Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất
Top 25 bài phân tích cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù”

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân– một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Hôm nay Top 10 Tìm Kiếm sẽ tổng hợp Top 25 bài phân tích cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù”. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu nhé!

Dàn ý phân tích cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù”

Mở bài:

  • Nguyễn Tuân là nhà văn yêu cái đẹp và luôn hướng tới nó. Văn ông không thiếu những con người, những hoàn cảnh đẹp đến hoàn bích mà cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù là ví dụ điển hình.
  • Trong tác phẩm Chữ người tử tù thì cảnh cho chữ chính là trung tâm của mọi giá trị nghệ thuật, nó vừa khắc họa chân dung người tử tù hiên ngang, thi vị lại vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn sâu sắc.
  • Cảnh cho chữ là một áng văn “xưa nay chưa từng có”

Thân bài

Tóm tắt hoàn cảnh trước khi cho chữ

  • Người tù Huấn Cao: vốn là người có tâm hồn phóng khoáng, thích tự do và chán ghét những kẻ nhũng nhiễu nhân dân. Ông còn là người nghệ sĩ tài năng yêu thích cái đẹp và luôn giữ gìn thiên lương trong sáng. Huấn Cao cũng có nguyên tắc riêng của mình, ông viết chữ nổi tiếng nhưng chỉ cho những người ông quý, không bao giờ cúi đầu trước uy quyền và đồng tiền.
  • Quản ngục: một người có thiên lương, biết quý trọng người hiền và yêu cái đẹp nhưng lại làm nghề quản ngục. Khao khát được chữ của Huấn Cao treo trong nhà là khao khát lớn đời ông.
  • Cảnh cho chữ diễn ra trong ngục tối.
  • Trong bối cảnh giữa một người tù và một tên quản ngục, ban đầu Huấn Cao không nhận ra tấm lòng của viên quản ngục nhưng sau đó người tử tù không thể từ chối mong muốn chính đáng của một người biệt nhỡn liên tài.

Diễn biến cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

  • Thời gian: Tình huống cho chữ diễn ra hết sức tự nhiên trong thời gian giữa đêm nhưng lại là thời gian cuối cùng của một con người tài hoa.
  • Không gian: Cảnh cho chữ thiêng liêng lại được diễn ra trong cảnh u ám của ngục tối. Bối cảnh được khắc họa trên nền đất ẩm thấp, mùi hôi của dán, chuột…
  • Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối cùng của mình cho người khác. Kẻ xin chữ lẻ ra là người có quyền hành hơn nhưng cúi đầu mang ơn.

Giải thích tại sao Cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có:

  • Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang nghiêm hay ít nhất là nơi sạch sẽ, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị.
  • Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự thoải mái về tâm lí, thể xác trong khi Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm sau.
  • Người quản ngục là người có quyền bắt buộc kẻ tử tù nhưng ngược lại kẻ tử tù lại ở vị thế cao hơn có quyền cho hay không cho chữ.

Ý nghĩa của cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù

  • Ca ngợi tấm lòng thiên lương của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục
  • Ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi u ám nhất.
  • Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người của Huấn Cao từ đó  thể hiện quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.

Kết bài

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Phân tích cảnh cho chữ – Mẫu số 1

Nguyễn Tuân được sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là một văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.

Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả hai đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là một trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong một hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là một viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có ba người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là dể phô trương tài năng mà là để tạ một tấm lòng.

Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc hoạ bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huấn tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Những nét chứ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải… Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có một môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ một tấm lòng, để chia sẻ với một tri kỉ và để nâng đỡ một thiên lương.

Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hoá con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm toả ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có” vì thú chơi chữ là một thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháo không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hoá nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm một cuộc đảo lộn trất tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hoá, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hoá truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

“Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.

Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường và xây dựng các hình tượng nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây là thiên truyện ngắn kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.

Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.

Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhân định: Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc; đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn hoá, xã hội…., năng lực quan sát lọc lõi và trí tưởng tượng mạnh mẽ và bay bổng của tác giả Vang bóng một thời. Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tù tặng thư pháp nơi ngục thất vừa ảm đạm vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục và thơ lại bỗng thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ phi thường – xây dựng được cốt cách phi phàm, những “con người khổng lồ” nhưng có khi phải lặn ngụp “dưới đáy” xã hội, đó cũng là một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa đầy mơ ước thiết tha của Nguyễn, sở dĩ gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung phẩm tính cho nhau ấy, đều là những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân: tam vị nhân vật, nhất thế? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương – Tam vị nhất thể sáng láng này dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến tồi tệ hiên hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái xã hội nhãn tiền ấy đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá, “Sơn Hưng Tuyên” hóa qua bối cảnh câu chuyện ông Huấn cho chữ ; đó là một xã hội “hỗn loạn xô bồ” với những thế nhân “cặn bã”, những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc: Đối với kẻ sa cơ thất thế thì sẵn sàng hung hăng “phết cho mấy hèo bây giờ” – “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang được nếm trải thấm thía cái mùi vị xã hội ấy – thậm chí, một sự nghiệm sinh khá kĩ lưỡng, tất nhiên chưa đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoạn mệnh như ông Huấn, nhưng bất hạnh đến mức tù đày khổ nhục đắng cay (khoảng 1929 – 1930) thì cũng đã từng: “ những trái tim đó (của các tù nhân – V.T) thỉnh thoảng có lên tiếng nhưng một cách dữ dội và tàn ác. Những cuộc xô xát giữa tù và tù giữa bữa cơm mắm nhà nước phát, thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm cá thối trong một bầu không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). Có thể nói nguyên mẫu nhân vật Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đát Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ trăm năm trước; nhưng nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của tác giả. Bấc đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương: Thân phận không phải là hệ quả của bản chất – tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu là ở chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân tộc trong  Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây: Thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho là thứ văn tự tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng), nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ cá tính và nhân cách…; do đó viết chữ Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhiều khi trở nên một hành động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp có khi đứng riêng một mình, có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…). Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hoà đồng cùng truyền thống văn hóa phương Đông đã say mê thư pháp, và cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh sĩ Bắc Hà về thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 – 1855) với văn chương “vô tiên Hán” và nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây dựng một nguc quan biết nung nấu sở nguyện: “Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên lương và thư pháp kiệt xuất của người tử tù: “Người tù viết xong một chữ, viên quan ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn – một con ngưòi tài hoa và am tường và đã sống chan hoà cùng folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian: chèo, tuồng; nghệ thuật tạo hình dân gian; dân ca: đào nương ca, trong đó có hát ca trù…).

Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó có lớp từ cổ đã tạo hiệu quả lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể – lịch sử, rất hội hoạ điêu khắc và điện ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.

Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn Nguyễn Tuân có đầy đủ những điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ: Tác giả Chữ người tử tù đã dùng từ “ngấc”, nhưng sách phụ lục văn 12 đã in sai là: “Viên quan coi ngục ngóc đầu”; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau, và về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau: Ngóc đầu là dựng thẳng dậy, gây ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu là nhấc đầu nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút snág tác văn chương ấy, một phần do thiên bẩm mà Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ, bất cứ cái gì viết ra giấy,in ra chữ, Tuân đều thận trọng, ít ra cũng là thận trọng hơn so vói những nhà văn, nhà thơ khác (…). Thực tôi chưa thấy bản thảo nào sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén xô bô, tờ to tờ nhỏ khác nhau, bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kềm kệp cẩn thận và không bao giờ quên đóng ở trên đầu một cái dấu xanh in một cánh buồm “Gió đã lên”, và thường đến cuối bài lại kí một chữ bay bướm và đóng một cái dấu son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng có nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị đó để bây giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản thảo và sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng dân tộc; đồng thời… than ôi! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn nói gót, hoặc cũng muốn… xin chữ ông Huấn Cao!

Không phải ngẫu nhiên, mà chính cái tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tủ tù – một trong những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nguyễn Tuân được sinh ra trong 1 gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù” được in trong tập “Vang bóng một thời” đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là 1 văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.

Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa 2 nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả 2 đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là 1 trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong 1 hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là 1 viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có 3 người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là để phô trương tài năng mà là để tạ 1 tấm lòng.

Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc sảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huân tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ đậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp Những nét chữ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng xiêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của 1 đời con người”. Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải…. Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có 1 môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ 1 tấm lòng, để chia sẻ với 1 tri kỉ và để nâng đỡ 1 thiên lương.

Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có” vì thú chơi chữ là 1 thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháp không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hóa nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia quá đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm 1 cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hóa, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp

Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Làm nên giá trị cho tác phẩm, kết tinh giá trị tư tưởng của văn bản trong Chữ người tử tù không gì khác chính là cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nó là kết tinh nghệ thuật, hoàn thiện vẻ đẹp phẩm chất nhân vật và là kết tinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Tuân.

