Ở một nhà văn ước vọng là hiện thân của tính khí thực

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều: Nguyễn Du là cây đại thụ của nền văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một kiệt tác của nền văn học

– Giới thiệu đoạn trích Chí khí anh hùng: Vị trí và nội dung

I.. Thân bài

1. Khát vọng lên đường của Từ Hải (4 câu thơ đầu).

a. Hoàn cảnh chia tay:

– Thời gian

   + “Nửa năm”: Khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống.

   + “Hương lửa đương nồng”: Tình yêu nồng nàn, say đắm của Thúy Kiều – Từ Hải.

→ Thời điểm Từ Hải ra đi lập nên sự nghiệp lớn cũng chính là lúc cuộc sống lứa đôi với Thúy Kiều mới đang bắt đầu và vô cùng mặn nồng hạnh phúc

→ Ý chí quyết tâm, khí chất anh hùng.

b. Hình ảnh từ Hải

* Lí do ra đi:

– “Trượng phu”: Là từ chỉ người đàn ông có chí khí, bậc anh hùng với hàm nghĩa khâm phục, ngợi ca.

→ Cách nói này thể hiện thái độ trân trọng với các vị anh hùng, dựng lên dáng vẻ bệ vệ, oai nghiêm, đĩnh đạc của một tướng võ.

– “Thoắt”: là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ.

→ Nó cho thấy cách nghĩ, cách xử sự dứt khoát, khác thường của Từ Hải. Đó chính là tính cách của người anh hùng.

– “Động lòng bốn phương”: Chỉ chí khí anh hùng, khát khao tung hoành.

→ Đó cũng là lí tưởng anh hùng thời đại, không bị ràng buộc bởi vợ con, gia đình mà để ở bốn phương trời, ở không gian rộng lớn, quyết mưu sự nghiệp phi thường.

* Tư thế ra đi

– “Trông vời trời bể mênh mang”: cụm từ mang cảm hứng vũ trụ.

→ Tầm nhìn xa trông rộng và suy nghĩ phi thường.

– “Thanh gươm yên ngựa”: một mình, một gươm, một ngựa

→ Tư thế hiên ngang, dũng mãnh, phóng khoáng

– “Lên đường thẳng rong”: đi liền một mạch, không lưu luyến, bịn rịn.

→ Tư thế oai phong, hào hùng sánh ngang với trời đất.

⇒ Từ Hải là con người của khát vọng, công danh phi thường.

2. Cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải (12 câu thơ tiếp)

a. Lời của Kiều

– Xưng hô: “chàng- thiếp” → dịu dàng, ân cần.

– “Phận gái chữ tòng”: Ý thức bổn phận

– “Một lòng xin đi”: quyết tâm theo Từ Hải

→ Thúy Kiều kính trọng và hết mực yêu thương chồng. Xứng danh là tri kỷ của Từ Hải.

b. Lời của Từ Hải

* Lời đáp

– “Tâm phúc tương tri”: Coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết.

– “Nữ nhi thường tình”: Người phụ nữ ủy mị, yếu đuối

→ Khuyên Kiều vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng làm vợ một anh hùng.

* Lời hứa

– Mười vạn tinh binh”, “Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”: tương lai thành công.

– “Rõ mặt phi thường”: chứng tỏ được tài năng xuất chúng

→ Từ Hải nói lên niềm tin tưởng sắt đá vào tương lai, sự nghiệp

– “Rước nàng nghi gia”: cho Kiều danh phận, cuộc sống viên mãn

→ Từ Hải là người anh hùng có chí khí, thống nhất giữa khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người tri kỉ.

* Lời khuyên

– “Bốn bể không nhà”: thực tế khó khăn, gian nan.

– “Theo càng thêm bận”: việc lớn sẽ bị ảnh hưởng, không quan tâm, lo cho Kiều được

– “Đành lòng chờ đó ít lâu”: an ủi, mong Kiều bằng lòng chờ đợi.

– “Một năm sau”: thời gian cụ thể. Hứa hẹn sẽ thành công

→ Từ Hải là người chồng tâm lí-người anh hùng nhưng rất vẫn đời thường, gần gũi, chân thực.

⇒ Từ Hải là người anh hùng có khát vọng lớn lao, tin tưởng vào tương lai lại là người tâm lí, rất đời thường.

3. Quyết tâm ra đi của Từ Hải (2 câu thơ cuối)

– Hành động: Quyết lời, dứt áo ra đi

→ Thái độ, hành động dứt khoát, không hề do dự, bịn rịn.

– Hình ảnh ẩn dụ: “chim bằng”: Là loài chim quý tượng trưng co người anh hùng.

→ Khẳng định Từ Hải chính là bậc anh hùng cái thế, có tầm vóc phi thường, sánh ngang với đất trời, vũ trụ

⇒ Từ Hải là người anh hùng có tài năng, bản lĩnh, chí khí, ước mơ công lí.

4. Nghệ thuật.

– Sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng

– Lời đối thoại bộc lộ tính cách.

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng người anh hùng qua dáng vè, hành động.

I.I. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

– Ý nghĩa của đoạn trích: Thể hiện ước mơ về người anh hùng lý tưởng và ca ngợi tấm chân tình của Từ Hải và Thúy Kiều.

Bài văn mẫu

     Truyện Kiều một trong những kiệt tác của Nguyễn Du nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm không chỉ cho người đọc thấy số phận bi thương, gặp nhiều oan trái của nàng Kiều. Trong hành trình mười lăm năm lưu lạc Kiều đã gặp biết bao nhiêu chuyện, bao nhiêu người, nhưng người duy nhất yêu thương và bảo vệ được nàng chính là Từ Hải. Vẻ đẹp của nhân vật Từ Hải đã được kết tinh trong đoạn trích “Chí khí anh hùng”.

     Trải qua nhiều sóng gió, Thúy Kiều đã gặp được Từ hải – người anh hùng cái thế “đầu đội trời, chân đạp đất” lúc bấy giờ. Gặp được Thúy Kiều, Từ Hải vô cùng quý trọng nàng, và đã ngỏ ý với Kiều: “Một lời đã biết đến ta/ Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau/ Ngỏ lời nói với văn nhân/ Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn”. Thúy Kiều trở về chung sống cùng Từ Hải, cuộc sống gia đình vô cùng hạnh phúc, yên ấm. Nhưng chỉ được nửa năm, Từ Hải động lòng bốn phương quyết tâm lên đường lập sự nghiệp phi thường.

