó là yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức, bóc lột.

Gia đình, quê hương, đất nước đã hình thành nên một Hồ Chí Minh mang nhân cách vĩ đại, giàu lòng yêu nước, thương dân, nhất là những người nghèo khổ, giúp Người thấu hiểu được sức mạnh của ý chí tự cường, tinh thần tự tôn dân tộc. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Yêu nước, thương dân, tất cả vì dân, vì nước là suy nghĩ thường trực, nhất quán trong con người Hồ Chí Minh. Người đi sang Pháp, sang các nước phương Tây nhằm mục đích học hỏi xem bên ngoài người ta làm thế nào để rồi về nước giúp đồng bào mình giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, áp bức. Và Hồ Chí Minh đấu tranh không ngừng, không nghỉ, thậm chí phải hy sinh bằng mọi giá giành được độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh phát biểu mục đích cuộc sống mà Người theo đuổi là: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nói chuyện với đồng bào trước khi sang thăm Pháp (30-5-1946), Hồ Chí Minh khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ đeo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”.

Ở Hồ Chí Minh, yêu nước phải gắn liền với yêu dân, yêu đồng bào. Không thể nói yêu nước mà lại không thương dân, không lấy nguyện vọng, mong muốn, nhu cầu của dân làm nguyện vọng, ham muốn của mình. Là lãnh tụ dân tộc, là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ trách nhiệm của cá nhân là lo cho dân, cho nước từ việc lớn đến việc nhỏ: từ việc tìm đường cứu nước, bảo vệ, đấu tranh thống nhất đất nước, xây dựng, phát triển mọi mặt xã hội, đến việc tương, cà, mắm, muối... để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, để mọi người đều có cơm ăn, có áo mặc, có chỗ ở, được học hành, có điều kiện khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe.

Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn day dứt với một suy nghĩ: Người chưa làm tròn nghĩa vụ cách mạng với dân, với nước. Vì thế, Hồ Chí Minh từ chối mọi danh hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, nhân dân, bạn bè quốc tế dành riêng cho Người. Năm 1963, khi biết tin Quốc hội định trao tặng Người Huân chương Sao vàng cao quý, Hồ Chí Minh đã phát biểu rất chân thành: “Tôi vừa nhận được một tin tức làm cho tôi rất cảm động và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân chương Sao vàng, Huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội. Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi chưa nhận Huân chương ấy. Vì sao? Vì Huân chương là để tặng thưởng người có công huân; nhưng tôi tự xét chưa có công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội”. Và Người mong muốn: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hòa bình thống nhất, Bắc – Nam xum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng”.

Hồ Chí Minh dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân xây dựng, phát triển đất nước, làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “VỀ VIỆC RIÊNG – Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Và điều mong muốn cuối cùng của Người là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Đối với Hồ Chí Minh phạm trù nhân dân là một phạm trù cao quý nhất, là một phạm trù chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của Người. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh của nhân dân không chỉ đơn thuần là sức mạnh chính trị mà còn là chiều sâu của tư tưởng nhân văn: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Đó là một minh chứng điển hình về niềm tin vào sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi.

Người quan niệm cái gì có lợi cho nhân dân, cho dân tộc là chân lý, và Người xem phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho dân là một việc làm cao thượng. Vì lẽ đó cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là một tấm gương mẫu mực về gần dân, học dân, kính trọng, phục vụ nhân dân. Người nói: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ rằng: quần chúng nhân dân là người làm ra lịch sử, làm nên thành công của cách mạng, là người chủ đất nước; mỗi đảng viên, cán bộ ở bất cứ cương vị nào, làm công việc gì đều phải “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân”.

Hồ Chí Minh là người đã hóa thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào trong nhân dân. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí để không ngừng thực hành dân chủ cho nhân dân.

Trong hoạt động cách mạng cũng như trong cuộc sống đời thường, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sức mạnh và sự sáng tạo vô cùng to lớn của nhân dân. Người từng nói: Dân ta rất thông minh, biết giải quyết mọi công việc một cách nhanh chóng mà nhiều cán bộ nghĩ mãi không ra, “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”. Đó là sự tổng kết thực tiễn cách mạng rất sâu sắc: Phải không ngừng học dân. Có gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân mới hiểu được rằng: “Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm quý báu”. Vì vậy, Người khuyên cán bộ “cần tham gia tổng kết những kinh nghiệm quý báu ấy”.