Huấn Cao vốn là một người Nho sĩ, vì bất mãn với thực tại xã hội đương thời, đã đứng lên khởi nghĩa, nhưng cuối cùng thất bại ông bị bắt giam và chờ ngày hành quyết. Ông là một người tài hoa, có tài viết chữ đẹp mà ai cũng ao ước gặp gỡ. Ông gặp quản ngục tại nơi mà ông bị giam giữ. Không gian gặp gỡ của họ là chốn tù lao, nơi chỉ có lừa lọc và chém giết lẫn nhau. Đây đồng thời cũng là ngày sống cuối cùng của người tử từ Huấn Cao. Vị thế của các nhân vật có sự thay đổi khác nhau, trên bình diện xã hội: Huấn Cao là kẻ tử tù, mang trong mình mong muốn lật đổ và thay đổi trật tự xã hội, còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, là người đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Trên bình diện xã hội, họ là những người đối nghịch với nhau.

Còn trên bình diện nghệ thuật: Huấn Cao là một người nghệ sĩ với tài năng viết chữ đẹp, được biết bao người coi trọng, mếm mộ; còn viên quản ngục là kẻ liên tài, là người trân trọng cái đẹp và cái tài sáng tạo ra cái đẹp. Ở đây họ lại là những người bạn tri âm, tri kỉ. Còn trên bình diện nhân cách: Huấn Cao là người có khí phách kiên cường, có thiên lương trong sáng, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ; quản ngục là người biết biết kính mến khí phách và chính là tấm lòng trong thiên hệ. Trong quan hệ này họ cũng là những người tri âm. Như vậy mối quan hệ giữa họ vô cùng phức tạp, với những vị thế khác nhau khiến cho mối quan hệ trở nên chồng chéo.

Trong những ngày ở nhà lao tỉnh Sơn, viên quản ngục có thái độ biệt đãi đặc biệt với ông Huấn Cao: cặp mắt hiền từ khi nhận tù nhân, đồ ăn thức uống trong những ngày ông Huấn trong ngục, không chỉ vậy quản ngục còn đích thân xuống nhà lao gặp Huấn Cao với sự lễ độ, khúm núm, dù bị Huấn Cao đuổi ra ngoài vẫn khiêm nhường, lặng lẽ mà không hề nổi cáu. Bởi quản ngục mong muốn có được nét chữ ông Huấn để treo trong nhà. Ngày nhận tin Huấn Cao sẽ bị giải đi, quản ngục lặng người đi bởi ông biết có thể cả đời sẽ không bao giờ có được chữ ông Huấn Cao. Và chính trong hoàn cảnh đó, thầy thơ lại đã đánh liều xin với Huấn Cao, và được Huấn Cao nhận lời cho chữ. Đây chính là bối cảnh dẫn đến cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có.

Không gian cho chữ vô cùng đặc biệt, người ta chỉ xin chữ và cho chữ ở những nơi sạch sẽ, yên tĩnh, trang trọng còn trong tác phẩm cảnh cho chữ lại diễn ra ở nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, đó là nơi chỉ tồn tại cái xấu, cái ác, lừa lọc và giả dối với nhau. Thời gian cho chữ cũng là một điểm đặc biệt khac: Huấn Cao cho chữ khi mà chỉ đến sáng mai sẽ phải đi chịu án tử hình. Ông đã dành những giây phút cuối cùng của cuộc đời để vừa hoàn thành nguyện ước cho quản ngục, vừa để lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất cho cuộc đời. Trong không gian tăm tối ấy ánh lên là tấm vải lụa trắng bạch trắng tinh còn nguyên vẹn lần hồ, người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ. Mỗi chữ quản ngục viết ra “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” còn thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực”.

Trước cái đẹp, con người ta dường như không quan tâm tới bất cứ chuyển động nào từ thế giới bên ngoài, họ chỉ nhìn thấy Huấn Cao và những nét chữ ông đậm tô, thành kính và thiêng liêng trước khoảnh khắc cái đẹp được tạo tác. Ông Huấn Cao viết xong phần lạc khoản, lặng lẽ thở dài và đỡ viên quản ngục dậy. Ông thương cho quản ngục phải ở nơi đen tối, làm nghề này thì khó có thể giữ được thiên lương cho lành vững, rồi cũng đến lem luốc cả đời lương thiện đi. Chính cái đẹp đó đã có sức mạnh cải hóa con người. Giữa người cho chữ và nhận chữ có sự chuyển đổi vị thế cho nhau, cho thấy sự cảm hóa của cái đẹp. Người cho chữ là người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp lại ở vị thế của tử tù; vốn là đối tượng cần được giáo dục, cảm hóa lại ban phát những lời khuyên chí tình cho quản ngục. Người xin chữ ở vị thế quản ngục, cai quản tử tù, tiếp nhận, bái lĩnh những lời khuyên của tử tù. Qua đó Nguyễn Tuân muốn truyền tải thông điệp: niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, của cái thiện.

Cảnh cho chữ đã được Nguyễn Tuân vận dụng thủ pháp đối lập tương phản triệt để, đem lại hiểu quả nghệ thuật cao. Không khí cổ xưa của một thời đã cách xa hàng trăm năm đã được Nguyễn Tuân gợi lại qua ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật. Cảnh cho chữ là một bức tranh giàu chất hội họa, đồng thời ông vận dung linh hoạt kĩ thuật điện ảnh, liên tục chuyển góc, chuyển cảnh, quay cận rồi quay xa giúp người đọc có cái nhìn trọn vẹn về nhân vật.

Cảnh cho chữ là một cảnh đặc sắc, “xưa nay chưa từng có”, kết tinh giá trị nghệ thuật và tư tưởng của Nguyễn Tuân, làm nổi bật và hoàn chỉnh vẻ đẹp nhân cách của mỗi nhân vật. Với cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã khẳng định, giữa chốn nhà lao tù ngục, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị mọi thứ mà chính người tử tù với tài năng và cốt cách làm chủ. Qua đó, ông cũng ngầm khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái tài hoa và nhân cách cao đẹp với cái xấu xa, độc ác, tàn nhẫn.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Hình ảnh ông đồ của Vũ Đình Liên đưa ta vào quá khứ xa xăm khi tính dân tộc của in đậm trên mỗi câu đối bằng mực tàu giấy đỏ hoặc lụa trắng. Cứ đến Tết là nhà nhà đến gặp thầy đồ xin mấy chữ chơi xuân. Cho nên thú cho chữ là thú vui tao nhã, là của những con người có chút hiểu biết, những người thật sự có thiên lương mới cảm được. Thế nhưng khi đến với tác phẩm “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân lại xây dựng lên một cảnh tượng cho chữ hiếm có với nhiều đặc sắc nghệ thuật độc đáo.

Quả là một cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng bởi bản thân nơi cho chữ không phải bên những hoa đào, hoa mai, sập bàn thảnh thơi cũng không phải là thầy đồ với con trẻ mà là cảnh cho chữ diễn ra trong chốn ngục tù với những tuyến nhân vật đối nghịch nhau về vị thế và giai cấp. Không gian được tái dựng là “buồng tối chật hẹp đầy phân chuột, phân gián”, hôi hám và ẩm thấp. Con người trong đó cũng ở vị thế khác nhau, một kẻ tử tù còn hai kẻ kia là cai tù có trách nhiệm chuẩn bị thi hành án.

Mặt khác, đã là cảnh tượng cho chữ thì không thể nào thiếu: chữ, người cho chữ, giấy, mực. Quả thật, những thứ nào cũng đã đạt đến độ “xưa nay chưa từng có”. Dù là giấy hay mực viết đều như đang phả ra linh hồn lớn lao của giá trị tinh túy cổ xưa. Chỉ miêu tả một tấm lụa thôi mà Nguyễn Tuân có đủ mọi cách thể hiện “một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”, “một bức lụa trắng”, “phiến lụa óng”, “tấm lụa trắng tinh”, “vuông lụa trắng”… Đến “thoi mực” được chú trọng miêu tả mùi hương “Thoi mực, thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”. Người cho chữ thì kì vĩ “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Đến con chữ thì dường như hội tụ cả nghệ thuật thư pháp một thời “vang bóng” xa xưa. Chữ phải thật “vuông, tươi tắn” và “nói lên hoài bão tung hoành của đời người”. Như vậy, cảnh tượng cho chữ có sự đối lập giữa hiện thực và tâm tưởng, ánh sáng và bóng tối, cao cả, tốt đẹp với xấu xa.

