Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc

a) Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Thắng lợi Cách mạng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ, lật đổ chế độ quân chủ và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.

Thắng lợi của Cách mạng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do. Với thắng lợi của Cách mạng Tám, Đảng và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ. Cách mạng Tám thắng lợi đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân giành độc lập, tự do.

Viết về thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là làn đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”1.

b) Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế

– Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã buộc thực dân Pháp và các nước phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đối với quốc tế, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ ở ba nước Đông Dương, là tấm gương cổ vũ các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, góp phần làm sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh, Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng lả một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi đó đã chứng minh rằng một dân tộc dù đất không rộng, người không đông, nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự ủng hộ quốc tế thì hoàn toàn có thể giành thắng lợi.

– Thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước (1954-1975): Quân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, giành lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đất nước; hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước giai đoạn sau; góp phần quan trọng và việc nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Đối với cách mạng thế giới, thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đã làm phá sản các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài; góp phần làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ, tự do và hòa bình phát triển của nhân dân thế giới.

Đánh giá thắng lợi lịch sử của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi và lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”2.

– Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong việc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc là “là một bảo đảm cực kỳ quan trọng cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”3 và tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các nước và góp phần củng cố hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới.

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam



Đảng Cộng sản Việt Nam - 91 năm lãnh đạo và trưởng thành

Thứ tư, 03/02/2021

91 năm trước, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vô cùng quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng nước ta, đánh dấu mốc son chói lọi trên con đường phát triển dân tộc, bởi trước đó các phong trào yêu nước đấu tranh chống lại sự xâm lược, đô hộ của đế quốc, thực dân đều thất bại do bế tắc về đường lối và về giai cấp lãnh đạo.

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trải qua 91 năm, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo - đã tập hợp sức mạnh trí tuệ toàn dân tộc tiến hành các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và liên tục giành được những thắng lợi vĩ đại. Nhân dân cả nước ta tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám là kết quả sự phát triển cách mạng trong 15 năm, trải qua 3 cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh; cao trào cách mạng dân tộc dân chủ 1936 -1939 và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945. Cách mạng tháng Tám đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
Sau Cách mạng tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta thiết tha mong muốn kiến thiết đất nước trong hòa bình, chủ trương giao hảo với tất cả các nước gần xa. Song đế quốc thực dân lại đem quân xâm lược nước ta lần nữa. Tất cả vì độc lập tự do, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và giành thắng lợi vĩ đại. Đó là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu và đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta. Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh. Những thành tựu Nhân dân ta đã thực hiện trong giai đoạn 1975 -1985 là đáng kể. Đảng ta đã có nhiều nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định mục tiêu và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng Đảng ta cũng đã phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã tự phê bình nghiêm túc về những sai lầm và đề ra đường lối đổi mới. Trong lúc Đảng ta và Nhân dân ta triển khai công cuộc đổi mới thì một biến cố bên ngoài hết sức phức tạp, bất lợi cho cách mạng đã xảy ra, đó là sự sụp đổ mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô. Cách mạng nước ta một lần nữa đứng trước thử thách lớn. Song, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, có tính nguyên tắc của Đảng; nhờ có tinh thần yêu nước và sự phấn đấu kiên cường của Nhân dân, công cuộc đổi mới đã thu được những thắng lợi quan trọng. Thắng lợi nổi bật nhất là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóavà hội nhập quốc tế; tiếp tục đưa đất nước ta phát triển, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của cách mạng Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế.
Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Những thành tựu hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
Những thành tựu vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Thứ nhất:Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã xoá bỏ chế độ thực dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Thứ ba: Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong 91 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 91 năm qua; ôn lại những khó khăn, gian khổ, sự hy sinh vô bờ bến cùng những thắng lợi vẻ vang mà nhân dân ta đã giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta càng trân trọng quá khứ, nâng niu gìn giữ những thành quả cách mạng và công ơn trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh; càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào thêm về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, vị tha, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 91 năm qua đã chứng minh rằng sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định thắng lợi cách mạng nước ta; đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện thử thách và không ngừng trưởng thành, ngày càng xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Vì lẽ đó, bao thế hệ người dân Việt Nam đã dành trọn niềm tin, niềm kính yêu vô hạn cho Đảng quang vinh bằng ngôn từ giản dị: “Đảng ta”.