     Bài thơ mở ra bằng câu thơ:

    Nửa năm hương lửa đương nồng

    Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

     Cuộc sống hôn nhân của họ mới bắt đầu hình thành, đây đồng thời cũng là giai đoạn vợ chồng yêu thương nồng nàn và thắm thiết nhất trong cuộc sống hôn nhân. Nếu như những người bình thường chắc chắn sẽ thỏa nguyện, bằng lòng trong hoàn cảnh hạnh phúc ngập đầy như vậy. Nhưng Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, chàng là một người phi thường ngay từ vẻ bề ngoài: “Râu hùm hàm én mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Và khác thường trong cả tài trí: “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Từ Hải hơn hẳn người khác cả về sức mạnh và trí tuệ, bởi vậy, chàng không bằng lòng với cuộc sống êm đềm hiện tại, Từ Hải quyết tâm ra đi.

     Lòng bốn phương ở đây có thể hiểu là ý chí lập công danh, sự nghiệp của kẻ làm trai trong xã hội phong kiến. Trong xã hội phong kiến, làm trai phải lập nên sự nghiệp lớn và để lại tiếng thơm muôn đời. Bốn phương là nam bắc đông tây, còn có nghĩa là thiên hạ, thế giới. Đồng thời bốn phương cũng thể hiện ý chí tung hoành ngang dọc của kẻ làm trai: “Chí làm trai Nam Bắc Tây Đông/ Cho phỉ sức vấy vùng trong bốn biển”. Nguyễn Du đã sử dụng rất tài tình từ “thoắt” nó cho thấy ý chí, lòng quyết tâm thức dậy nhanh chóng và khi lòng quyết tâm đó đã được xác lập thì ngay lập tức phải thực hiện. Đó là hành động mạnh mẽ, dứt khoát của người kẻ có hùng tâm tráng chí ôm trùm thiên hạ.

    Trông vời trời bể mênh mang

    Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong

     Hành động của Từ Hải hết sức dứt khoát, không chút lưu luyến, bịn rịn: thẳng rong – đi liền một mạch. Chàng ra đi trong tâm thế ung dung, tự tại, đó là khí phách của một người trượng phu. Sự ra đi dứt khoát còn được thể hiện trong đoạn đối thoại với Thúy Kiều: Nàng rằng phận gái chữ tòng/ Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Trước quyết tâm ra đi của Từ Hải, nàng bày tỏ ước nguyện để được đi theo Từ Hải, đó cùng là thực hiện trọn đạo tam tòng “xuất giá tòng phu”. Đây là nguyện ước hoàn toàn chính đáng, đi cùng để đỡ đần cho chồng, để cùng chung vai gánh vác, chia sẻ những khó khăn. Nhưng ngược lại Từ Hải trách Thúy Kiều: “Từ rằng: tâm phúc tương tri/ Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”. Từ Hải trách Kiều vẫn chưa thoát khỏi những thói thường của nữ nhi, nhưng trách ấy cũng là lời động viên nàng hãy vượt lên những tình cảm ấy để xứng đáng là tâm phúc tương tri của Từ Hải. Đằng sau câu thơ cho thấy sự tự tin của Từ Hải khi đặt mình lên trên thiên hạ nên yêu cầu người đầu gối tay ấp với mình cũng phải hơn những người phụ nữ bình thường khác.

     Trước khi đi, Từ Hải còn đưa ra lời hẹn ước với Thúy Kiều: “Bao giờ mười vạn tinh binh/ Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường/ Làm ra rõ mặt phi thường/ Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”. Câu thơ được Từ Hải sử dụng số từ chỉ số lượng nhiều: mười vạn, động từ mạnh: dậy đất, rợp đường. Cho thấy tương lai huy hoàng chỉ cần sau một năm có thể làm nên sự nghiệp lớn để rước Thúy Kiều về với cuộc sống vinh hiển hạnh phúc. Lời nói vừa là lời động viên Kiều, vừa cho thấy sự bản lĩnh, tự tin của Từ Hải, chàng ý thức sâu sắc tài năng, năng lực của bản thân. Ngoài ra, Từ Hải còn an ủi vợ: “Bằng nay bốn biển không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu”. Trong sự an ủi có sự lo lắng, giải thích để Thúy Kiều an lòng ở lại.

     Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Không gian mở ra vô cùng rộng rãi, khoáng đạt xứng với tầm vóc vĩ đại, với tráng trí bốn phương của Từ Hải. Câu thơ đã thể hiện hiện chí lớn của người anh hùng: khao khát được vẫy vùng, tung hoành giữa trời đất cao rộng giống như lời giới thiệu của Nguyễn Du “Đội trời đạp đất ở đời”. Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi: tái hiện hình ảnh người anh hùng Từ Hải: chim bằng tượng trưng cho khát vọng của người anh hùng tạo nên sự nghiệp lớn. Chim bằng bay lên cùng gió mây chính là hình ảnh người anh hùng Từ Hải trong giây phút lên đường.

     Nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm. Từ Hải là hình tượng mang tính ước lệ được thể hiện qua hình ảnh, qua các hành động cử chỉ. Từ Hải là con người sánh ngang tầm vũ trụ, mang trong mình hùng tâm tráng trí lớn lao.

     Đoạn trích Chí khí anh hùng đã khắc họa thành công hình tượng Từ Hải với phẩm chất và chí khí lớn lao của người anh hùng. Từ Hải mang trong mình khát vọng lớn làm nên sự nghiệp vĩ đại. Qua nhân vật này, Nguyễn Du cũng gửi gắm mơ ước về tự do, công lí trong xã hội cũ.

Bài văn mẫu

   Hội ngộ – rồi chia li đó là hai mặt của một quá trình. Nó là qui luật tự nhiên trong đời sống con người và cũng như là qui luật tình cảm riêng tư khó nói thành lời. Chẳng thế mà chia li đã trở thành thỉ tài, là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thơ, nhà văn đi vào khai thác sao. Từ trong câu ca dao quen thuộc: Vầng trăng ai xẻ làm đôi; Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng đến vầng trăng ai xẻ làm đôi; Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường (Truyện Kiều – Nguyễn Du) và ngay cả Cuộc chia li màu đỏ (Nguyễn Mĩ). Ta vẫn bắt gặp những giọt nước long lanh, nóng bỏng, sáng ngời của kẻ ở – người đi. Nhưng có một cuộc chia li làm bạn đọc ấn tượng bởi Chí khí anh hùng, tràn đầy niềm tin lạc quan, tươi sáng chứ không như:

    Người lên ngựa, kẻ chia bào,

    Rừng phong, thu đã nhuộm màu quan san.