Khi xây dựng cảnh tượng cho chữ, Huấn Cao đã hình tượng hóa cảnh tượng này. Nếu như ở đầu truyện ngắn, ba nhân vật thơ lại, quản ngục và Huấn Cao như ba đốm sáng lạc lõng, lẻ loi thì kết thúc ba đốm sáng ấy lại kết hợp làm một, xua đi bóng tối bao la dày đặc ở chốn ngục tù. Cái thiên lương trong sáng, cái đẹp và cái tài đã tập hợp họ lại. Chính sự tập hợp này đã tạo thành một ngọn lửa soi sáng chốn ngục tù. Nguyễn Tuân đã dựng lên một cảnh tượng hào hùng, miêu tả sống động mọi chi tiết đều rõ như khắc chạm, thể hiện tài năng bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc, từ dùng rất phong phú, câu văn có nhịp điệu… Nhà văn đã dựng lên thật đẹp nhóm hình tượng ba người tạo nên một nhóm “tượng đài thiên lương”. Đặc biệt hình tượng có sự đảo lộn về trật tự ngôi thứ trong xã hội. Viên quản ngục thì lúng túng, kính trọng kẻ tử tội còn tội nhân thì đứng đường hoàng răn dạy đạo lý cho kẻ cai tù. Chốn lao tù xưa nay chỉ là những lừa lọc, chết chóc, thô bỉ thì nay trở thành thị điểm của sự sáng tạo nghệ thuật. Không khí của nhà tù hoàn toàn sụp đổ trước không khí của cảnh cho chữ.

Qua cảnh tượng cho chữ tác giả đã thể hiện sự chiến thắng của cái ánh sáng với bóng tối, của thiên lương với cái xấu xa và khẳng định con người dù sống trong cái ác cái nhưng vẫn luôn hướng về cái cao cả. Phải chăng đó cũng là niềm tin vào con người và vào nghệ thuật nhân văn của tác giả. “Chữ người tử tù” đã thể hiện tài dựng người, dựng cảnh, tạo không khí, ngôn ngữ góc cạnh, lời văn trang nhã, câu văn diễn xuôi mà âm điệu trầm bổng… trong văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân xứng đáng là một trong những cây bút tài hoa, độc đáo, uyên bác và sâu sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân – thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút, giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn diễn ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “ một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm núm, chuyển động ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: Cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác (cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn lạ thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân-thiện-mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngợi viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri ân, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám, nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật (văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: Dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc, là gương mặt tiêu biểu cho văn học lãng mạn thời kì 1930-1945. Ông được mệnh danh là người suốt đời đi tìm cái đẹp, đưa cái đẹp vào trong từng trang viết. Tên tuổi của ông đã thực sự sáng chói khi “Vang bóng một thời” ra mắt bạn đọc. Nổi bật trong mười một truyện ngắn đó là “Chữ người tử tù”. Và thành công trong tác phẩm chính là Nguyễn Tuân đã xây dựng được “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”- cảnh cho chữ ở cuối truyện.
Cảnh cho chữ là một tình huống độc đáo, là trung tâm mĩ học của toàn bộ tác phẩm. Nếu không có cảnh cho chữ thì toàn bộ phần dựng truyện sẽ trở nên vô nghĩa, hơn nữa chủ đề tư tưởng của tác phẩm cũng như quan điểm thẩm mĩ của nhà văn không được thể hiện rõ từ đó, giá trị của tác phẩm cũng dần mờ nhạt đi. Để đến với cảnh cho chữ, ngay từ đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã giới thiệu về Huấn Cao, viên quản ngục và cuộc gặp gỡ của họ tại nhà lao Sơn Tuyên Hưng. Huấn Cao nổi tiếng là một nho sĩ tài hoa, là người có khí phách và thiên lương trong sáng. Ông nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn là viết chữ nhanh và đẹp. Nhưng tính ông vốn khoảnh, ông ít chịu cho chữ trừ những chỗ tri kỉ. Hay nói cách khác, muốn xin được chữ của Huấn Cao phải được ông kết vào hàng thân mật. Gặp quản ngục trong nhà lao, Huấn Cao tỏ ra thái độ khinh bỉ không giấu giếm bởi trong mắt ông, quản ngục chỉ là kẻ tiểu lại giữ tù, một kẻ làm nghề thất đức. Nhưng khác với suy nghĩ đó, tuy sống ở nơi cặn bã, nơi ngự trị của cái xấu và cái ác nhưng quản ngục lại là người có tính cách dịu hiền, yêu cái đẹp, trọng cái tài. Ông băn khoăn không biết có xin được chữ của Huấn Cao không? Trong hoàn cảnh đó, nếu như quản ngục làm đúng với công việc, với chức trách của mình thì sẽ trà đạp lên cái đẹp. Còn nếu quản ngục biệt đãi Huấn Cao thì lại bị tử tù hiểu lầm hơn nữa lại an nguy đến tính mệnh. Nhưng với tấm lòng yêu mến cái đẹp, quản ngục đã bất chấp tất cả để có được những nét chữ “vuông lắm, đẹp lắm” do chính tay Huấn Cao viết.

Mối quan hệ giữa quản ngục và Huấn Cao thật đặc biệt. Trên phương diện xã hội, họ là kẻ thù của nhau nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ. Dõi theo câu chuyện, người đọc không khỏi băn khoăn không biết cảnh cho chữ liệu có xảy ra? Phiến trát thứ hai đến, xung đột truyện mở ra, Huấn Cao đã được nghe thơ lại nói về tâm nguyện của quản ngục và ông đã biết rằng quản ngục không phải là tên coi tù bình thường. Một người cứng như đá như Huấn Cao đến chết chém mà cũng không sợ lại cảm động trước một tấm lòng “thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao đã đồng ý cho chữ, hai tấm lòng đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa họ để họ gần nhau hơn.
Cảnh cho chữ đã được diễn ra trong một không gian đặc biệt, một không gian mà đáng ra con người không nên gặp gỡ đó là nhà ngục. Hơn nữa, thời gian lại là vào lúc đêm khuya đồng thời cũng là giây phút cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao. Nổi bật trên cái nền không gian ẩm thấp của nhà tù chính là hình ảnh một người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích” và hình ảnh thầy thơ “:run run” bê chậu mực và quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm”.

Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân gọi cảnh cho chữ là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cho chữ vốn là một công việc thanh cao chỉ diễn ra nơi thư phòng sang trọng đầy đủ ánh sáng hay ít nhất người sáng tạo nghệ thuật cũng phải được tự do thân thể, thoải mái về tinh thần. Thế mà ở đây, Huấn Cao cho chữ viên quản ngục vào đêm khuya, tại nhà giam nơi ẩm thấp, tối tăm “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Hơn nữa, ngày mai, Huấn Cao lại phải ra pháp trường lĩnh án chém, chân tay đang bị trói chặt. Người sáng tạo nghệ thuật thì bị mất tự do. Có lẽ đây chính là yếu tố đầu để khẳng định đây là cảnh cho chữ đặc biệt.
Hơn nữa, tư thế  của người cho chữ và nhận chữ cũng hoàn toàn bị đảo lộn. Huấn Cao là kẻ tử tù thì đàng hoàng, uy nghi. Quản ngục là trưởng trại giam, người nắm trong tay quyền sinh, quyền sát thì lại sợ sệt, khúm núm. Cũng chính vì thế mà trật tự kỉ cương của nhà tù cũng bị đảo lộn một cách ghê gớm. Huấn Cao bị tước hết mọi thứ quyền thì dõng dạc, răn dạy quản ngục. Quản ngục đáng ra phải là người chỉ bảo tù nhân thì lại quỳ gối lắng nghe. Với những dòng chữ vuông và đẹp, Huấn Cao đã nói: “Ta khuyên thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở… Ở đây, rồi ô ếu mất cả đời lương thiện đi”. Sâu thẳm trong tâm quản ngục đã hiểu  ra điều gì đó để rồi nước mắt chảy vào kẽ miệng, bái Huấn Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Người ta thấy mình mê muội khi ai đó làm sáng ra. Cái mê muội của quản ngục không những không làm mất đi hình ảnh con người yêu mến cái đẹp mà ngược lại, còn tôn lên vẻ đẹp đáng kính của con người ông.

Bằng bút pháp lãng mạn, cảnh cho chữ được xây dựng nhằm tô đậm thêm tính cách của các nhân vật. Vẻ đẹp của Huấn Cao nở rộ ở tài hoa, khí phách và thiên lương còn quản ngục lại là tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”. Hơn nữa, xây dựng cảnh cho chữ, chủ đề của tác phẩm cũng như quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ. Cái dơ dáy, tăm tối bẩn thỉu của nhà ngục đối lập với cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy sáng rực, với tấm lụa trắng tinh và mùi thơm của chậu mực. Những nét chữ vuông tươi tắn nói lên sự tung hoành của cả một đời người cho thấy cái đẹp có thể được sinh ra từ mảnh đất xấu và ác nhưng cái đẹp không thể chung sống với cái xấu và cái ác, cái đẹp phải luôn “cứu vớt con người”.
Để làm nổi bật lên cảnh cho chữ không thể không nói đến tác dụng của các biện pháp nghệ thuật được sử dụng. Đó là các biện pháp đối lập- một đặc trưng của văn học lãng mạn. Cùng với đó là sự sử dụng ngôn từi cổ kính, trang nghiêm tạo nên vẻ đẹp cho toàn bộ tác phẩm. Cuối cùng, cảnh sắp xếp của tác giả cũng để lại dấu ấn riêng biệt tạo nên một phong cách rất “ngông” của Nguyễn Tuân.