Xem tin khác

  • Không khai báo với Trạm y tế F0 sẽ mất khoản tiền nào? - Thứ ba, 22/02/2022
  • Đoàn Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam: Xem xét dừng thực hiện Quyết định về việc chi hỗ trợ cho đoàn viên, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 - Thứ hai, 21/02/2022
  • Hải Phòng triển khai thí điểm Hệ thống theo dõi, chăm sóc sức khoẻ F0 tại nhà - Thứ tư, 16/02/2022
  • Các trường hợp được bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp - Thứ hai, 14/02/2022
  • Nhận diện, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới - Thứ tư, 09/02/2022
  • LĐLĐ TP HẢI PHÒNG: Xét nghiệm RT-PCR SARS-CoV-2 cho công nhân các khu nhà trọ trên địa bàn thành phố Hải Phòng sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022 - Thứ tư, 09/02/2022
  • THÔNG TƯ MỚI HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG BỊ TAI NẠN LAO ĐỘNG - Thứ ba, 08/02/2022
  • Lịch sử và ý nghĩa sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930) - Thứ tư, 02/02/2022
  • Đồng chí Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm, chúc Tết, tặng quà công nhân lao động thành phố - Thứ năm, 27/01/2022
  • Doanh nghiệp không công khai quy chế lương, thưởng sẽ xử phạt như thế nào? - Chủ nhật, 23/01/2022

HỆ THỐNG TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN

Thường trực , Các Ban LĐLĐ TP

Liên đoàn Lao động quận

Liên đoàn Lao động huyện

Liên đoàn Lao động quận, huyện

Công đoàn cơ sở trực thuộc

Công đoàn ngành và tương đương

Trung tâm GTVL & Dạy nghề

Công ty TNHH MTV DLDV Công đoàn

Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Cung Văn hóa LĐHN Việt - Tiệp

VĂN BẢN MỚI BAN HÀNH

  • Hỗ trợ tăng cường dinh dưỡng cho đội ngũ y tế tuyến đầu phòng, chống dịch...

    Ký hiệu : Số 3040/QĐ-TLĐ

    Ngày phát hành : 11/08/2021

  • Hỗ trợ khẩn cấp cho đoàn viên, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid...

    Ký hiệu : Số 3022/QĐ-TLĐ

    Ngày phát hành : 09/08/2021

  • Hỗ trợ khẩn cấp cho đoàn viên, người lao động

    Ký hiệu : Số 2606/QĐ-TLĐ

    Ngày phát hành : 19/05/2021

  • Công văn hướng dẫn sơ kết công tác công đoàn 6 tháng đầu năm 2021

    Ký hiệu :

    Ngày phát hành :

  • Kế hoạch tổ chức sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện NQ Đại hội Công đoàn...

    Ký hiệu :

    Ngày phát hành :

  • Công văn hướng dẫn báo cáo kết quả phong trào CNVCLD và hoạt động công đoàn...

    Ký hiệu :

    Ngày phát hành :

  • Công văn về việc quán triệt bài viết của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch...

    Ký hiệu : 379/LĐLĐ-TGNC

    Ngày phát hành : 14/09/2020

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đơn vị trực thuộc

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trung tâm giới thiệu việc làm và dạy nghề

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Công ty TNHH MTV DVDL Công Đoàn

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Tượng đài đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt -Tiệp

Video hoạt động

Phóng sự Nơi yêu thương tìm về

Công đoàn Khu Kinh tế tổ chức lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng cho cán bộ công đoàn

Tuyên truyền bầu cử tại xã Tân Tiến, huyện An Dương, Hải Phòng

Tuyên truyền bầu cử thông qua hình thức Gameshow

Lượt truy cập

Hôm nay:223

Tất cả:01856546

Đang trực tuyến:40

Quản trị Web

Unknown alias 'banner_left'