   Đó là cuộc chia li của Từ Hải với Thuý Kiều để lên đường đi khởi nghĩa.

   Đoạn Chí khí anh hùng (Trích Thuý Kiều) thuộc phần gia biến và lưu lạc trên đoạn trường mười lăm năm. Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thuý Kiều được gặp Từ Hải, người anh hùng rồi đây sẽ cứu vớt nàng ra khỏi cuộc đời thanh lâu đau khổ. Người mà đại diện cho lí tưởng, đạo lí công bằng mà Nguyễn Du gửi gắm khi xây dựng trong tác phẩm. Người mà Nguyễn Du bộc lộ tư tưởng, tình cảm, khối mâu thuẫn khó giải quyết bằng lời của tác giả.

   Sau cuộc gặp gỡ đặc biệt, trong hoàn cảnh cũng rất đặc biệt, Thuý Kiều – Từ Hải đã tìm thấy sự hoà hợp về tâm hồn của nhau, ở họ vừa có sự thấu hiểu chân thành vừa có sự đồng cảm cho nhau. Hai khoảng trống về tâm hồn đã được lấp đầy, san sẻ cho nhau bằng tình yêu. Sự tương xứng ấy tạo nên một kết thúc có hậu của miền cổ tích khi:

    Trai anh hùng gái thuyền quyên

    Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.

   Trước khi đi vào tìm hiểu đoạn trích, ta hãy hiểu xem con người này cps gì đặc biệt mà Nguyễn Du giành nhiều ưu đãi khi xây dựng Từ Hảỉ là người anh hùng lí tưởng. Một ngựa, một gươm – Từ Hải đã vung lên lưỡi gươm công lí cứu vớt những con người khốn khổ, và chắp .cánh cho ước mơ hoài bão của họ bay cao, bay xa mãi.

   Sự xuất hiện một nhân vật mới trên chặng đường số phận của Thuý Kiều lần này mang một ý nghĩa giá trị nghệ thuật đặc biệt.

   Hình tượng Từ Hải không chỉ phản ánh một quan niệm mới mẻ, tự do về quan hệ luyến ái nam nữ:

    Một đời được mấy anh hùng

    Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi

   Chính là lời nói giản dị, chân thành, trân trọng Thuý Kiều của Từ Hải đã là lời tỏ tình tế nhị kín đáo mà phá vỡ khoảng cách vốn rất dễ xuất hiện giữa nhân vật anh hùng với con người bình thường như Kiều. Có thể nói rằng Nguyễn Du thật có biệt tài xây dựng, khắc hoá tính cách từng nhân vật một cách đậm nét là rõ ràng. Đặc biệt là nhân vật Từ Hải. Hơn bất cứ những hình tượng nào khác trong tác phẩm, Từ Hải phản ánh khát vọng tự do một khuynh hướng tự do không chỉ vượt khỏi lễ giáo, đạo đức chính thống mà còn là một người nổi loạn đối lập với trật tự chính trị phong kiến. Hình tượng Từ Hải – con người đã san phẳng bất bình, bênh vực người bị áp bức bằng nghĩa khí và tài năng cá nhân – tạo nên nội dung phong phú sâu sắc của Truyện Kiều.

   Từ Hải dường như đã bẻ gãy xiềng xích mà xã hội phong kiến trói buộc con người, chàng phủ định chính quyền nhà vua, và đối với chàng tự do cao hơn hết thảy:

    Chọc trời khuấy nước mặc dầu

    Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

   Với khí thế ngang tàng của sự tự do, không phải là cảnh:

    Áo xiêm ràng buộc lấy nhau

    Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

   Mà lại cái tư thế hiện ngang giữa đất trời, thoả chí anh hùng:

    Giang hồ quen thói vẫy vùng

    Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

   Hình ảnh cây cung và thanh kiếm đã tạo nên một nét mới trong tính cách của Từ Hải. Cũng như Kim Trọng, Từ Hải cũng có một tâm hồn cao thượng và đượm chất thơ. Nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm Từ Hải còn làm độc giả say mê bởi cái cốt cách của một kẻ ngang tàng, hào phóng.

   Nguyễn Du xây dựng Từ Hải là nhân vật lí tưởng có cốt cách phi thường, nhưng đứng trước Kiều “Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”. Tuy nhiên chàng luôn đứng trên lập trường và lợi ích của cộng đồng, tình cảm và lí tưởng của chàng luôn thống nhất chứ không đồng nhất. Vì vậy mà:

    Nửa năm hương lửa đương nồng

    Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương,

    Trông vời trời bể mênh mang,

    Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong.

   Sống trong hạnh phúc yêu thương, khi hơi ấm tình cảm vợ chồng ở độ mặn nồng, đằm thắm. Từ Hải vẫn không quên sự nghiệp lớn, chí làm trai mà theo như Nguyễn Công Trứ:

    Chí làm trai nam bắc tây đông

    Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.

   Điểm này ở Từ Hải đã cho thấy sự phù hợp trong tính cách của chàng đó là đội trời đạp đất ở đời. Tư thế ra đi của Từ Hải dứt khoát, không có chút lưu luyến – bịn rịn như Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, không có lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai. Mà ở đoạn trích chí khí anh hùng (Truyện Kiều – Nguyễn Du), người Trượng phu mang trong mình tầm vóc lớn lao của thời đại giao cho, đối lập với một không gian bao la; trông vời trời bể mênh mang là tầm vóc của người anh hùng: Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng giong. Chỉ mới bốn câu thơ thôi Nguyễn Du đã khắc họa một nhân vật, người anh hùng bằng xương bằng thịt. Bởi miêu tả là người anh hùng cho nên ngôn ngữ của Nguyễn Du là sự kính phục, trân trọng. Cách miêu tả cũng khác, không gian, thời gian được mở rộng để phù hợp với khí phách của nhân vật chăng?

   Người anh hùng ra đi không muốn vướng bận nữ nhi, không chút mềm yếu trước lời nói của thê tử.

    Nàng rằng: phận gái chữ tòng.

    Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.