Người tâm niệm: Nhà nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Là công bộc, là đầy tớ của dân thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ phải chăm lo cho đời sống của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là:

“1. Làm cho dân có ăn.

2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành”.

Người còn nói “Chúng ta đã hi sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.

Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, nhân dân thật sự là ông chủ tối cao của chế độ mới. Người viết: “Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”, “nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói” hay “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”. Trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội Việt nam, nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của dân. Các cơ quan đảng và nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công vụ cho dân.

Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: Dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đầy tớ và làm đầy tớ cho dân. Đầy tớ là công bộc của dân, với nội hàm là vì lợi ích chung mà gánh vác việc dân, trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Họ phải như những người lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành nhiệm vụ, thay mặt dân để ra quyết định, toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Khi bàn về mục tiêu hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng không có mục tiêu nào khác là đem lại lợi ích cho dân. Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng phải thu phục, chinh phục được nhân dân, muốn vậy, Đảng phải làm tròn trách nhiệm là người đầy tớ của nhân dân. Người đã viết thật sâu sắc “Người xưa nói: quan là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt quyền lợi nhân dân lên trên hết thảy”. Người nói: “Làm Chủ tịch nước mệt lắm. Trăm việc đều phải lo. Trời mưa, trời nắng, gió bão,... chưa ai lo, mình đã phải lo”. Người thấy được một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

3. Đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và khiêm tốn hết mực

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, đó là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị và đức khiêm tốn hết mực. Người coi khinh sự xa hoa để sống một cuộc đời trong sạch, suốt đời thực hành cần, kiệm, liêm, chính một cách cần mẫn.

Hồ Chí Minh luôn luôn nói đi đôi với làm. Trong hành trình tìm đường cứu nước, dù ở đâu, làm gì, Hồ Chí Minh chấp nhận mọi công việc, miễn là việc đó có lợi cho tổ chức, cho cách mạng. Người là tấm gương sáng về người lãnh đạo, người đứng đầu ở vị trí cao nhất nhưng luôn trung thành, tận tụy vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, không mưu cầu lợi ích riêng cho cá nhân và gia đình. Người tâm sự khi phải giữ trọng trách Chủ tịch nước: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đông bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biết để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.

Tư tưởng và tấm gương “tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào” một lần nữa lại được Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (31-10-1946): “Lần này là lần thứ hai Quốc hội giao phó cho tôi phụ trách Chính phủ một lần nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất thì bất kỳ Quốc hội ủy cho tôi hay cho ai cũng phải gắng mà làm. Tôi xin nhận. Giờ tôi tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới rằng: Hồ Chí Minh không phải là kẻ tham quyền cố vị, mong được thăng quan, phát tài”. Trong lời tuyên bố của Hồ Chí Minh, chúng ta chú ý rằng Người nhấn mạnh việc đảm nhận chức vụ trong một hoàn cảnh đất nước khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh khi “Việt Nam chưa được độc lập, chưa được thống nhất”. Chức vụ đó là do Quốc hội (nhân dân) ủy thác thì phải gắng sức làm. Còn khi đồng bào đã cho lui thì lại vui vẻ trở về cuộc sống của một người dân bình thường.

Người luôn khẳng định: Sự nghiệp anh hùng cách mạng Việt Nam là của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; còn khuyết điểm thì Người nhận về mình. Hiếm có một vị lãnh tụ nào trên thế giới đứng trước toàn dân để Tự phê bình, nhận lấy khuyết điểm của mình và cho rằng do mình “tài hèn đức mọn, cho nên chưa làm đầy đủ những sự mong muốn của đồng bào”. Có lẽ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ duy nhất trên thế giới có nhiều đóng góp vĩ đại cho Tổ quốc mình, nhưng khi đi vào cõi vĩnh hằng trên ngực áo không hề có bất kỳ một tấm huân, huy chương nào.