Đảng Cộng Sản Việt Nam – Người tổ chức và lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi vĩ đại

Chuyên đề 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - NGƯỜI TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO VÀ LÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
------------
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, xóa bỏ hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, lãnh đạo và là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
I- SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc bắt đầu từ ngay từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Từ năm 1858 đến trước năm 1930 đã nổ ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh với mục tiêu giành lại nền độc lập dân tộc. Đó là cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu; khởi nghĩa của Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực… Đó là các cuộc khởi nghĩa theo tiếng gọi “Cần Vương” của Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám…; các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân… Là cuộc khởi nghĩa của tiểu tư sản, trí thức trong Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo… Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt của nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân cơ bản là do đường lối cứu nước chưa đúng, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Thực tiễn của phong trào yêu nước Việt nam đã đặt ra yêu cầu tìm con đường cứu nước mới.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời cùng với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đầu thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam đã có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai gắn bó với nhau, không thể tách rời nhau.
Sự ra đời và ngày càng trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam mang trong mình chủ nghĩa yêu nước truyền thống cùng với ý thức giai cấp là cơ sở để tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là sự kết hợp giữa dân tộc và thời đại. Ra nước ngoài, tìm con đường cứu nước mới, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, trở thành chiến sĩ giải phóng dân tộc và chiến sĩ cộng sản quốc tế. Người đã hoạt động tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản, phong trào công nhân quốc tế, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin qua các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam trong nước đón nhân. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên các phong trào đấu tranh sôi nổi khắp cả nước, trong đó có giai cấp công nhân. Sự phát triển của phong trào công nhân và của các tầng lớp nhân dân đòi hỏi phải có đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập.
Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Việc Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam phản ánh xu thế tất yếu và bước phát triển nhảy vọt của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
2. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Thay mặt cho Quốc tế Cộng sản, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chỉ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã phản ánh sự kết hợp giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX. Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
II- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
1. Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập dân tộc
a) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền
- Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nền lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh, với ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945); khi thời cơ đến, Đảng đã phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã giành lại nền độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm bị đô hộ. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
b) Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt với ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đối với các thế lực thù địch, Đảng đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian để củng cố lực lượng. Với đường lối chính trị sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
c) Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hòa bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, thực dân Pháp vẫn ngày càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Dân tộc ta buộc phải chiến đấu để bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” . Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (7-5-1954).
Chiến thắng Điện Biên Phủ được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX; góp phần phá vỡ hệ thống thuộc đại của chủ nghĩa thực dân cũ, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân.
d) Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954-1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, thực hiện quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xóa bỏ Hiệp định Giơnevơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng; cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiên chống Mỹ cứu nước. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, “hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ bé, dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin, đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu tranh để giành độc lập và dân chủ, có thể chiến thắng một kẻ thù xâm lược.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới (từ năm 1975 đến nay)
- Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nền do chiến tranh để lại. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài bao vây, cấm vận…, luôn tìm mọi cách phá hoại cách mạng nước ta. Bắt đầu từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt là sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trong 10 năm (1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được còn thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân bằng nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phản ánh tích cực những mặt sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trong các nhiệm kỳ Đại hội VII (1991 -1996), Đại hội VIII (1996 - 2001), Đại hội IX (2002 - 2006); Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4 - 2006) đã khẳng định: Sau 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Điều đó được thực hiện trên cả hai mặt: những thành tựu trong thực tiễn và trong nhận thức.
Về mặt thực tiễn, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Về mặt lý luận, Đảng đã nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng cũng có mặt, lĩnh vực còn yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan trọng là Đảng sớm phát hiện ra những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công kahi tự phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
III- SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG - NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột giai cấp công nhân ở chính quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” . Đảng của giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn phong trào giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì Đảng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” .
Vì vậy, có thể nói cách mạng giải phóng dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nước
- V.I. Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc nên được nhân dân tin và đi theo.
- Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt nam có khả năng to lớn để lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo phù hợp với thời đại, quy luật phát triển của xã hội. Đảng không có mục đích tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng không có lợi ích nào khác.
- Lịch sử cách mạng Việt Nam cận, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế trong quá trình đấu tranh giai cấp và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị tham gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng của Đảng đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
IV- NHỮNG KINH NGHIỆM VÀ BÀI HỌC CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1991) đã tổng kết thực tiễn hơn 60 năm cách mạng nước ta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu ra năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam.
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Lý luận Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng nước ta đã khẳng định một chân lý: Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân là nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và làm cho sự nghiệp cách mạng bị tổn thất.
3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử to lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để giành thắng lợi. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là độc lực chủ yếu để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hóa, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bên trong và bên ngoài có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực, trong đó đoàn kết toàn dân tộc, phát huy dân chủ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển đất nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại; là sức mạnh của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của các thế lực cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sức mạnh dân tộc, nguồn lực bên trong là yếu tố quyết định, đồng thời được bổ sung và nhân lên khi kết hợp được với sức mạnh thời đại và nguồn lực bên ngoài.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Muốn vậy, Đảng cần quán triệt những nội dung cơ bản sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng.
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân.
- Phòng, chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Trong giai đoạn cách mạng mới, Đại hội X của Đảng đã xác định nhiệm vụ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, để “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”; phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiệ đại, “thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại” ./.