   Thuý Kiều là người sâu sắc đến mấy cũng không thoát khỏi chuyện phu – thê quyến luyến. Nàng chỉ muốn theo Từ Hải đi để làm trọn bổn phận làm vợ của mình, mà không nghĩ đến việc lớn của chàng. Vì thế Từ Hải đã trách khéo nàng tâm phúc tương tư tức là hai người đã hiểu rõ lòng dạ của nhau một cách sâu sắc như thế, cần gì phải quan tâm đến chuyện nghĩa theo chồng như đạo Nho bắt làm. Sau đó chàng động viên Thuý Kiều ở nhà yên tấm đợi tin vui:

    Bao giờ mười vạn tinh binh

    Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường

    Làm cho rõ mặt phi thường

    Bây giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

   Còn bây giờ giữa trời đất bao la bốn bể không nhà, nàng mà đi theo chỉ làm bận tâm thêm, huống chi chưa biết rõ là đi đâu. Vì vậy nàng hãy dằn lòng chờ đợi chỉ một hai năm vội gì. Thế rồi chàng:

    Quyết lời dứt áo ra đi,

    Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.

   Hình con chim bằng được lấy từ điển tích từ truyện ngụ ngôn kể rằng chim bằng là một giống chim rất lớn, đập cách làm động nước trong ba ngàn dặm, cho những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, khao khát làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Du đã ví Từ Hải như là con chim bằng đã đến lúc tung cánh bay lên cùng gió mây.

   Cuộc sống của một con người luôn khao khát không trung, tự do thoả chí vẫy vùng, không bao giờ chịu sống trong cảnh tù túng, gò bó một không gian nhỏ bé thường ngày của người bình thường. Khi miêu tả người anh hùng Từ Hải, Nguyễn Du đi vào miêu tả hành động và cử chỉ ngôn ngữ mang ý nghĩa mạnh mẽ, đứt khoát như: thoắt đã, thẳng giong, sao chưa thoát khỏi, dậy đất, phi thường, vội gì, quyết lời dứt áo ra đi, đã lìa… Ngoài ra thêm các từ chữ Hán để bộc lộ tư tưởng tình cảm của tác giả, rồi dung điển cố, điển tích… và cả xây dựng thời gian, không gian mở: nửa năm, bốn phương, trời bể mênh mang, bằng tiện…

   Tóm lại, chỉ một đoạn thơ ngắn, hình tượng nhân vật Từ Hải dường như xuất hiện từ một giấc mơ, từ một giấc mơ hùng vĩ về chính phía mà hàng triệu người khốn khổ áp bức hằng ôm ấp. Vì vậy, mà khi xây dựng, Nguyễn Du đã có những sáng tạo các phương thức nghệ thuật riêng, để biểu đạt khát vọng của mình và của thời đại Nguyễn Du sống – khát vọng về sự tự do, công bằng lẽ phải. Từ một cuộc chia li mà nói lên được toàn bộ chí khi anh hùng của Từ Hải.

Dàn ý mẫu

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm truyện Kiều và đoạn trích chí khí anh hùng.

– Giới thiệu nhân vật Từ Hải: Là hình tượng trung tâm của đoạn trích thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của tác giả.

I.. Thân bài

1. Từ Hải với những ý chí, khát vọng vùng vẫy giữa trời đất.

– “Trượng phu”: Cách gọi thể hiện sự trân trọng đối với những bậc anh hùng có tài năng, đức độ hơn người

– Hai không gian đối lập:

   + “Hương lửa đương nồng”: Mái ấm gia đình với tình yêu, hạnh phúc ngọt ngào

⇒ Không gian nhỏ hẹp, gắn với thói thường

   + “Bốn phương”, “trời bể mênh mang”: Không gian vũ trụ mênh mông, rộng lớn nâng tầm vóc người anh hùng lên tầm vũ trụ.

⇒ Thể hiện ước mơ, khát vọng lớn lao của người anh hùng.

→ Từ Hải quyết tâm từ bỏ không gian gia đình ấm êm để đến với không gian vũ trụ để vùng vẫy với những khát vọng.

– Tính từ “thoắt”: Sự mau lẹ, quyết đoán, tự tin không phân vân

⇒ Sự thức dậy của lí trí, khí phách anh hùng vượt lên những điều bình thường để làm những điều phi thường.

– Ánh mắt “trông vời” và tư thế “thẳng dong”: Khắc họa hình tượng người tráng sĩ với khát vọng vùng vẫy giữa trời cao

⇒ Người tráng sĩ lên đường với tư thế dứt khoát, mạnh mẽ đi liền một mạch không ngoảnh lại

2. Từ Hải với chí khí, hoài bão, lớn lao, phi thường.

– Hình ảnh “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường”:

⇒ Thể hiện hoài bão phi thường của Từ Hải, muốn xây dựng cơ đồ của một bậc đế vương, chí khí xứng đáng tầm vóc của một bậc anh hùng.

– Hình ảnh “bốn bể không nhà” kết hợp với câu hỏi tu từ “theo càng thêm bận biết là đi đâu”

⇒ Cảm giác cô đơn thấp thoáng của bậc anh hùng khi thực hiện hoài bão. Nhưng càng cô đơn, quyết tâm càng lớn.

– Khoảng thời gian “một năm”: Thái độ tự tin, quyết tâm thực hiện lí tưởng anh hùng.

→ Với những hình ảnh ước lệ đã cho thấy chí khí hoài bão, khát vọng lớn lao phi thường của người anh hùng Từ Hải.

3. Từ Hải với tình yêu và khát vọng hạnh phúc phi thường.

– Trước lời nói của Kiều, Từ Hải đã trách móc nhẹ nhàng:

   + “Tâm phúc tương tri”: Là người tri kỉ, hiểu rõ lòng dạ của nhau.

⇒ Từ Hải lấy đạo tri kỉ ra để thuyết phục Kiều ở lại, với Từ Hải Kiều không phải người vợ, người tình mà là một người tri kỉ

   + “Nữ nhi thương tình”: Thói nữ nhi tầm thường

⇒ Với Từ Hải, Kiều không phải cô gái tầm thường mà là người thông minh, sắc sảo, tinh tế.

→ Lời trách móc của Từ Hải cho thấy tình yêu của chàng đối với Thúy Kiều không phải tình cảm tầm thường mà hết sức phi thường. Đó là mối tình tri kỉ, trân quý lẫn nhau.

– Khát vọng hạnh phúc phi thường của Từ Hải:

   + “Làm cho rõ mặt phi thường”: Thực hiện được hoài bão, lí tưởng anh hùng.

   + “Rước nàng nghi gia” Rước Thúy Kiều danh chính ngôn thuận về làm vợ, cho nàng một danh phận.