Mác đã từng nói “Điều quan trọng của mỗi tác phẩm là cách kết thúc”. Đúng như vậy! Kết thúc câu chuyện không chỉ mở ra hướng nghĩ cho giá trị của toàn bộ tác phẩm mà còn là số phận của các nhân vật. “Chữ người tử tù” cũng vậy! Qua sự kết thúc đầy hình ảnh, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc biết bao suy nghĩ, bao thanh thản bởi sự cứu vớt con người của cái đẹp. Chính vì lẽ đó, tác phẩm xứng đáng là một thiên truyện hay, nó sẽ vượt qua bước chân của thời gian đến với bạn đọc cả hôm nay và mai sau.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường và xây dựng các hình tượng nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây là thiên truyện ngắn kết tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.

Trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, cảnh tượng cho chữ được diễn ra vào cuối tác phẩm và diễn ra trong hoàn cảnh trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài qua lời kể của thầy thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù. Trong không gian đêm khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật hẹp và ẩm ướt, Huấn Cao – người tử tù “cổ đeo gông, ch”khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Tác giả Nguyễn Tuân đã vận dụng thành công thủ pháp đối lập để tái hiện thành công cảnh cho chữ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Trong hệ hình văn hóa thời trung đại, chơi chữ là một thú vui tao nhã, những nét chữ uốn lượn tung hoành còn thể hiện rõ phẩm chất, tài năng của bậc quân tử, đấng anh hùng. Bởi vậy, thú vui này thường gắn liền với những bối cảnh thanh tao như chốn viện sảnh, thư phòng, trà thất. Tuy nhiên, cảnh tượng cho chữ diễn ra trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” lại được khắc họa trong một bối cảnh hoàn toàn đối lập. Đó là buồng giam chật hẹp nơi tỉnh Sơn với sự tăm tối, chật hẹp, ẩm ướt, “tường đầy mạng nhện”, “đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian diễn ra cảnh cho chữ trong đêm khuya trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường đã tô đậm hơn nữa bối cảnh độc đáo của cảnh tượng này.

Không chỉ đặc biệt ở bối cảnh không gian và thời gian, cảnh cho chữ còn là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự đảo lộn vị thế giữa người cho chữ và người nhận chữ. Huấn Cao – người cho chữ vốn là kẻ tử tù “đường bệ ung dung” phác họa những nét chữ thể hiện hoài bão, lí tưởng, còn viên quản ngục- người nhận chữ là đại diện cho quyền lực lại “khúm núm sợ sệt”. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối quan hệ xã hội giữa người tử tù và quản ngục, thơ lại, mà chỉ còn người nghệ sĩ tài hoa đang tạo ra cái đẹp – những nét chữ uốn lượn trước đôi mắt và sự kính phục của những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu cái đẹp. Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn trên tấm lụa trắng hương thơm của thoi mực đã chiến thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt chốn ngục tù tăm tối. Người tử tù vươn lên làm chủ, còn những người vốn có quyền uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng “Ngài”, “xin bãi lĩnh”, “xin lĩnh ý” đầy tôn kính và thái độ nhún nhường, khép nép cùng hành động cúi đầu, vái lạy trước tù nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục tù đã trở thành nơi tri ngộ, gặp gỡ của những con người yêu và say mê cái đẹp. Không chỉ dừng lại ở đó, cảnh tượng cho chữ còn thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên của Huấn Cao đã thể hiện quan điểm thẩm mỹ và thái độ của ông về nghệ thuật và cuộc sống con người.

Thông qua việc tái hiện cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”, tác giả Nguyễn Tuân đã gửi gắm những ý niệm ẩn dụ về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật. Trước hết, sự thay đổi vị thế giữa các nhân vật đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước những điều tầm thường, sự xấu xa, độc ác. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp của nhân vật đã được khắc họa rõ nét hơn. Hình tượng nhân vật Huấn Cao đã hiện lên chân thực, sinh động với phẩm chất, tài năng, khí phách hiên ngang, phi thường; còn bức chân dung viên quản ngục – “thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” được tô đậm hơn nữa ở tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và hướng về cái đẹp. Đặc biệt, lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục còn thể hiện quan điểm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân: “cái đẹp gắn liền với cái thiện”, sự thiên lương, trong sáng không thể tồn tại trong môi trường của cái xấu, cái ác.

Như vậy, bằng bút pháp lãng mạn, tác giả Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công cảnh cho chữ diễn ra chốn ngục tù để thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đoạn văn còn thể hiện tài năng của nhà văn trong việc vận dụng thủ pháp tương phản, đối lập kết hợp ngôn ngữ giàu chất tạo hình, điêu luyện để tạo nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” về sự chiến thắng của cái đẹp.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nguyễn Tuân được coi là một trong những tác giả lớn người đã có những đóng góp vô cùng tích cực cho nền văn học Việt Nam. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân ông miệt mài đi tìm cái đẹp và khát khao cháy bỏng tạo nên những điều chưa từng có trong thực tế. Và đến đây người ta không thể nào quên cảnh cho chữ được tác giả tái hiện trong tác phẩm “Chữ người tử tù”. Nó đã đưa Nguyễn Tuân trở thành một bậc thầy trong việc xây dựng tình huống truyện.

Cảnh cho chữ được nhắc đến ở cuối tác phẩm khi mà tâm trạng của viên quản ngục thầy thơ lại đang vô cùng rối ren. Họ phải đối diện với sự thật là ông Huấn Cao sắp phải hành hình. Và chính tình huống này được coi như việc cởi nút thắt tháo gỡ những băn khoăn của người đọc đồng thời nó đã bộc lộ một giá trị vô cùng lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn về việc Huấn Cao cùng đồng bọn phản nghịch sẽ bị xử tử, viên quản ngục lấy làm xót xa ông mang chuyện kể lại với thầy thơ lại. Nghe xong, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam để tỏ rõ nỗi lòng với Huấn Cao. Và cũng chính đêm hôm ấy, dưới một khung cảnh chưa từng có trong lịch sử một việc chưa từng có đã diễn ra. Nơi ngục giam đầy u tối với lập lòe ngọn đèn dầu leo lét người ta thấy một người tử tù cổ đeo gông, chân mang xiềng ung dung đĩnh đạc thả hồn vào từng nét chữ trên dải lụa trắng. Trong sự khúm núm của những viên quản ngục, thầy thơ lại. Đến đây ta bắt gặp hai thứ vô cùng đối lập đó chính là sự thanh tao của nghệ thuật và sự đen tối dơ bẩn của chế độ cũ. Tưởng chừng nó không thể xuất hiện cùng nhau nhưng lại hòa quyện trong một khung cảnh hết sức “bất ngờ” và đầy rẫy éo le.

Đêm hôm ấy có lẽ là đêm cuối cùng của người tử tù Huấn Cao và cảnh cho chữ cũng là những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông. Hai con người ở hai thái cực khác nhau của xã hội một bên đại diện cho pháp luật, một bên là tử tù thế nhưng cuối cùng họ đã gặp nhau và đồng cảm với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhà văn vô cùng sáng tạo khi đã tạo nên một tình huống truyện đầy éo le, đầy rẫy sự tương phản. Mà dường như bóng tối, sự dơ bẩn của nhà tù phong kiến thực dân không thể làm làm lu lờ đi sự thiện lương trong con người. Nói cách khác thì cái đẹp nghệ thuật đã chiến thắng tất cả những xấu xa những định kiến của xã hội. Thế mới thấy, nghệ thuật có sức mạnh lớn lao đến nhường nào nó có thể xóa nhòa mọi ranh giới, mọi khoảng cách để người và người đến gần nhau hơn. Nghệ thuật chính là cảnh giới cao nhất của cuộc sống mà con người muốn hướng đến, ở đó không có thứ bậc, không có sang hèn chỉ có tâm hồn đồng cảm mà thôi.

Sau khi cho chữ xong Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê để tránh xa chốn dơ bẩn này vì bởi lẽ “chỗ này không hợp với ông đâu”. Có lẽ Huấn Cao bằng cái tài của một bậc hiền triết cũng đủ hiểu được viên quản ngục là người thế nào. Vì thế ông mới bảo họ tránh xa nơi này ra. Muốn chơi chữ thì phải giữ được thiên lương. Ở trong một môi trường đầy rẫy sự cám dỗ và cái ác thì cái đẹp không thể bền vững và tồn tại được. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, từ những thứ trái nghịch nhưng nó không thể song song tồn tại với nhau. Thú chơi chữ cũng vậy nó không chỉ thể hiện qua nét mực mà còn phải cảm nhận bằng chính sự rung cảm sâu sắc bên trong của mỗi người. Cái gốc của việc chơi chữ chính là cái thiện và lối sống văn hóa.