Những thành tựu to lớn của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Thứ Hai, 06-09-2021, 21:08

Facebook Email Bản in +

Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một góc phía tây bắc của Thủ đô Hà Nội.

Từ thực tiễn của Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà chính quyền phục vụ nhân dân, lấy nhân dân làm gốc. Kết quả xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam là minh chứng có giá trị hơn mọi lời nói. Có được điều này bởi lẽ chủ nghĩa xã hội là nhân văn, là động lực để nhân loại hướng tới một xã hội thịnh vượng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo vệ độc lập, tự chủ và môi trường thiên nhiên.

Tháng 5/2021, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết quan trọng với tiêu đề “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở ViệtNam”.

Bài viết là sự tiếp nối những thành công của Đại hội XIII vừa được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức đầu năm 2021. Với tư cách là tổ chức chính trị lãnh đạo đất nước liên tục từ năm 1945 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt ra những mục tiêu lớn cho dân tộc: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao. (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.112)

Noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sử dụng ngôn từ đơn giản, dễ hiểu để đề cập tới việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước đang phát triển như Việt Nam, với những câu hỏi như: “Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa?... Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì?”.

Bài viết là sự tổng kết sâu sắc những vấn đề lý luận và thực tiễn, phê phán việc tuyệt đối hóa sở hữu nhà nước, mô hình kế hoạch hóa tập trung, độc quyền nhà nước về ngoại thương, phân phối bình quân, không theo đánh giá của thị trường.

Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Chính phủ Việt Nam sau thống nhất đã triển khai nhiều biện pháp cải cách nhất quán (Đổi mới), giúp nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ. Nhờ đó, kinh tế Việt Nam tăng trưởng và phát triển liên tục với tốc độ khá cao trong suốt 35 năm qua, bình quân 7%/năm, đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế lớn thứ tư ở ASEAN. An ninh lương thực được bảo đảm và Việt Nam hiện trở thành quốc gia xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ không ngừng tăng lên, chiếm khoảng 85% GDP. Năm 2020, dự trữ ngoại hối đạt 100 tỷ USD.

Bài viết cho biết vấn nạn mù chữ đã được xóa bỏ hoàn toàn và từ năm 2000 Việt Nam đã tiến hành phổ cập giáo dục tiểu học. Số sinh viên đại học tăng lên gấp 17 lần trong 35 năm qua. Lĩnh vực y tế dự phòng và kiểm soát dịch bệnh được tăng cường; tuổi thọ trung bình của người dân tăng từ 62,0 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Hiện nay, 70% người dân Việt Nam được sử dụng internet và Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức chỉ số 0,704, đưa Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có HDI cao nhất thế giới.