→ Từ Hải ra đi không chỉ hướng đến sự nghiệp của một bậc anh hùng mà còn hướng đến khát vọng hạnh phúc phi thường của “trai anh hùng với gái thuyền quyên”

4. Từ Hải – con người dứt khoát, tự tin, đầy bản lĩnh

– “Quyết lời”: Lời nói dứt khoát, quyết đoán

– “Dứt áo ra đi”: Thái độ mạnh mẽ, quyết tâm, dứt khoát.

– “Gió mây bằng đã…đến kì dặm khơi”: Bút pháp lí tưởng hóa đã cực tả dáng vẻ tựa như cánh chim bằng cất mình bay thẳng vào muôn trùng dặm khơi của người anh hùng

⇒ Từ Hải là người có chí khí anh hùng, hoài bão lớn lao cùng bản lĩnh phi thường.

5. Ý nghĩa hình ảnh Từ Hải

– Thể hiện ước mơ về người anh hùng lí tưởng của thời đại: chí khí, hoài bão lớn lao, khát vọng phi thường

– Là biểu tượng về khát vọng tự do và lẽ công bằng.

6. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

– Bút pháp miêu tả, khắc họa nhân vật qua dáng vẻ, hành động, lời nói

– Ngôn ngữ đối thoại trực tiếp

– Hình ảnh ước lệ với các danh từ, động từ, tính từ giàu giá trị biểu đạt.

I.I. Kết bài

– Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật

– Liên hệ: Hình tượng người anh hùng Từ Hải với quan niệm về người anh hùng trong thời đại mới.

Bài văn mẫu

     Chí khí anh hùng được trích từ phần thứ hai Gia biến và lưu lạc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là phần do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong nguyên tác chữ Hán. Đoạn trích đã vẽ lên chân dung người anh hùng Từ Hải vô cùng đẹp đẽ, đồng thời gửi gắm những thông điệp ý nghĩa qua nhân vật này.

     Văn bản nói về cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải sau nửa năm chung sống mặn nồng. Từ Hải lên đường thể hiện quyết tâm mưu đồ việc lớn của người anh hùng có hùng tâm tráng trí cao cả, lớn lao.

     Trước đoạn trích này, ngay từ khi Từ Hải xuất hiện, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy hình ảnh người anh hùng ngay từ vẻ đẹp ngoại hình:

    Râu hùm hàm én mày ngài

    Vai năm thước rộng thân mười thước cao

     Hay vẻ đẹp ở phương diện tài năng:

    Đường đường một đấng anh hào

    Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

     Để làm bật vẻ đẹp đó, bốn câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người anh hùng với khát khao, hoài bão lớn lao, cao đẹp: “Nửa năm hương lửa đương nồng/ Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương/ Trông vời trời bể mênh mang/ Thang gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Giữa lúc cuộc sống của Từ Hải và Thúy Kiều đang ở độ đằm thắm, mặn nồng nhất thì Từ Hải quyết định dứt áo lên đường thực hiện nguyện vọng lớn lao. Theo lẽ thường, những người đàn ông sẽ khó có đủ quyết tâm để rời bỏ hạnh phúc riêng tư. Còn Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, mặc dù đang trong giai đoạn hạnh phúc nhất, nhưng sâu thẳm trong trái tim Từ Hải khát khao, hoài bão, nguyện vọng đó vẫn luôn âm ỉ cháy bỏng, chỉ chờ thời cơ thích hợp để thực hiện. Thái độ lên đường của Từ Hải hết sức dứt khoát, hành động “thoắt” cho thấy sự thay đổi nhanh chóng trong con người Từ Hải. Chỉ cần nghĩ đến những khát khao, hoài bão lớn của đời người là chàng đã muốn lên đường ngay lập tức. Tư thế lên đường “trông vời” đó là cái nhìn thẳng về phía trước, thể hiện một thái độ tự tin, mạnh mẽ của con người có bản lĩnh kiên định, vững vàng. Các từ ngữ Nguyễn Du miêu tả quyết tâm của Từ Hải hết sức đắt giá: “trượng phu” “động lòng bốn phương” “trời bể mênh mông” cho thấy một không gian hoạt động rộng lớn, đó là không gian thiên nhiên, vũ trụ để Từ Hải thỏa sức vẫy vùng, thể hiện hùng tâm, tráng trí của mình.

     Qua bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một người anh hùng lí tưởng, phi thường, có ước mơ, có hoài bãi cao cả, có chí lớn ôm trọn của trời đất. Nguyễn Du đã rất khéo léo khi xây dụng hình ảnh người anh hùng Từ Hải qua không gian rộng lớn, qua tư thế, hành động mạnh mẽ, dứt khoát.

     Qua cuộc đối thoại với Thúy Kiều vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn. Trước hết những lời đối thoại của Từ Hải đã cho thấy tình cảm chàng dành cho Thúy Kiều, chàng ý thức được sự lo lắng, băn khoăn, hiểu được ý định xin được đi theo của nàng Kiều nên đã nói chuyện với nàng để giải tỏa nỗi băn khoăn ấy. Chàng còn khẳng định tình cảm tri âm tri kỉ giữa hai người, rồi trách móc nàng Kiều vẫn chưa thoát khỏi chuyện nữ nhi thường tình :

    Từ rằng : Tâm phúc tương tri

    Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.

     Từ Hải một người có ý chí, quyết tâm, ôm mộng lớn bao trùm thiên hạ bởi vậy vợ chàng, tri âm tri kỉ của chàng cũng phải la người phụ nữ mạnh mẽ, hiểu chuyện, không nên có những thái độ giống như những người phụ nữ bình thường khác. Ngoài ra, để làm Thúy Kiều yên tâm, chàng còn khẳng định, đưa ra lời hứa hẹn :

    Bao giờ mười vạn tinh binh

    Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp trời

    Làm cho rõ mặt phi thường

    Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

     Câu thơ là lời khẳng định tình cảm sâu sắc Từ Hải dành cho Thúy Kiều, đó làm tấm lòng trân trọng, luôn lo lắng cho Thúy Kiều của Từ Hải. Đồng thời Từ Hải cũng phân tích để Thúy Kiều hiểu được việc nàng muốn đi theo là không phù hợp: Bằng nay bốn bể không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu. Để rồi một lần nữa Từ hứa hẹn chắc chắn một năm sau sẽ trở về đón nàng trong vinh quang. Đằng sau những lời nói của Từ Hải ta còn thấy được khát vọng lớn lao của người anh hùng: muốn có một đội quân tinh nhuệ, hùng hậu, đủ sức làm rung chuyển thiên hạ. Bày tỏ mục đích ra đi vì sự nghiệp lớn của mình là để khẳng định bản lĩnh nam nhi. Khát vọng lớn lao của người anh hùng Từ Hải thể hiện qua thái độ dứt khoát, kiên quyết dẹp bỏ tình riêng hết lòng vì sự nghiệp lớn.