Trước những lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục chỉ biết chắp tay và chảy nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng chính sức mạnh của tình người, của sự thiện lương của một con người xuất chúng tài ba Huấn Cao đã “cứu vớt” một linh hồn trong đống bùn lầy của cái ác. Trên con đường đi tìm cái chết của mình Huấn Cao đã gieo mầm để những con người lạc lối như thầy thơ lại viên quản ngục trỗi dậy. Và cũng vì lẽ đó hình tượng của người anh hùng càng trở nên lớn lao hơn bao giờ hết. Nó khẳng định một điều bất diệt đó chính là dù ở bất cứ đâu, trong bất kì hoàn cảnh nào thì con người luôn khát khao đến sự chân thiện mỹ.

Bàn về nghệ thuật trước cách mạng có người cho rằng Nguyễn Tuân chính là một nhà văn theo tư tưởng duy mỹ tức là ông chỉ chăm chăm đi tìm kiếm cái đẹp. Thế nhưng đặt trong hoàn cảnh tác phẩm này thì quan điểm đó có vẻ sai lầm. Vì trong tác phẩm chữ người tử tù mà đặc biệt trong cảnh cho chữ này Nguyễn Tuân không chỉ tôn sùng cái đẹp mà còn nhấn mạnh cái đẹp bao giờ cũng đi liền với đạo đức với sự thiện lương. Và viên quản ngục thầy thơ lại chính là những thanh âm trong trẻo trong cái bản nhạc đầy xô bồ đó. Đồng thời cũng thể hiện một tình yêu nước bất diệt căm ghét bọn thống trị và ca ngợi những con người có tài có tâm như Huấn Cao và viên quản ngục.

Chữ người tử tù được xem như một bài ca bất diệt về tài năng nhân cách của con người và sức sống bền bỉ của nghệ thuật. Những dòng chữ của Huấn Cao như một sự gieo mầm của sự sống, gieo mầm cho nhân cách và nó sẽ được tiếp nối mãi cho đến sau này. Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn, hình ảnh vô cùng chậm rãi giàu sức gợi như một đoạn phim quay chậm để tái hiện một tình huống truyện đầy bi đát. Ngôn ngữ điêu luyện nhưng chân thực, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật từ đó tái hiện lên một cảnh tượng khiến nhiều người suy ngẫm.

Có thể nói cảnh cho chữ trong thiên phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân chính là một tình huống vô cùng đắt giá. Nó chính là bài ca ca ngợi sự tài hoa của những con người nghĩa khí, cho sự bất diệt của nghệ thuật. Đồng thời cũng ngầm khẳng định cái đẹp nghệ thuật có sức mạnh lớn lao. Có thể cảm hóa được những điều xấu xa của cuộc đời.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trong đó tác phẩm Chữ Người là một trong những tác phẩm hay và đặc sắc, nó biểu hiện rõ nét con đường nghệ thuật, nét đặc sắc, tiêu biểu cho dòng nghệ thuật của tác phẩm. Trong đoạn trích, hình ảnh nhân vật Huấn Cao cho viêm quản ngục chữ là chi tiết đắt giá, biểu hiện toàn bộ giá trị trong tác phẩm.

Mỗi chi tiết trong tác phẩm đều được thể hiện rõ nét, sâu sắc nhất trong từng tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, đặc sắc, tiêu biểu cho toàn bộ đoạn trích, với cách thể hiện tinh tế, sâu sắc, cảnh cho chữ được coi như khung cảnh xưa nay chưa từng có.

Chữ biểu hiện nét nghệ thuật đặc sắc, là cái đẹp, nó biểu hiện tài năng của Huấn Cao trong biệt tài sử dụng chữ của mình, cảnh cho chữ diễn ra ở nơi ngục tù tối tăm, ở đó có phân chuột, phân rán, ở đây nó đối lập với giây phút cho chữ thiêng liêng, cao quý mà tác giả đang miêu tả trong đoạn trích, ngay chính nhan đề nó đã biểu hiện một cảnh tượng mà trước nay chưa từng có. Một khung cảnh với khung cảnh và nét đặc sắc nghệ thuật nội dung cũng có sự đối nghịch với nhau.

Đối lập giữa vẻ đẹp cao quý với hình ảnh của ngục tù tăm tối, khung cảnh ở đây mà tác giả sử dụng cũng để tăng mức độ biểu hiện của tác phẩm trong đoạn trích, mỗi chi tiết là nét đặc sắc riêng, biểu hiện cái nhìn mới mẻ, riêng biệt, mang lại biết bao nhiêu cảm xúc, ý nghĩa cho trích đoạn của Nguyễn Tuân. Khung cảnh của trốn ngục tù, tối tăm, u tối ở đó là nơi bẩn thỉu, không thể nào có thể sánh bằng nét đẹp, đặc sắc nghệ thuật và cảnh cho chữ thiêng liêng.

Thường thì trong xã hội cũ, cảnh cho chữ phải được diễn ra ở nơi uy nghiêm, sạch đẹp, nhưng cảnh cho chữ này lại diễn ra ở nơi ngục tù tăm tối, hình ảnh nhân vật Huấn Cao bị xiềng cả tay và chân, thế nhưng ông vẫn vượt qua biết bao khó khăn để có thể viết ra những dòng chữ như phượng hóa rồng bay, ông đặt hết tâm huyết cho nét chữ của mình.

Chính sự cảm kích, mến mộ với tấm lòng của viên quản ngục mà Huấn Cao đã trao tặng nét chữ tài hoa của mình cho viên quản ngục. Sự ung dung, tự tại của Huấn Cao lại là sự đối lập với thầy thơ lại khúm núm, bê chậu mực cho ông viết. Cảnh cho chữ diễn ra đã có sự đối lập sâu sắc từ khung cảnh đến hình tượng nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.

Trong tác phẩm, tác giả đặt hình ảnh nhân vật trong hoàn cảnh đó để gia tăng mức độ biểu hiện cái đẹp của tác phẩm, thể hiện được sâu sắc hình tượng nhân vật trong tác phẩm của mình, hình ảnh về nhân vật xuất hiện trong từng chi tiết, chính sự đối lập về thân phận xuất hiện trong tác phẩm cũng là những điều góp phần làm nên những cảnh tượng xưa nay chưa từng có về tác phẩm của mình.

Cảnh cho chữ đã biểu hiện tấm lòng yêu mến cái đẹp, say đắm với người tài, với cái đẹp thiên lương, trong khung cảnh đó hình ảnh về cái đẹp được biểu hiện sâu sắc, thể hiện những nét đặc sắc về nghệ thuật xuất hiện trong đoạn trích, mỗi chi tiết là biểu hiện một ý đồ riêng mà tác giả xây dựng trong tác phẩm của mình. Cảnh cho chữ đã biểu hiện được quan niệm về cái đẹp của tác phẩm, cái thiện luôn chiến thắng cái ác. Trong sự sống hiếm hoi, cái đẹp vẫn luôn trường tồn, len lỏi trong từng sự sống của con người, sự sống, hiếm hoi, thể hiện những nét tính cách điển hình, sâu sắc nhất trong tác phẩm.

Cảnh cho chữ đã được xây dựng thành công, sâu sắc nhất trong tác phẩm, nó biểu hiện cái nhìn sâu sắc về hình tượng nhân vật xuất hiện trong tác phẩm, cái đẹp luôn vĩnh viễn sinh xôi, trường tồn, chế ngự cái xấu xa, tàn ác. Quan niệm của Nguyễn Tuân là yêu cái đẹp và cái đẹp luôn đi liền với chữ tâm.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nguyễn Tuân là một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có đóng góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạc nên những kiệt tác văn học độc đáo. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ông cũng chứa đụng những nết đẹp đó.

Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức. Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chữ thường được diễn ra tại những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chữ uyển chuyển mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ uyển chuyển có hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ, “ một cảnh xưa nay hiếm”. Đó là cảnh cho chữ trong tác phẩm ”Chữ ngươi tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”.

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”. Đây là tác phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng và được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn thiện, toàn mĩ”. Nhân vất chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao – một con người văn võ song toàn. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp. Ông không chỉ cái cái tài về nghệ thuật thư pháp mà còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông ẩn chứa cả văn hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không chỉ để chiêm ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ những tư tưởng sâu sắc. Nhưng “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời”. Không chủ có tài về nghệ thuật, ông Huấn còn là người có thiên lương. Tính ông chính trực, khẳng khái, không vì tiền bạc, quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, khiến người đọc dễ dáng liên tưởng tới người thủ lĩnh tài ba văn vó phong toàn, người anh hùng dân tộc Cao Bá Quát. Được nhân dân ca tụng:

“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.

Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn không những không mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng  “thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”.  Lúc bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản nguc, ngày ngày đưa rượu thịt vào cho ông và các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bược vào buồng giam của ông thêm lần nào nữa.

Một con người có tài năng về nghệ thuật, có thiên lương cao đẹp, lại có khí phách ngang tàn và tính khoảnh như Huấn Cao tưởng chừng như sẽ không bao giờ chịu chấp nhận tặng chữ của mình cho viên quản ngục. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng và sở thích cao quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông , ân hận vì thiếu chút nữa “đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định tặng chữ cho ông. Chính lúc này, thiên lương của ông đã tự tỏa sáng, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tỏa sáng cả căn buồng giam chật hẹp ẩm thấp đầy phân rán phân chuột hôi hám. Trong chính cái đêm hôm ấy, cái đẹp đã lên ngôi. Từ một viên quản ngục hàng ngày khét tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm. Một kẻ tử tù, “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng” lại  đĩnh đạc, làm chủ nơi ngục tù. Kẻ tử tù ấy dù bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách y lại tự do khác hẳn với kẻ tưởng chừng tự do nhưng lại bị trói buộc cả tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác ngự trị này. Nơi ngục tù tăm tối ấy, đêm nay lại diến ra “ cảnh xưa nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ cho một vật báu trên đời lại được diễn ra tại nơi tối tăm chật hẹp. Cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy đỏ rực xóa tan bóng đêm tăm tối. Mùi thơm từ chậu mức bốc lên xoa dịu đi mùi hôi tanh của căn phòng. Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của ông Huấn dần hiện ra. Vậy là cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã huyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, phải có thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên lương cao đẹp của ông Huấn cũng là sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin “bái lính” của y chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại tmar hại của cái xấu, cái ác. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyêt mà lại ở trong căn buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được “khai sinh”, thăng hoa. Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần thiết của khí phách của thiên lương. Người tử tù dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng kẻ ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là hiện thân cho vẻ đẹp hoàn mĩ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng đẹp của ông Huấn và từng lờ dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.

Câu chuyện thành công không chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn vì cái độc đáo khác lạ của tình huống truyện. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên quan quản ngục – một công cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, còn người kia là kẻ tử tù chống lại triều đình. Thế nhưng chính cái đẹp đã dẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành tri kỉ. Họ là người nghệ sĩ, biết yêu và coi trọng cái đẹp. Cái độc đáo của truyện cũng nằm trong chính từng nhân vật. Huấn Cao-tên tử tù – lại là một nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Viên quản ngục – công cụ trấn át tội phạm của triều đình – lại là con người có mong muốn thưởng thức cái đẹp. Cả câu chuyện mang vẻ cổ kính từ nhân vật, cảnh cho chữ cho đến ngôn ngữ câu văn. Chính nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp vời bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn đã đem đến thánh công cho tác phẩm. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, thời gian đêm tối bóng dáng con người trong đêm và ánh sáng bó đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách. Màn đêm tăm tối của ngục từ – hiện thân cho cái ác – lại bị ánh sáng của tài năng, thiên lương làm sụp đổ. Không gian được miêu tả hẹp dần: Từ căn phòng đến ánh sáng ngọn đuốc, tấm lục trắng tinh rồi đến từng con chữ vuông vắn.

Dường như, cảnh cho chữ và hình tựng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể hiện thành công phong cách nghệ thuật của mình. Ông luôn hướng tới cái đẹp, cái phi thường lí tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu phàm, nhưng cũng có cá tính độc đáo.

Câu chuyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương cao quý của ông Huấn vẫn còn vương vấn. Người đọc có thể hình dung ra một viên quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi mà trở về quê nhà. Ngày ngày, ông thư thả ngắm bức thi họa của ông Huấn ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nếu Xuân Diệu cả đời đi tìm một tình yêu đúng nghĩa thì Nguyễn Tuân lại dành cả đời mình để đi tìm cái đẹp. Ông tìm cái đẹp trong chính nét văn hoá cổ truyền của dân tộc: đó là chữ viết thư pháp. Tập truyện “Vang bóng một thời” đã thể hiện những hoài niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp ấy. Đặc biệt, trong tác phẩm “Chữ người tử tù” cái giá trị nghệ thuật cao quý truyền thống lại càng được tôn vinh và trân trọng. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Bật lên trong truyện là một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có”, thể hiện những giá trị lớn lao của tác phẩm: cảnh cho chữ.

Huấn Cao là một nguời tài hoa có tài viết chữ đẹp nhưng dám nổi dậy chống lại triều đình nên bị xem là một tên nghịch thần, bị bắt và bị kết án tử. Viên quản ngục vốn là một người say mê chữ đẹp. Hai con người gặp nhau trong một hoàn cảnh hết sức ngang trái: một bên là tử tù và một bên là quản ngục. Vốn hâm mộ tài viết chữ của Huấn Cao, Viên quản ngục đã tâm sự với thầy thơ lại và cùng thầy đến nhà giam bày tỏ nỗi lòng và xin Huấn Cao cho chữ. Huấn Cao vô cùng cảm mến tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và thái độ chân thành của Viên quản ngục nên đã đồng ý cho chữ.

Hoàn cảnh cho chữ được tác giả miêu tả một cách thật đặc biệt: “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đó là một đêm khuya vắng lặng chỉ có “tiếng mõ vọng canh”. Quang cảnh nhà tù, buồng giam dưới ngòi bút của nhà văn thật ảm đạm và nhơ bẩn. Không dừng lại ở đó, không gian ấy còn bị thu hẹp dần trở nên thật bé nhỏ, tù túng, chật hẹp. “Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên lân hồ. Khói bốc toả cay mắt”. Nhà tù lạnh lẽo, ẩm thấp bỗng dưng được sưởi ấm bằng “ánh sáng đỏ rực” của bó đuốc tẩm dầu. Nhà văn đã dùng thủ pháp tương phản để tạo ấn tượng về hoàn cảnh cho chữ. Nguyễn Tuân thật không hổ danh là một người nghệ sĩ tài hoa có con mắt tinh đời và tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy.

Cảnh cho chữ diễn ra thật đẹp, chính lúc này, tài hoa mới thực sự toả sáng. “Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván”. Hình ảnh Huấn Cao hiện lên sao mà sắc sảo, tinh tế đến vậy? Người nghệ sĩ tài hoa không phải ở trong tư thế tự do mà phải mang vác nào gông, nào xiềng và đội cả án tử trên đầu. Một con người ngang tàng tung hoành trong xã hội dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn say mê sáng tạo cái đẹp, bất kể ngày mai, khi trời sáng, cái chết đã cận kề. Huấn Cao dường như không phải đang viết mà là đang vẽ chữ, ông “dậm tô nét chữ” một cách ung dung, đĩnh đạc, không màng tất cả. Thông thường, sáng tạo nghệ thuật là một việc thanh cao cần được diễn ra ở những nơi trang trọng, thiêng liêng; nhưng không, lúc này đây, Huấn Cao lại đang viết chữ, cho chữ trong một căn buồng tối tăm, chật hẹp, nhơ nhớp. Thủ pháp tương phản lại một lần nữa được Nguyễn Tuân sử dụng một cách tài tình. Một bên là tử tù uy nghi, lồng lộng, một bên là quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”. Những con người mâu thuẫn về giai cấp, lý tưởng lại bỗng dưng trở thành tri âm tri kỉ về tinh thần. Họ chụm đầu lại, cùng nhau say sưa sáng tạo cái đẹp và thưởng thức cái đẹp. Dường như giữa chốn ngục tù đầy rẫy những bạo tàn, bất công, phép tắc, kỉ cương đã bị đảo lộn, thế chủ động không còn nằm trong tay những kẻ uy quyền thống trị mà thuộc về người tử tù. Chính lúc này đây, cái đẹp đã thực sự toả ánh hào quang rực rỡ làm bừng sáng cả không gian. Thiên lương đang lấn dần, đẩy lùi bóng tối, vươn lên làm kim chỉ nam soi sáng cho những con người lầm đường, lạc bước. Huấn Cao từ tốn, chân thành: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người….Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái ghế này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Huấn Cao đã không còn giữ khoảng cách với Viên quản ngục, đã thực sự xem Viên quản ngục là tri âm tri kỉ nên mới có những lời khuyên dốc từ tận đáy lòng đến vậy. Không chỉ quan tâm, trân trọng thú chơi chữ thanh cao của Viên quản ngục mà Huấn Cao còn chú ý đến cả lọ mực mà Viên quản ngục đem đến. “Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?”. Câu nói nhẹ nhàng mà đầy tinh tế làm cái đẹp không chỉ có sắc mà còn có hương thơm ngát. Trong cái buồng giam chật hẹp, ẩm ướt, nhơ nhớp dường như chỉ còn lại mùi mực thơm tho – mùi của thiên lương trong sáng. Vẻ đẹp nhân cách của nhân vật Huấn Cao nói chung và lúc cho chữ nói riêng bỗng trở nên chói sáng, rực rỡ nhất trong cái đêm đen tối tăm, không lối thoát của xã hội.