Đại hội lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càngđược hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”. (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.25)

Những nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết rất sâu sắc, cho thấy tầm quan trọng của các vấn đề lý luận và thực tiễn.

Thực tiễn cho thấy, các tổ chức chính trị tiến bộ như hai đảng chúng ta cần đổi mới, sẵn sàng bước vào một giai đoạn đấu tranh mới vì chủ nghĩa xã hội. Trong thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội đã trải qua “thời niên thiếu” của mình, có nhiều đóng góp quan trọng cho văn minh nhân loại. Tại Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới, trong suốt hơn 70 năm, quan điểm về xây dựng chủ nghĩa xã hội rất xơ cứng, rập khuôn. Việc Liên Xô tan rã và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam trước đây là những minh chứng rõ nhất cho bài học đau xót này.

Lý luận chủ nghĩa xã hội cần được nhìn nhận như một hình thái lịch sử cụ thể. Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội không dựa trên những lý luận trừu tượng, giáo điều hay niềm tin, mà phải dựa trên các phương pháp tiếp cận hợp lý, những lý luận khoa học, không ngừng được bổ sung, phát triển, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Thực tiễn đấu tranh của C. Mác, V.I. Lê-nin và nhiều nhà cách mạng cộng sản khác đã chứng minh luận cứ này, phải phát triển lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách sáng tạo.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên việc xây dựng các chiến lược đấu tranh cụ thể, chín muồi, phù hợp với tình hình đất nước, trên cơ sở tương quan lực lượng trên trường quốc tế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mức độ đấu tranh giai cấp, đặc thù của thể chế chính trị, văn hóa và những đặc điểm riêng của mỗi nước. Điều này đạt được thông qua giai đoạn quá độ tuần tự các trật tự chính trị, kinh tế, xã hội của mô hình tư bản chủ nghĩa sang mô hình xã hội chủ nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh của mỗi quốc gia.

Chủ nghĩa xã hội cần thắp sáng hy vọng cho mọi quốc gia, mọi dân tộc. Hy vọng đó đến từ việc đưa ra được một mô hình xã hội thay thế cho chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân mới, chấm dứt chiến tranh, áp bức và tụt hậu. Trong mô hình đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất phải giải phóng sức lao động, chứ không phải tạo ra hàng triệu người vô sản, những người thậm chí không thể “bị bóc lột” vì thất nghiệp.

Từ thực tiễn của Việt Nam, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội mà chính quyền phục vụ nhân dân, lấy nhân dân làm gốc. Kết quả xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam là minh chứng có giá trị hơn mọi lời nói. Điều này càng được thể hiện rõ ràng trong đại dịch Covid-19, cho thấy rõ tính ưu việt trong phòng, chống dịch bệnh của chính quyền các nước xã hội chủ nghĩa.

Có được điều này bởi lẽ chủ nghĩa xã hội là nhân văn, là động lực để nhân loại hướng tới một xã hội thịnh vượng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo vệ độc lập, tự chủ và môi trường thiên nhiên. Nó đòi hỏi phải có một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý mọi mặt đời sống xã hội, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Những mục tiêu này sẽ đạt được nếu lực lượng sản xuất phát triển tới một trình độ mới cao hơn, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, qua đó cải thiện hiệu quả quá trình lập kế hoạch phát triển kinhtế và quản trị dân chủ tham dự. Nếu không làm được điều này, chủ nghĩa xã hội sẽ mãi chỉ là một mô hình thử nghiệm sơ khai.

Quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ làm nảy sinh những hình thái kinh tế - xã hội mới, cùng tồn tại với những hình thái trước đó, nhưng đều chịu định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó hình thức sở hữu công sẽ kiểm soát những tư liệu sản xuất cơ bản.