     Khát vọng lớn lao của Từ hải còn được thể hiện ở lời khẳng định chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi sẽ hoàn thành sự nghiệp lớn để trở về. Đối với một người nam nhi làm sự nghiệp lớn, gây dựng cơ đồ chỉ trong một năm quả là quá ngắn ngủi. Qua lớn khẳng định đó cho thấy sự bản lĩnh, tự tin của Từ Hải vào tài năng của mình. Thông qua lời đối thoại với Thúy Kiều đã khắc họa rõ nét, chân thực những khát vọng lớn lao, cao cả, mạnh mẽ và cả tình yêu tha thiết Từ Hải dành cho Thúy Kiều.

     Hai câu thơ cuối thể hiện quyết tâm của Từ Hải : Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Các từ quyết, dứt, ra đi cho thấy hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Hình ảnh cảnh chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn được Nguyễn Du sử dụng để nói lên lí tưởng, khát vọng, hoài bão cao đẹp của người anh hùng.

     Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải mang trong mình khát khao lớn lao, được vùng vẫy trong bốn biển. Đồng thời hình ảnh Từ Hải cũng gửi gắm niềm tin về công lý, về sự nghiệp của Nguyễn Du.

Bài văn mẫu

   Bị đẩy vào lầu xanh lần thứ hai, Kiều ở trong tình trạng vô cùng đau đớn, tuyệt vọng:”Biết thân chạy chẳng khỏi trời – Cũng liều một phấn cho rồi ngày xanh”. Từ Hải xuất hiện đột ngột ở lầu xanh và tìm đến Kiều – một người tri kỉ. Với “con mắt xanh” tinh tường, Kiều đã mau chóng nhận ra Từ Hải là một anh hùng ngay từ lúc Từ chưa làm nên sự nghiệp. Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ, nhưng tình yêu không thể níu giữ chân Từ Hải. Đang sống êm đềm và hạnh phúc bên người đẹp, Từ Hải đột ngột từ biệt Kiều ra đi lập nghiệp anh hùng.

   Đây là đoạn thơ sáng tạo của Nguyễn Du. Đoạn trích thể hiện khí phách anh hùng của Từ Hải qua lời chia tay Thúy Kiều.

   Đoạn trích tập trung khắc họa hình ảnh người anh hùng Từ Hải – người anh hùng với chí khí cao đẹp, với quyết tâm thực hiện lí tưởng, khát vọng lớn lao. Đặt Từ Hải trong cảnh chia tay với Kiều trong cảnh” hương lửa đương nồng”, Thúy Kiều lại “một lòng xin đi” cho vẹn ” chữ lòng”, trong hoàng cảnh đó Từ Hải có điều kiện để giãi bày, bộc lộ khát vọng, chí khí của mình. Chí anh hùng chính là vẻ đẹp, là khí phách của Từ Hải nó trở thành cảm hứng bao trùm cả đoạn thơ.

   Trong đoạn thơ, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều hình ảnh không gian “bốn phương”, “bốn bề”. Đó là không gian của vũ trụ rộng lón, khoáng đạt trước mặt người anh hùng, trời bể như mở ra mênh mang và con người ấy “thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong”. Không gian đó hoàn toàn phù hợp với tính cách của Từ – một người “đội trời đạp đất” , “dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi”. Không gian đó chắp cánh cho những ước mơ, khát vọng lớn lao phi thường của Từ.

   Đang sống trong bình yên đằm thắm, tha thiết của người vợ – người tri kỉ, có con mắt ‘tinh đời”. Từ Hải bỗng “động lòng bốn phương”. Chàng thấy trong lòng mình náo nức cái chí tung hoành bốn phương trời. Khát vọng vùng vẫy tự do, sống không chịu gò bó mình vào trong một khuôn khổ nào khiến Từ không chịu yên phận. Chàng vốn là người sống có lí tưởng – lí tưởng của chàng là được sống tự do, vùng vẫy giữa đất trời cao rộng không chịu một sự trói buộc nào “Chọc trời khuấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”

   Là người anh hùng với những ước mơ, khát vọng lớn lao nhưng Từ Hải cũng là một con người đa tình. Khi mới gặp Kiều, Từ Hải đã mau chóng nhận ra Kiều là người tri kỉ với mình, còn Thúy Kiều với con mắt xanh nàng cũng nhận ra Từ là người anh hùng “hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa”, bởi “trai anh hùng ” đã gặp “gái thuyền quyên”. Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho Kiều và Từ Hải một cuộc sống hạnh phúc, êm ấm. Nhưng người vợ đẹp, thông minh, sắc sảo và hạnh phúc gia đình cũng không thể níu giữ được chân Từ. Chàng thấy”động lòng bốn phương ” là thấy trong lòng sôi nổi, náo nức hướng tới trời cao đất rộng, tới cuộc sống tự do chí khí tung hoành bốn phương trời. Những hình ảnh lớn lao kì vĩ “bốn phương”, “trời bể mênh mang” xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ đã thể hiện lí tưởng và khát vọng lớn lao của Từ. Con người ấy đã nói là làm, nói đi là đi, đã đi là tới. Đó là tính cách mạnh mẽ, phi thường của người anh hùng.

   Nguyễn Du để cho Từ Hải ngồi trên yên ngựa với tư thế đã sẵn sàng lên đường rồi mới nói với Kiều những lời tiễn biệt. Có thể thấy đây là một cuộc chia tay rất khác thường. Cuộc đời Kiều đã trải qua nhiều cuộc chia tay. Đó là cuộc chia tay với Kim Trọng âm thầm, lưu luyến “khách đà lên ngựa người còn ghé theo” – của đôi nam nữ thanh tú mới gặp nhau lần đầu mà đã “tình trong như đã mặt ngoài còn e”; đó là cuộc chia tay bịn rịn với Thúc Sinh “người lên ngựa, kẻ chia bào” Trong cuộc chia tay lần này, Từ Hải đã ở trong tư thế sẵn sàng của con người dứt lòng ra đi vì nghĩa lớn. vì lí tưởng, vì sự nghiệp của mình. Tiếng gọi của sự nghiệp đã lay động chàng. Từ không thể đắm mình trong chốn phòng khuê và Kiều cũng không thể ngăn chàng thực hiện khát vọng lập nghiệp của mình. Sự nghiệp đối với Từ là điều trên hết. Đó không chỉ là ý nghĩa sự sống của chàng mà còn là điều kiện để chàng thực hiện những khát vọng, ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm ở chàng. Vì thế mà Từ đã quyết dứt áo ra đi, dường như không một chút bịn rịn, lưu luyến.