II. YÊU CẦU RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, nêu cao tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Điểm mấu chốt của sự khác biệt căn bản giữa đạo đức cũ và đạo đức mới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, là: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Đạo đức cũ là đạo đức của giai cấp tư sản, của phong kiến, đạo đức áp bức và bóc lột. Còn đạo đức mới là đạo đức cách mạng, đạo đức hướng tới giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, đưa lại cuộc sống ấm no, tự do cho tất cả mọi người. Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần phải ý thức được sự nghiệp cao cả đó; đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ nước nhà, sự nghiệp cách mạng đó là của toàn dân. Người cán bộ, đảng viên phải thấu hiểu và thấm nhuần một cách triệt để: Trung thành với cách mạng chính là trung thành với sự nghiệp của nhân dân. Hồ Chí Minh nhắc nhở, dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Cán bộ phải ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức trung thành phục vụ nhân dân. Có trung thành và quyết tâm phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc thì mới dám dũng cảm hy sinh quên mình vì nghĩa lớn. Lòng trung thành cao đẹp ấy phải được thể hiện bằng hành động thiết thực, cụ thể hàng ngày, trong từng công việc phải biến khát vọng làm sao cho “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” của Hồ Chí Minh thành hiện thực.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy mỗi cán bộ rằng: “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”. Người khuyên bảo cán bộ: “Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân và tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, tổ chức tuyên truyền, thuyết phục nhân dân, đồng thời phải lắng nghe, học tập nhân dân. Thấm nhuần lời dạy của Người, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.

Trong chế độ chúng ta, địa vị của người dân là cao nhất, dân là chủ: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Một yêu cầu có tính nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đã đặt ra là phải xây dựng pháp luật để bảo đảm các quyền tự do dân chủ và cán bộ phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp của nhân dân, cho dù ở bất kỳ tình huống nào cũng phải đặt lợi ích của dân lên trên hết và trước hết. Người viết: “Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hoà mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể Dân chủ Cộng hòa của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai. Do đó, nhiệm vụ các bạn phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ”.

Cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng, với đất nước phải được thể hiện trong công việc hàng ngày, đó là: hướng tới phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Bảo vệ thành quả chính đáng của cách mạng cũng có nghĩa là phải bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đó là đạo đức chân chính của người cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp.

2. Kiên quyết chống tham ô, lãng phí, quan liêu, thực hành dân chủ.

Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, tham nhũng đang làm cản trở công cuộc kiến thiết đất nước, cản trở sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, là kẻ thù nguy hiểm của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: cách mạng là để triệt diệt những cái xấu, xây dựng những cái tốt. Chúng ta làm cách mạng là tiêu diệt triệt để chế độ thực dân, phong kiến, để xây dựng dân chủ mới. “Thực dân, phong kiến tuy bị tiêu diệt, nhưng cái nọc xấu của nó (tham ô, lãng phí, quan liêu) vẫn còn, thì cách mạng vẫn chưa hoàn toàn thành công, vì nọc xấu ấy ngấm ngầm ngăn trở, ngấm ngầm phá hoại sự nghịêp xây dựng của cách mạng”.

Với quyết tâm đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Để thực hiện thành công mục tiêu tổng quát này, Đại hội đặc biệt chú trọng đến việc đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí một cách có hiệu quả. Trong cuộc đấu tranh này, cần phải: “Nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức; công khai, minh bạch tài sản của cán bộ, công chức. Tăng cường công tác giám sát, thực hiện dân chủ, tạo cơ chế để nhân dân giám sát các công việc có liên quan đến ngân sách, tài sản của Nhà nước”. Rõ ràng, chống tham nhũng là một quyết tâm chính trị lớn của Đảng. Để thực hiện quyết tâm đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tự giác “thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính…; thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định”. Mỗi cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân phải sống và làm việc theo pháp luật; sáng tạo, kỷ cương trong lao động; tiết kiệm trong lối sống và công việc. Muốn đạt được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đề ra, ngoài việc phát huy tốt các yếu tố nội lực và ngoại lực, thực hiện triệt để, đồng bộ các giải pháp, thì một yếu tố quan trọng và cần kíp là chống tham nhũng.