Bằng cách này, Nhà nước có thể tăng mức đầu tư công để thúc đẩy phát triển, giảm thiểu ảnh hưởng của khu vực tư nhân trong đầu tư, qua đó gia tăng kiểm soát các hình thức sở hữu khác nhau. Điều này cũng giúp duy trì mức đầu tư công cần thiết cho các lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cho các dịch vụ xã hội như y tế, nhà ở, văn hóa, an ninh trật tự và bảo vệ môi trường, không bị ràng buộc bởi các hạn chế về trần nợ công, vốn đóng khung Nhà nước trong việc sử dụng ngân sách cho các mục tiêu xã hội.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta đang sáng tạo ra một “mô hình xã hội chủ nghĩa” mới. Nói như thế là phi lịch sử. Cần vạch rõ con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo hoàn cảnh mỗi nước, quán triệtquan điểm quá trình quá độ lên xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ thực tiễn mỗi nước và phụ thuộc vào chế độ chính trị hiện tại.

Trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện đang thúc đẩy quá trình quá độ giữa hình thức sở hữu công và sở hữu tư nhân, giữa Nhà nước và thị trường, giữa giải phóng chính trị và dân chủ bình dân, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.

Những phân tích trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho chúng ta thấy rõ sự trưởng thành trong chiến lược đúng đắn đó của Việt Nam. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nội dung to lớn, khó khăn và phức tạp, phải tạo được sự chuyển biến sâu sắc về chất trong mọi mặt đời sống, không chối bỏ những thành tựu, văn minh nhân loại mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được trong quá trình phát triển, mà cần tiếp thu có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển.

Và để lãnh đạo sự nghiệp vĩ đại này không ai xứng đáng hơn Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng cách mạng có nhận thức giai cấp sâu sắc và đầy đủ nhất.

Những tổng kết bài bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thắp sáng niềm tin, làm phong phú thêm kho tàng lý luận và thực tiễn của những người cộng sản và tiến bộ trên toàn thế giới. Bài viết đã đề cập tới những khía cạnh cơ bản của chủ nghĩa Mác và đưa chúng lên tầm cao mới trên cơ sở thực tiễn phong phú, có tính đến yếu tố thời đại, trình độ phát triển của đất nước, với tư duy cởi mở và niềm tin tuyệt đối vào những lý luận cốt lõi.

Phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một nội dung đòi hỏi sự dũng cảm, can đảm trong lý luận bởi đấu tranh tư tưởng cũng đầy chông gai và thái độ tự hài lòng sẽ triệt tiêu mọi ý tưởng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy “trí tuệ tập thể” nhằm tìm ra giải pháp mới cho mọi vấn đề.

*
* *

Nhân dịp này, chúng tôi xin gửi tới Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam lời chào trân trọng, chân thành cảm ơn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về những đóng góp cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Là một người Brazil đã lựa chọn gia nhập hàng ngũ những người cộng sản, lựa chọn Đảng Cộng sản Brazil (PCdoB) từ khi mới 18 tuổi (năm 1972), tôi đánh giá cao cuộc đấu tranh cách mạng chống thực dân ở Việt Nam; luôn ngưỡng mộ, khâm phục lòng dũng cảm, sự cần cù của nhân dân Việt Nam. Tấm gương sáng chói của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi khắc sâu trong tâm trí các thế hệ nhân dân Brazil. Chúng tôi đã nhiều lần ăn mừng những thắng lợi của nhân dân Việt Nam trước thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, khi thống nhất đất nước và lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Chúng tôi rất phấn khởi chứng kiến những thành tựu vĩ đại của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu. Xin chúc Đồng chí tiếp tục gặt hái thêm nhiều thành công mới.

Nhân dịp này, chúng tôi xin khẳng định mong muốn thúc đẩy, làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa hai đảng, hai nước nhằm hỗ trợ, làm phong phú hơn kho tàng kinh nghiệm của nhau trong giải quyết những thách thức chung của cả hai dân tộc.

Đồng chí WALTER SORRENTINO - Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Brazil (PCdoB), Trưởng Ban Đối ngoại PCdoB, Chủ tịch Quỹ Maurício Grabois

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội Đảng Cộng sản Brazil Đồng chí WALTER SORRENTINO Một số vẫn đề lý luận thực tiễn về chủ nghĩa xã hội Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Facebook Twitter Link EmailQuay lại