Cảnh cho chữ đã khẳng định chiến thắng thuyết phục hoàn toàn của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp với cái xấu, cái cao thượng với cái tầm thường, của cái cao quý, thanh khiết với sự nhơ nhớp, bẩn thỉu, của cái thiện với cái ác. Đây thực sự là một bức tranh nghệ thuật sắc sảo nhằm tôn vinh cái đẹp, cái thiện và nhất là nhân cách cao cả của con người. Đúng như Dostoevsky từng phát biểu: “Cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp kém, cái đẹp nâng đỡ con người, cứu vớt con người”. Thông qua cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân còn thể hiện được tinh thần dân tộc, qua đó ý nhị bộc lộ một nỗi niềm yêu nước thầm kín. Tác giả như đau đớn cất lên khúc vãn ca cho một nét đẹp văn hoá truyền thống từng “Vang bóng một thời” bỗng lụi tàn bởi thời cuộc, bởi sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của một đại bộ phận người trong xã hội.

Cái “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đã trở thành nguồn cảm hứng mãnh liệt giúp Nguyễn Tuân vung tay múa chữ rất điệu nghệ. Ông thoả sức thể hiện tài năng ngôn ngữ của mình một cách sắc sảo, tuyệt đỉnh. Những lớp ngôn từ dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật đa dạng, phong phú tạo nên nét cổ kính, trang trọng cần và đủ, vừa sống động, vừa tinh tế. Mỗi con chữ đảm nhiệm một sức nặng riêng, có nhịp điệu riêng và giàu tính tạo hình, gợi cảm. Ngoài ra, nhà văn còn sử dụng rất thành công thủ pháp tương phản, đối lập. Bút pháp tả thực của tác giả cũng đạt đến một đỉnh cao nhất định. Cảnh cho chữ được tác giả miêu tả vừa ảm đạm, vừa hùng hồn khiến cả ba con người xuất hiện ở đó: Huấn Cao, Viên quản ngục, thầy thơ lại bỗng trở thành những hình tượng độc đáo, nổi bật.

Tóm lại, cảnh cho chữ đã làm bật nồi được chủ đề của toàn bộ tác phẩm, khẳng định chân lý “cái đẹp cứu rỗi nhân loại” (Dostoevsky) và tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của tác giả. Bên cạnh đó, “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” còn cho thấy tài năng văn chương kiệt xuất của Nguyễn Tuân – một nhà văn có phong cách rất độc đáo, tài hoa và uyên bác. Đoạn văn thể hiện được vốn hiểu biết phong phú của ông về nét đẹp thư pháp – một nét đẹp văn hoá truyền thống dân tộc cần đựợc gìn giữ và duy trì.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Chữ người tử tù là truyện ngắn đặc sắc, là đỉnh cao trong nghệ thuật khắc hoạ cái đẹp của Nguyễn Tuân. Dù là trong hoàn cảnh tăm tối nhất của cuộc đời, là cảnh ngục tù chết chóc thì cũng chẳng thể nào vùi lấp được vẻ đẹp tuyệt mỹ trong tâm hồn con người. Cảnh cho chữ là chi tiết truyện xuất sắc góp phần to lớn tạo nên giá trị nhân văn cho toàn bộ tác phẩm. Qua đó, nhà văn khẳng định một chân lý bất diệt: Cái đẹp luôn trường tồn, thắng thế trước nghịch cảnh éo le của cuộc đời.

Nguyễn Tuân – nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp với phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác ông đã làm lay động trái tim người đọc bằng những sáng tác của mình. Nhà văn luôn đặt con người dưới góc nhìn nghệ sĩ, nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hoá, thẩm mỹ. Chữ người tử tù nằm trong tập truyện Vang bóng một thời, đây là một sáng tác được đánh giá hay nhất, tuyệt vời nhất và có giá trị nhân văn sâu sắc nhất của cả tập truyện. Tác phẩm là câu chuyện kể về những ngày cuối đời của người anh hùng Huấn Cao, trong cảnh ngục tù tăm tối cái đẹp vẫn hiện hữu và toả sáng hơn bao giờ hết. Có thể nói tác phẩm thành công là nhờ tài năng sáng tạo tình huống truyện độc đáo của Nguyễn Tuân, thế những để đẩy cảm xúc truyện lên cao trào, đạt đến độ hoàn mỹ của một thiên truyện thì phải nhắc đến cảnh cho chữ “có một không hai” đầy bất ngờ, gây sửng sốt cho người đọc.

Thuở xưa, chơi chữ đã trở thành lối văn hoá tao nhã, thanh cao của người Việt. Những câu đối, bài thơ với nét chữ bay bổng được treo trong nhà như một thú vui giúp cho tâm hồn con người thư thái, bình yên. Thưởng thức cái đẹp thanh cao hay là những thầy nho cho chữ trước nay đều ở trong những khung cảnh thơ mộng, nhẹ nhàng có thế cái đẹp mới được thoả sức bộc lộ hết những khía cạnh tươi mới của mình. Người ngắm nhâm nhi một tách trà nóng cùng nhau trò truyện ngâm thơ, đối chữ. Ấy vậy mà trong Chữ người tử tù Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xưa cũ, tác giả gọi đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Chính chi tiết truyện mới mẻ này đã làm nên sức lôi cuốn, hấp dẫn cho người đọc.

Vào một đêm khuya vắng lặng tại trại giam tỉnh Sơn chỉ còn tiếng gõ mõ vọng canh, đây là một khoảng thời gian buồn tẻ nhất trong một ngày dài, tất cả vạn vật dường như đã chìm sâu vào im lặng nhường chỗ cho bóng tối thống trị, chỉ còn tiếng gõ mõ đều đều trong canh dài, không một bóng người lai vãng. Khung cảnh nhà giam hiện lên tù túng, chật hẹp, mệt mỏi với từng tiếng thở dài oán thán “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả miêu tả thật sinh động, chân thực hoàn cảnh éo le của người anh hùng Huấn Cao, một người nghệ sĩ tài hoa, văn võ uyên bác giờ đây phải giam mình trong nhà tù tăm tối, đấy là nơi chôn vùi cuộc đời chẳng phải nơi mà con người có thể sinh sống. Thế nhưng chính tại nơi tầm thường, hạ đẳng ấy lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.

Một không gian tối tăm quanh năm không thấy ánh mặt trời, dù là ngày hay đêm đều nhuốm màu bóng tối thì giờ đây có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Buồng giam ngập tràn “khói toả như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”. Dường như họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sự đối lập giữa tư thế và vị thế của người cho chữ – Huấn Cao và người nhận chữ – viên quản ngục đã được Nguyễn Tuân khắc hoạ thật sinh động, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Có lẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung động, như có thứ gì đó bóp nghẹt lại, không ai nói với nhau lời nào nhưng đủ để cảm nhận niềm hạnh phúc đang tuôn trào trong lồng ngực. Từ một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” giờ đây phải cúi đầu trước vẻ đẹp tài hoa, trước người tử tù có tấm lòng thiên lương. Có tiếng “thở dài, buồn bã” của Huấn Cao khi những nét chữ cuối cùng đã viết xong, ông nói giọng đĩnh đạc: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi.” Tấm lòng nhân hậu của Huấn Cao đã thức tỉnh, cứu rỗi tâm hồn của những người lương thiện nhưng lạc vào con đường tha hoá, rối ren. Viên quản ngục cảm động, vái người tử tù một vái “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” những giọt nước mắt lăn dài trên má như lời kính trọng sâu sắc dành cho vị anh hùng Huấn Cao.

Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, nó không đơn độc mà mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo hoá” cái ác, cái xấu xa đi vào con đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Ông có kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức tưởng tượng vô cùng độc đáo. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối chọi gay gắt, một bên là khung cảnh tăm tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói loá của nét đẹp hoàn mỹ.

Cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù là một sáng tạo nghệ thuật mới mẻ của Nguyễn Tuân. Cảnh lạ lùng, hiếm có, khiến ta sửng sốt bội phần thế nhưng nhờ chi tiết truyện này hình ảnh cái đẹp hiện lên thật diệu kỳ, thể hiện tấm lòng trân trọng, nâng niu của tác giả trước nét thanh cao của nghệ thuật tuyệt mỹ.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạng. Nguyễn Tuân được nhận ra là một chủ cửa hàng cá đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ và cá tính, độc đáo của mình Nguyễn Tuân đã đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân, vất vả đó là tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đi sâu vào khám phá tác phẩm người đọc sẽ không khỏi ấn tượng trước cảnh cho chữ ở cuối truyện, nhận xét về tình huống này có ý kiến cho rằng cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ Người Tử Tù là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Quả không sai khi nói rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả nhào nặn từ đời sống, nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mong hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác so với những nhà văn cùng thời. Ông luôn khát khao đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt, cái đẹp bao giờ cũng có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc Chữ Người Tử Tù ta sẽ thấy rõ được điều đó, đây là một trong 11 chuyện in trong tập “vang bóng một thời”, lúc đầu tác phẩm có tên là “dòng chữ cuối cùng” in trong tạp chí Tao Đàn năm 1938, sau đó đổi thành “Chữ Người Tử Tù” in trong tập “vang bóng một thời” xuất bản năm 1940.

Chữ Người Tử Tù, xoay quanh cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Tuy xét trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là những tri ân, tri kỷ, giữa họ có những mối liên hệ khăng khít, một bên là say mê cái đẹp viên quản ngục và một bên là người ban cái đẹp. Đặc biệt tình huống cho chữ ở cuối truyện đã trở thành một tình huống độc đáo, đặc sắc để đưa cái tài, cái đẹp lên ngôi đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của Huấn Cao.

Nhận xét về cảnh cho chữ ở cuối truyện có ý kiến cho rằng “đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” tiếc là cảnh tượng hiếm gặp hiếm xảy ra và trong truyện ngắn này cảnh cho chữ thực sự là một cảnh tượng như vậy. Ý kiến trên đã một lần nữa khẳng định được sự khéo léo của nghệ thuật, trong việc tạo dựng tình huống truyện và khẳng định được sự hấp dẫn không bị thời gian vùi lấp của Chữ Người Tử Tù nói chung và cảnh cho chữ nói riêng.

Cảnh tượng cho chữ được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả đầy đủ, chi tiết từ không gian, thời gian, đến địa điểm vào lúc nửa đêm khi trại giam tỉnh sơn chỉ còn đọng lại tiếng mõ trên vọng canh, tại một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất đầy phân gián đang diễn ra cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là kẻ tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, con người nhận chứ là viên quản ngục, người đại diện cho chính quyền phong kiến. Gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, với việc cho chữ là một việc làm thanh cao thường diễn ra ở nơi trang trọng như thư phòng sạch sẽ, người cho chữ phải là nghệ nhân ở trong tâm thế ung dung thoải mái. Nhưng trong truyện ngắn này thì hoàn toàn đối lập, vì cảm động trước tấm lòng của viên quản ngục mà Huấn Cao đã bằng lòng dành đêm cuối cùng của cuộc đời để viết những dòng chữ cuối cùng cho một tấm lòng tri kỷ, trong thiên hạ. Dù biết mình sắp chết, nhưng Huấn Cao vẫn cho ra đời những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, trong tư thế thoải mái, tự tại, còn viên quản ngục thì khúm núm, run run, sợ sệt cất những đồng kẽm đánh dấu ô. Đến đây trật tự kỷ cương đã bị đảo ngược, tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp và răn dạy quản ngục, quản ngục thì khúm núm với lạy tù nhân.

Cảnh cho chữ ở cuối truyện chắc hẳn đã để lại trong lòng bạn đọc ít nhiều những suy ngẫm, Huấn Cao trong lúc cận kề cái chết, vẫn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đó là những nét chữ mềm mại, cứng cáp thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người. Đó cũng chính là sự ký thác của ông dành cho hậu thế, cảnh cho chữ ở cuối truyện đã một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiện luôn chiến thắng cái xấu, cái ác, mà ta thấy rằng dù có những người phải sống trong cái xấu, cái ác vẫn luôn hướng về cái thiên lương. Đó là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân vào con người, với cảnh cho chữ ở cuối truyện Nguyễn Tuân không làm Huấn Cao chết đi mà đã đưa nhân vật vào cõi bất tử.

Bằng sự sáng tạo độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, Nguyễn Tuân đã đưa hai con người, ở hai địa vị trái ngược nhau vào một điểm chung đó là sự say mê cái đẹp. Cảnh cho chữ ở cuối truyện thực sự là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đi sâu vào tình huống này ta thấy được rằng, đến đây viên quản ngục và Huấn Cao đã hòa làm một, để cho cái đẹp lên ngôi. Cảnh cho chữ thật sự là ngọn đuốc rực rỡ, thắp sáng cả thiên truyện “Chữ người tử tù”.

Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn từ sắc sảo, góc cạnh, câu văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên cảnh tượng cho chữ “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Để khẳng định sức mạnh, có thể chiến thắng cái xấu, cái ác, cảm hóa con người của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.

Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn hội tụ sự tài hoa, bất khuất của Huấn Cao. Đó là những nỗi niềm kí thác dành cho hậu thế, thông qua cảnh tượng cho chữ Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục. Có lẽ đây chính là lý do “Chữ Người Tử Tù” trở thành mốc son chói lọi trên nền vàng úa của vang bóng một thời.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất

Nguyễn Tuân xây dựng cốt truyện chỉ với hai nhân vật là Huấn Cao và viên quản ngục, họ gặp và biết đến nhau trong một tình cảnh đầy éo le. Nếu xét trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau, Huấn Cao – một tên tử tù nổi loạn chống lại triều đình, viên quản ngục – quản lí trại giam đại diện cho bộ máy thống trị của triều đình. Nếu xét trên bình diện nghệ thuật họ lại có những nét chung đáng ngờ, Huấn Cao – ông có tài viết chữ rất đẹp, tạo ra cái đẹp còn viên quản ngục lại biết yêu và trân trọng cái đẹp. Tình huống truyện đầy độc đáo, tác giả đặt hai nhân vật của mình vào chốn ngục tù tăm tối, tạo nên một cuộc gặp gỡ kì lạ. Đó cũng là nguyên nhân tạo ra tâm thế kì lạ của các nhân vật: hoàn thành việc cho chữ và xin chữ mà người cho không sung sướng, người xin không mãn nguyện, cả hai đều ngậm ngùi, buồn bã. Hình ảnh lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo sau khi Huấn Cao hoàn thành việc viết chữ gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc về sự lụi tắt, không chỉ của lửa đóm mà còn của một sinh mạng vĩ đại.

Bản chất nghệ thuật là sáng tạo tự do, nay người nghệ sĩ tài hoa đang say mê tô từng nét chữ lại là một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Nghệ thuật giúp cho cái đẹp bất tử, nhưng người sáng tạo nghệ thuật lại là một tử tù đang ở đêm cuối cùng của cuộc đời, chỉ sớm mai người phải vào kinh lĩnh án tử hình. Nghịch lí xót xa ấy khiến cái đẹp trở nên mong manh, quý giá và giờ khắc tạo ra cái đẹp càng trang trọng, thiêng liêng. Người nghệ sĩ thư pháp thường viết chữ ở những nơi thư phòng thanh sạch, cao khiết, nay Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián. Và chính trong sự tương phản này lại hàm chứa những tương phản khác mang ý nghĩa sâu sắc khói tỏa ra như một đám cháy nhà xua đi không khí ẩm thấp của buồng giam, ánh đuốc đỏ rực xua đi tăm tối, sự thanh khiết cao quý tỏa ra từ tấm lụa trắng tinh, từ mùi thơm ở chậu mực xua đi những thứ tầm thường dơ bẩn chốn ngục tù. Trước cái đẹp, cái thiện mọi trật tự thông thường ở nhà tù đã bị đảo lộn; không còn người tù và kẻ coi tù; chỉ có Huấn Cao – người cho chữ, người sáng tạo và ban phát cái đẹp và quản ngục – thiên lương, người xin chữ ngưỡng ngưỡng mộ và tiếp nhận cái đẹp. Trật tự mới giữa họ lúc này được thiết lập theo tiêu chí của cái đẹp, cái thiện.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn, ông thật lòng chẳng muốn người như viên quản ngục lại phải vùi mình ở nơi tăm tối này nên cũng đành khuyên vài lời  bằng chất giọng đầy chân thành: “Chỗ này không phải là  nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những hoài bão, khát vọng của một đời người. ”; “Tôi bảo thực ngài hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rời cũng đến nhem nhuộc mắt cái đời lường thiệt đi”. Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động vái người tù một vái, chắp tay với dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng.

Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Cảnh cho chữ đã minh chứng cho việc cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, dơ bẩn, từ môi trường của cái ác nhưng không thể chung sống bên cạnh cái ác. Huấn Cao không chỉ sáng tạo, ban phát cái đẹp mà thông qua sức mạnh kì diệu của cái đẹp, Huấn Cao còn cứu vớt một con người – sự minh chứng sức mạnh cảm hóa cái đẹp.

Phân tích chữ người tử tù ngắn nhất