Man di mọi rợ nghĩa là gì năm 2024

"mọi rợ" câu"mọi rợ" Tiếng Anh là gì"mọi rợ" Tiếng Trung là gì

Nghĩa

Man di mọi rợ nghĩa là gì năm 2024
Điện thoại

  • Từ do bọn phong kiến, tư bản dùng để nói về các dân tộc chậm tiến, chưa khai hóa, còn dã man.
  • mọi dt. 1. Từ ngữ có tính chất kỳ thị chủng tộc, trước đây (thời thực dân phong...
  • rợ 1 dt. Dây nhỏ và dai: lấy rợ buộc chặt vào. 2 dt. 1. Các dân tộc, bộ tộc lạc...

Câu ví dụ

  • Chỉ có cách này là xả rác được cái xứ mọi rợ kia.
  • Cách suy nghĩ và hành động của họ thật là mọi rợ.
  • Ở thời kì mọi rợ nguyên thủy, khoảng 1300 năm trước.
  • Hành xử kiểu CÔN ĐỒ chỉ có ở một xã hội mọi rợ.
  • Nhưng tha thứ là khái niệm quá lạ lẫm với lũ mọi rợ
  • Trước hết, cô ta thua trận trước mấy kẻ mọi rợ.
  • Người cha mọi rợ tội nghiệp của tôi sẽ nói gì đây?"
  • Có nơi nào trên thế giới mọi mọi rợ như TQ không?
  • Đó là hành vi man rợ của những con người mọi rợ.
  • Đã đến lúc giải phóng mọi rợ bên trong của bạn.
  • thêm câu ví dụ: 1 2 3 4 5

Những từ khác

Có phải Man Di không? Tộc người và sự biến đổi các quan niệm về các tộc Việt cổ khoảng năm 400-50 TCN (I)

Man di mọi rợ nghĩa là gì năm 2024

Erica Brindley

Người dịch: Hà Hữu Nga

Việc nghiên cứu về tộc người trong các khoa học xã hội đương đại giúp thiết kế mộtcon đường phức tạp hơn cho các nghiên cứu của chúng tôi về bản sắc trong lịch sửchâu Á. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu nói chung vẫn còn hạn chế ở các vùng biên giới cổ phía bắc và tây bắc, và vùng biên giới đương đại Tây Nam Trung Quốc, (1)trong khi các lĩnh vực cụ thể khác về nghiên cứu tộc người vẫn còn chừa lại. Một trong các lĩnh vực nghiên cứu còn bị bỏ qua lại liên quan đến các mối quan hệ tộc người trong chính lịch sử cổ đại nam Trung Quốc. (2) Mục đích của tôi trong bài viếtnày là nhằm khắc phục sự thiếu hụt nhận thức về lịch sử tộc người trong các vùngphía nam Trung Quốc bằng cách xem xét các tác gia thời Chiến Quốc và triều đại nhà Hán (khoảng 400-50 năm TCN) đã nhìn nhận ra sao về người 越 Việt với tư cách là một bản sắc khác với bản thân họ. Những tiêu chí biến đổi mà các tác giả này sử dụng trong việc thể hiện các bản sắc và những khác biệt với họ là gì, và làm thế nào để có thể phân biệt hoặc đồng ý với những tiêu chí ấy đối với hiểu biết hiện tại của chúng ta về tộc người? Các tác giả này đã phản ánh ý thức riêng của họ ra sao về bản sắc thông qua các phán xét của họ về tính khác biệt Việt ấy theo cách mà họ đã phân biệt về các bối cảnh văn hóa, chính trị và tri thức? (3) Có phải họ đã coi Việt tộc làkhác biệt nhưng vẫn ít nhiều dựa trên cơ sở bình đẳng? Hay họ cho rằng Việt tộc chỉ là lũ tiểu nhân – “man rợ” – trong mối quan hệ với bản thân họ?

Sự thiếu hụt chung về tính chất học thuật liên quan đến tộc người trong lịch sử ở miền Nam là rất đáng quan tâm, vì các văn bản sớm của Trung Quốc đặc biệt không né tránh đề cập đến hàng trăm nhóm tộc người khác nhau xuất hiện trong cảnh quan ban đầu của phương nam. Được viết bằng chữ Trung Quốc bởi các thành viên của tầng lớp có học, các nguồn tư liệu này gợi lên một bối cảnh lịch sử phức tạp của các mối quan hệ tộc người ở phương nam, và họ nói khá thẳng thắn về các vương quốc phương nam với rất nhiều loại người, ngôn ngữ phong tục, và nguồn gốc khác nhau. Họ cũng không quên trình bày một lịch sử chung về cung cách mà các nhómưu trội chẳng hạn như các quốc gia hùng mạnh và các triều đại đế vương đã tương tác, bành trướng, đồng hóa, và mặt khác, chịu ảnh hưởng của các nền văn hóa và các chính thể ở các vùng phía Nam.