Đi liền với nạn tham nhũng là nạn lãng phí, đó cũng là một thứ giặc nội xâm. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Trong thời gian qua, do cách tổ chức quản lý chưa tốt của cán bộ nên có không ít nơi để xảy ra tình trạng lãng phí của công đến mức phải cảnh báo. Hồ Chí Minh quan niệm lãng phí của công tuy không lấy của công cho riêng cá nhân như tham nhũng, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ, có khi tai hại hơn cả tham nhũng và trộm cướp. Lãng phí của công điển hình là các cơ quan công quyền dùng vật liệu, điện nước một cách phí phạm; các xí nghiệp dùng máy móc và nguyên liệu không đúng mức; các cơ quan dùng xe vào mục đích cá nhân, không tiết kiệm xăng dầu; các dự án đầu tư dàn trải, không hiệu quả,… Những thứ bệnh đó một phần là do hậu quả của xã hội cũ để lại, do lòng tự tư, tự lợi, ích kỷ, hại dân mà ra. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước, làm khủng hoảng kinh tế - xã hội. Cho nên nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước là phải triệt để loại bỏ những căn bệnh đó và tăng cường thực hành tiết kiệm; có như thế mới thực hiện được đạo đức mới, đạo đức cách mạng, mới làm cho dân cường, nước thịnh.

Khi nói về vai trò của việc chống lãng phí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin đã từng căn dặn chúng ta là phải thông qua pháp luật để nhổ tận gốc tất cả những hiện tượng lãng phí. Hồ Chí Minh còn lưu ý chúng ta là ngoài vai trò của pháp luật, phải phát động tư tưởng của quần chúng, làm cho quần chúng khinh ghét tham ô, lãng phí, để biến “hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng” thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí còn chỗ ẩn nấp, góp phần làm cho Đảng và Nhà nước ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng thành công.

Để làm được những điều này, dứt khoát phải chống bệnh quan liêu vì quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô và lãng phí. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô”. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí phải gắn với chống quan liêu và là việc làm cần thiết, thường xuyên. Bệnh quan liêu làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí vượt khó của cán bộ ta. Nó phá hoại những phẩm chất đạo đức cách mạng mà chúng ta đang xây dựng là: Cần, kiệm, liêm, chính. Thấy được tác hại của căn bệnh này, chúng ta cần phải quyết tâm tẩy sạch nó đi. Cũng như: “ Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu không, thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì lúa bị cỏ át đi. Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu”.

Nguyên nhân sinh ra quan liêu, từ đó sinh ra tham nhũng, lãng phí là do xa dân, xa rời cuộc sống của nhân dân; vì không tin dân; vì coi thường dân, không thương dân; vì sợ dân. Để chữa bệnh quan liêu, cần phải gần dân, học hỏi ở dân và đặc biệt là phải thực hành dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng của quần chúng, đi đúng đường lối của quần chúng. Cho nên, “Phong trào chống tham ô, lãng phí,quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Cũng như mọi việc khác, chúng ta phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ cho dân, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công, phải làm sao để phát huy được tiếng nói của tất cả các tầng lớp nhân dân, phát huy dân chủ để phòng và chống có hiệu quả tham ô, lãng phí, quan liêu.

3. Ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đưa ra quyết tâm trong nhiệm kỳ này phải “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”

Đại hội xác định bảy nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:

(1) Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

(2) Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, sinh hoạt của nhân dân.

(3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.

(4) Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, nhất là hệ thống giao thông.

(5) Đổi mới quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; khắc phục tình trạng bất hợp lý và tác động tiêu cực của quan hệ phân phối, chính sách tiền lương, thu nhập hiện nay.

(6) Tập trung giải quyết một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội, trật tự, kỷ cương xã hội).

(7) Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực sự ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.

Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là góp phần thiết thực và trực tiếp thực hiện tốt cả bảy nhiệm vụ nêu trên, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.