   Khi Thúy Kiều xin với Từ cho nàng được đi theo, Từ đã trách người tri kỉ chưa thoát khỏ “nữ nhi thường tình”. Từ Hải mong muốn Kiều sẽ vượt lên những tình cảm thông thường để làm vợ một anh hùng có chí khí phi thường. Cho nên sau này trong nỗi nhớ thương của Thúy Kiều “Cánh hồng bay bổng tuyệt vời / Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm” không chỉ có sự mong chờ người yêu nơi phương xa mà còn hi vọng thành công trong sự nghiệp

   Những lời nói của Từ Hải, còn thể hiện chàng là con người rất mực tự tin. Ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải đã xem mình như một người anh hùng, sự nghiệp của chàng như đã nắm vững trong tay. Bây giờ mới bắt đầu xuất phát với “thanh gươm yên ngựa” nhưng chàng đã khẳng định không quá một năm sau chàng sẽ trở về với một cơ đồ to lớn.

   Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Để xây dựng nhân vật này, nhà thơ đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để khắc họa hình tượng người anh hùng: sử dụng từ ngữ, xây dựng hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại,….tất cả đều tô đậm vẻ đẹp phi thường của Từ Hải.

   Trong đoạn trích, một loạt những từ Hán Việt và những từ chỉ hành động mạnh mẽ như “trượng phu”, “thoắt” đã diễn tả những hành động dứt khoát, mạnh mẽ của con người có chí khí lớn ấy.

   Những hình ảnh lớn lao, kì vĩ như “động lòng bốn phương” “quyết lời dứt áo ra đi”, “trời bể mênh mang” đã giúp nhà thơ thể hiện chí khí lớn lao phong thái của người anh hùng trong lúc chia biệt. Con người ấy muốn vẫy vùng nơi trời cao đất rộng, không chịu trói mình trong cuộc sống tù túng chật hẹp. Nguyễn Du đã ví Từ Hả như con chim bằng khi cất cánh thì như đám mây ngang trời, và mỗi lần bay thì chín vạn dặm mới nghỉ. Hình ảnh đó đã giúp tác giả diễn tả một cách phong túng giây phút tiễn biệt giữa Từ Hải và Thúy Kiều

   Ngôn ngữ đối thoại cũng là tất yếu góp phần tô đâm khí phách của người anh hùng. Biết rõ Từ đi “bốn bể là nhà” Kiều vẫn tha thiết xin được đi cùng: “Nàng rằng” Phận gái chữ tòng / Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi” Từ đã nói với nàng những lời kiên quyết và tin tưởng chàng trở về với “mười vạn tinh binh – tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường”. Chàng hứa “Chầy chăng là một năm sau vội gi!” Những lời nói của Từ không chỉ thể hiện khí phách hiên ngang của người anh hùng mà còn thể hiện chàng là người rất tự tin, tin vào sức mạnh tin vào tài năng của mình, chàng sẽ lập nên sự nghiệp lớn.

   Vận dụng linh hoạt và sáng tạo các yếu tố nghệ thuật: từ ngữ, hình ảnh, ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Từ Hải. Khuynh hướng lí tưởng hóa với những nét tính cách đẹp đẽ sinh động mang đậm chất lí tưởng.

Bài văn mẫu

Sập bẫy của Tú Bà, Thúy Kiều phải vào lầu xanh với tâm trạng:

    “Vui là vui gượng kẻo là,

    Ai tri âm đó mặn mà với ai?”

Tại đây, Kiều gặp Thúc Sinh, người được xem là “tri âm” đối với Kiều. Nhưng vì nhu nhược, Thúc Sinh không giữ được Kiều khiến nàng lại rơi vào yay Bạc Bà, Bạc Hạnh, và phải làm gái lầu xanh lần nữa.

Cuộc đời Kiều tưởng như bế tắc hoàn toàn thì Từ Hải bỗng xuất hiện và đưa Kiều thoát khỏi cảnh ô nhục. Hai người sống hạnh phúc “Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”. Nhưng Từ Hải không bằng lòng với cuộc sống êm đềm bên cạnh nàng Kiều tài sắc, chàng muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Kiều ra đi. Đoạn trích (từ câu 2213 đến câu 22300 bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khí của Từ Hải.

Trong “Truyện Kiều”, nếu nhân vật Thúy Kiều được Nguyễn Du xây dựng như một biểu tượng cho cái đẹp tinh túy, lí tưởng của hiện thực cuộc sống thì nhân vật Từ Hải, qua đoạn trích “Chí khí anh hùng”, lại được Nguyễn Du xây dựng như một hình tượng đầy tính chất lãng mạn, chất anh hùng ca. Mở đầu đoạn thơ.

    Nửa năm hương lửa đương nồng,

    Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

    Trông vời trời bể mênh mang,

    Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Bốn câu thơ là lời của tác giả miêu tả về tâm trạng và hành vi của Từ Hải. Nhà thơ gọi Từ Hải là “trượng phu” – người đàn ông có tài, đáng trọng là đã thể hiện sự yêu quý trân trọng của ông với nhân vật này. Tình yêu và sự nghiệp, cả hai đều có trong con người của Từ Hải. Tình yêu ấy là “nửa năm hương lửa đương nồng”, sự nghiệp ấy là “động lòng bốn phương”. Những ngôn từ ước lệ ấy giúp người đọc nhận ra cả hai thứ tình ấy Từ Hải đều quý. Và chỉ ở bôn câu thơ trên mà xét thì “động lòng bốn phương”, muốn lập công danh sự nghiệp mạnh hơn “hương lửa đương nồng”. Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của một tráng sĩ “râu hùm, hàm én, mày ngài” đứng khoanh tay lặng hướng tầm mắt vào cõi xa xăm thì người đọc sẽ hiểu phần nào tâm trạng lúc này của con người:

    Giang hồ quen thói vẫy vùng

    Gươm đàn nửa gánh, non sông một chào”.