Yêu cầu của việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là phải thường xuyên và tự giác trong việc rèn luyện và tu dưỡng đạo đức, lối sống của mỗi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên tinh thần đó, mỗi cá nhân, mỗi tập thể cần phải tự cảm thấy bức xúc, tự cảm nhận nhu cầu tự thân phải thực hiện cho chính mình, vì chính sự phát triển của cá nhân và tập thể mình.

Một yêu cầu quan trọng nữa là tính hiệu quả phải được quan tâm đúng mức. Từ đó, cấp ủy đảng các cấp phải đặc biệt coi trọng việc gắn nhiệm vụ này với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng tại địa phương, đơn vị mình, nhất là xác định một số nội dung cụ thể, một số vấn đề tư tưởng, đạo đức gây bức xúc trong ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, để tập trung chỉ đạo giải quyết mang lại kết quả cụ thể, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quan tâm đúng mức với vấn đề xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức, đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ và cán bộ, đảng viên. Từ công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai đòi hỏi tinh thần chủ động, sáng tạo của các ngành, các cấp, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trên cơ sở yêu cầu chung, dựa trên đặc điểm, tình hình của từng địa phương, từng đơn vị để lựa chọn lộ trình hợp lý cho từng nội dung công việc, phân công trách nhiệm cụ thể cho từng cơ quan, tổ chức, từng cán bộ phụ trách để phù hợp với điều kiện thực tiễn. Càng xây dựng kế hoạch sát hợp với thực tiễn, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh càng đi vào cuộc sống một cách thiết thực, tránh bệnh hình thức, qua loa, chiếu lệ, hoặc ngược lại, cầu kỳ, lãng phí.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

1. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, nâng cao nhận thức về trách nhiệm đối với Tổ quốc, với nhân dân.

Cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”, không một phút ngơi nghỉ, suốt đời suy nghĩ, lo lắng, chăm lo cho nước, cho dân. Việc đẩy mạnh công tác giáo dục và tuyên truyền tư tưởng “tận trung với nước, tận hiếu với dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay sẽ khuyến khích mỗi cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với lợi ích của đất nước, của nhân dân, đặt độc lập dân tộc, chủ quyền và lợi ích quốc gia lên trên hết và trước hết.

Ý thức hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân của mỗi người phải được phát hiện, cổ vũ, động viên trong từng hành động nhỏ nhất, khuyến khích mỗi người đem hết tài năng, sức lực cống hiến cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho sự phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân thì mỗi cán bộ, công chức phải hoàn thành nhiệm vụ, chức trách của mình theo đúng Luật cán bộ công chức. Biểu hiện cụ thể là: Làm tốt những công việc hàng ngày, nhất là những việc liên quan trực tiếp tới đời sống của người dân.

Đồng thời với việc nâng cao ý thực trách nhiệm của người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, công tác giáo dục, tuyên truyền cần kiên quyết đấu tranh, phê phán những quan niệm và biểu hiện sai trái. Đó là sự lầm lẫn giữa trọng trách được tổ chức giao phó với quyền lực cá nhân. Sự lẫn lộn đó dẫn tới cơn khát quyền lực, chạy quyền, mua quyền, bán quyền, lộng quyền, cửa quyền, tham quyền cố vị. Khi có quyền mà thiếu lương tâm sẽ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân, đục khoét dân, “dĩ công vi tư”. Sinh thời Bác Hồ đã cảnh báo: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.

2. Hiện thực hóa và quyết tâm tổ chức thực hiện là “người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân” trong tất cả cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong từng cơ quan, đơn vị, địa phương.

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tư tưởng chính trị ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang làm cho lòng dân không yên. Vì thế, bên cạnh việc giáo dục tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì việc quyết tâm thực hiện và làm theo tấm gương của Bác mới thực sự đem lại ý nghĩa cho việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nói phải đi đôi với làm, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Quần chúng đã chán cái lối “nói mà không làm”, “nói hay nhưng làm dở”, “nói người nhưng mình không làm”… của một bộ phận cán bộ. Để thực sự lấy lại được hình ảnh những cán bộ, đảng viên tận tụy, trung thnàh vì dân, một mặt, chúng ta cần động viên, khích lệ cán bộ, đảng viên làm theo lời Bác; mặt khác, cần kiên quyết trừng trị và loại trừ những kẻ hành dân, khinh dân, lừa đảo và ăn cắp của dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, mỗi người, dù ở cương vị nào cũng cần phải tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức. Người đã có nhiều lời dạy rất cụ thể về đạo đức của giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội. Đến nay những lời dạy của Người vẫn còn nguyên giá trị và cần được cụ thể hóa trong điều kiện mới. Cơ sở để vận dụng, cụ thể hóa những lời dạy của Bác với các giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội là đường lối, quan điểm, giải pháp… đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Đó là bảo đảm quyền làm chủ của dân “dân biếit, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực hiện đường lối quần chúng “gần dân, học dân, gắn bó với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực hiện được nhiệm vụ của người cán bộ “nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, đảm bảo dân sinh, nâng cao dân trí”. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức dù làm việc ở vị trí nào cũng đều cần quán triệt những quan điểm chung đó.

Cần cụ thể hoá thái độ tận tụy, trung thành phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân thành các nhiệm vụ trên từng vị trí công tác, từng loại công việc. Thấm nhuần, quán triệt sâu sắc tư tưởng và tấm gương vì nước quên thân, vì nhân dân phục vụ của Bác Hồ để vận dụng, cụ thể hóa nội dung những lời dạy của Bác đối với ngành, địa phương, giới mình trong điều kiện mới, gắn với hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị.

3. Kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức, hướng dẫn với động viên, kiểm tra, giám sát việc làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh hướng vào việc nâng cao vai trò tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cần động viên, khuyến khích, hướng dẫn mọi người, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tự giác đề ra chỉ tiêu phấn đấu thiết thực. Trong đợt học tập chuyên đề lần này, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức công tác ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cán bộ lãnh đạo chủ trì, chủ chốt, cần xây dựng kế hoạch cá nhân học tập và làm theo lời Bác với những việc làm cụ thể, định kỳ báo cáo trước chi bộ, cơ quan, đơn vị.

Để hỗ trợ mỗi cá nhân thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi tập thể đảng, chính quyền, đoàn thể xây dựng các chương trình hành động, giúp đỡ, giám sát và kiểm tra việc tự giác làm theo của cán bộ, đảng viên, hội viên, đoàn viên của mình. Định kỳ yêu cầu các cá nhân báo cáo những việc đã làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

4. Phát huy vai trò nêu gương trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Một trong những nguyên tắc thực hành đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người đều phải nêu gương về đạo đức. Ông bà nêu gương cho con cháu, cha mẹ nêu gương cho con, anh chị nêu gương cho em, đảng viên nêu gương cho quần chúng… Phát huy vai trò nêu gương trong thực hành đạo đức có ý nghĩa to lớn không chỉ trước mắt mà còn mãi mãi sau này.

Trong phạm vi xã hội, việc nêu gương về đạo đức của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra câu nói rất hay và rất đúng của nhân dân là “Nhân dân thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Theo yêu cầu đó của dân, trong đảng và hệ thống quản lý nhà nước, việc lãnh đạo đi trước, làm trước để đảng viên, quần chúng, nhân dân đi sau, làm theo có ý nghĩa rất quan trọng. Yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo, quản lý là phải biết nêu gương. Không biết nêu gương, không nêu gương được thì không, hoặc chưa xứng đáng là người lãnh đạo tốt.

Việc nêu gương về đạo đức không chỉ là sự vận động, mà phải trở thành những quy định, sự ràng buộc trách nhiệm để mỗi người đều tự giác và cần phải thực hiện. Các cấp, các ngành cần chủ động tổ chức thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.

(Tài liệu do Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn)

CHUYÊN ĐỀ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH GẮN VỚI TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC SUỐT ĐỜI

17 Tháng Ba, 2020 4:11 Chiều

27946

Share

Facebook

Twitter

Pinterest

WhatsApp

Email

Print

(Tài liệu dành cho đoàn viên, thanh niên năm 2020, ban hành kèm theo Công văn số 4444 -CV/TWĐTN-BTG, ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Ban Bí thư Trung ương Đoàn)