Những hình ảnh ước lệ, thậm xưng, đặc tả, kết hợp với các từ Hán Việt trang trọng, cùng với cách ngắt nhịp cân xứng, mạnh mẽ trong các dòng thơ chứa tầm vóc, tài năng, chí hướng nêu trên như đã khẳng định và in sâu tính cách một nhân vật phi thường với tâm hồn chứa chan lãng mạn ước mơ, tung hoành ngang dọc, muốn đổi thay thời thế nhân sinh… Trong ý nghĩa đó, phải chăng hình ảnh Từ Hải đã thành ước mơ khát vọng trong tâm hồn Nguyễn Du: Ông muốn cứu vớt đời Kiều, một tâm hồn, một vẻ đẹp, một tài năng tiêu biểu cho một tinh hoa của hiện thực cuộc đời?

Sau lời của nhà thơ viết về tâm trạng và quyết định của “trượng phu” là lời đối thoại của đôi vợ chồng. Kiều thì muốn hành động theo luân lí đạo Nho truyền thống nên đã tâm sự với Từ Hải:

    Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

    Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.

Kiều một lòng xin được theo Từ trên từng bước chàng đi cho tròn luân lí mà Nho giáo đã định ra: Là phận nữ nhi thì “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Ca dao ta cũng có câu:

    Đi đâu cho thiếp theo cùng

    Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

Đây là về lí luận. Thật ra có lẽ Kiều xin theo Từ Hải là vì tình, là vì sau bao năm bị vùi dập bởi sóng gió lầu xanh Kiều đã tìm được người bạn tri âm.

Nhưng với Từ Hải thì khác. Chàng đã đáp lại:

    Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

    Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Từ Hải đã có ý trách Kiều, nhưng đó là lời trách đầy yêu thương: Đã là người hiểu biết nhau sâu sắc đến vậy sao cứ giữ mãi nếp suy nghĩ nông cạn của người phụ nữ bình thường!

Sau lời trách nhẹ nhàng đầy tình thương yêu ấy, Từ Hải mới giải thích rõ ràng. Từ phải chiêu mộ binh sĩ giỏi, làm những việc xuất chúng. Người đọc có thể suy ra là Từ chiêu mộ tướng giỏi binh hùng để lập nước, trị quốc. Với ông việc như thế thì

    Bằng nay bốn bể không nhà,

    Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đấy là một hiện thực trong đời của con nhà lính. Từ đã trình bày cho Kiều hiểu rõ ngọn nguồn. Đó là về lí, mà cái lí ấy Từ nêu ra cũng vì tình. Từ đã khuyên Kiều:

    Đành lòng chờ đó ít lâu,

    Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Cùng với lời hứa:

    Làm cho rõ mặt phi thường,

    Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Với lí lẽ và lời hứa rõ ràng ấy chắc Kiều chẳng nói thêm được điều gì. Và dù có nói điều gì chăng nữa thì Từ Hải cũng:

    Quyết lời dứt áo ra đi,

    Gió mây bàng đã đến kì dặm khơi.

Mạnh dạn, dứt khoát và nhanh nhạy là vì nghĩa cùa hai câu thơ mang hình ảnh ước lệ trên. Đã một lần người đọc biết hành động cao đẹp nhanh gọn dứt khoát không tính toán của Từ Hải khi chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh. Nay cũng với tính cách ấy, Từ Hải hành động không chỉ vì tương lai của chàng mà còn vì cả Thúy Kiều. Trước mắt người đọc, hình ảnh Từ Hải cùng tinh binh phóng ngựa tiến về phía trước để lại đằng sau đám bụi mù thay cho hình ảnh ước lệ chim bằng bay lên cùng gió mây.

Đã hơn một lần Nguyễn Du tập trung khác họa chân dung Từ Hải. Một chân dung mà ngoại hình thật khác thường.

    “Râu hùm, hàm én, mày ngài

    Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

Một chân dung mà tài năng cái thế:

    “Đường đường một đấng anh hào

    Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”.

Một chân dung mà phong thái thật anh hùng, chí hướng bay bổng ước mơ:

    “Đội trời, đạp đất ở đời”

Và bây giờ với đoạn trích Chí khí anh hùng, một lần nữa càng chứng tỏ tài miêu tả, khắc họa nhân vật của nhà thơ Nguyễn Du. Cũng với các biện pháp ước lệ, nghệ thuật tượng trưng kết hợp với đối thoại quen thuộc của thể văn cổ nhưng khi Nguyễn Du vận dụng vào việc khắc họa nhân vật Từ Hải. Trong đoạn trích trên thì nghệ thuật ấy lại được phối hợp sáng tạo tuyệt hảo để người đọc đâu thể dễ dàng quên ngay được một nhân vật cái thế anh hùng, một tâm hồn mang bao hoài vọng của nhà thơ.

Bài văn mẫu

1. Lí tưởng anh hùng của Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải

   – Phẩm chất và chí khí phi thường : Điều này được Nguyễn Du thể hiện rất rõ qua lí tưởng anh hùng của Từ Hải : “Nửa nam hương lửa đương nồng” nhưng Từ Hài không vì thế ma quên đi lí tưởng lập nghiệp lớn. Hành động dứt khoát : “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” lời “trách” Thúy Kiều : “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thương tình ?” lời hẹn ước thể hiện niềm tin chắc chắn vào tương lai gần sẽ chiến thắng trờ về “Chầy chăng là một năm sau vội gì ” ! càng khắc họa đậm nét phẩm chất và chí khí phi thường của nhân vật.

   – Khát vọng làm lên sự nghiệp lớn : Nguyễn Du đã sử dụng liên tiếp nhiều hình ảnh mang tầm vóc không gian, vũ trụ : động lòng bốn phương, mười vạn tinh binh, tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường, mặt phi thường…thể hiện ước mơ, hoài bão cao đẹp muốn lập lên sự nghiệp anh hùng của Từ Hải.

2. Nghệ thuật tả người anh hùng của Nguyễn Du

   – Hình tượng có tính ước lệ : Nguyễn Du miêu tả nhân vật Từ Hải theo khuôn mẫu ước lệ về tả người anh hùng của văn học trung đại. Điều đó thể hiện qua những cụm từ và hình ảnh trở thành truyền thống như : trượng phu, thanh gươm yên ngựa, mặt phi thường,…qua ngôn ngữ lời nói : “Tâm phúc tương tri – Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?”…và hành động, cử chỉ : lên đường thẳng rong, quyết lời dứt áo ra đi,…

   – Hình tượng con người vũ trụ : Phương diện này được thể hiện thông qua những từ, hình ảnh, hình tượng mang tầm vóc vũ trụ kì vĩ : lòng bốn phương, trời bể mênh mông, mười vạn tinh binh, tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường, gió mây,..