Vậy thì, tại sao các học giả đương đại đa phần lại bỏ qua lịch sử này? Tôi cho rằng đó không phải do thiếu quan tâm, mà đúng hơn là, do tác động đặc biệt được tạo ra bởicác công trình kiến tạo một bản sắc dân tộc “Trung Quốc” hiện đại, (4) liên quan mật thiết đến những gì mà Lydia Liu gọi là “sáng kiến của Trung Quốc trong việc tạo dựngthế giới hiện đại” và việc kiến tạo bản sắc đó có nguồn gốc trong các huyền thoại bảnsắc sớm của nó. (5) Được truyền bá trong thời Chiến Quốc và coi cuốn 史記 Sử kí của司馬遷 Tư Mã Thiên về buổi đầu nhà Hán là khuôn mẫu, các huyền thoại ấy đã dựng đặt sự tồn tại của một dân tộc “華” Hoa, “夏” Hạ, và “華夏” Hoa Hạ, hoặc “諸夏”Chư Hạ liên tục và đồng nhất, một dân tộc được truy nguyên nguồn gốc từ các vị đế vương hiền triết cổ đại, nhưng họ lại không thừa nhận cách thức mà những ám chỉbản sắc này đã được chuyển đổi và tái tạo dựng theo thời gian. (6) Họ cũng khôngthừa nhận những cách thức rất liên quan mà bản sắc Trung Quốc đã bị ảnh hưởng vàthay đổi bởi các tộc người khác, thường là các nhóm, các bản sắc và các tộc người xa lạ. Quan điểm cho rằng bản sắc “Trung Quốc” (những gì được các tác giả sớm gọi làHoa, Hạ, và đại loại thế, như đã đề cập) được thừa hưởng một quá trình tồn tại liên tục và đồng nhất từ thời cổ đại đã che mờ hiểu biết của chúng ta về sự phát triển sớm của các quốc gia hỗn tạp và các nền văn hóa trong những khu vực bây giờ làmiền nam Trung Quốc. (7) Ví dụ, từ những giai đoạn sớm nhất, lúc liên tục, lúc đứt đoạn cho đến tối thiểu là cuối thế kỷ thứ sáu SCN, các nhà nước và các nền văn hóathống trị ở phía nam, chẳng hạn như Sở 楚, Ngô 吳, và 越 Việt trong thời 東周 Đông Chu, cũng như Thục 蜀 và Ngô 吳 sau khi nhà Hán sụp đổ, đã luôn tương tranh khốc liệt với nhau và với các quốc gia phương bắc để giành ngôi vị bá chủ. (8)

Không nghi ngờ gì là các dân tộc và các nền văn hóa của nhà nước này đã chịu ảnh hưởng đáng kể bởi những di sản văn hóa Trung Quốc (mà trong suốt các triều đại sau đó vẫn được gọi chung là văn hóa “漢” Hán), nhưng điều đó không có nghĩa là họ không tiếp tục tạo dựng và tái tạo ý thức riêng của họ về các truyền thống dân tộc,lịch sử, văn hóa, và thậm chí cả các truyền thống chính trị. Hơn nữa, mặc dù tất cả các quốc gia góp phần vào lịch sử của cái bây giờ là Trung Quốc, thì nhiều nhà lãnh đạo và nhiều cộng đồng người vẫn không tự nhận mình là người Trung Quốc theo bất kỳ loại nhãn lịch sử nào được gán cho. Ngay cả khi một số người phương Nam đãtự coi mình là người Trung Quốc (đặc biệt là sau sự sụp đổ của nhà Hán và những người xuất thân từ các tầng lớp tinh hoa), họ vẫn có thể hiểu rõ căn cước của mìnhbằng việc phân biệt họ với người Trung Quốc theo như cách hiểu ở miền bắc, hoặchọ thậm chí còn có thể đồng nhất mình với khối người đông đảo nơi họ sống, mặc dùkhác họ về tộc thuộc. (9)

Thuật ngữ “越” Yue (Việt) theo cách phát âm hiện đại bằng tiếng phổ thông Trung Quốc, về phương diện ngữ âm còn gần với “Việt” hơn là tên gọi ngày nay của “Việt Nam”, hoặc 南越 “Nam-Việt” trong lịch sử – vốn là nguồn gốc của cái tên “Việt Nam”. (10) Trong việc mô tả các quan điểm về người Việt đã được viết ra từ lâu trước khi có sự xuất hiện của một nước Việt Nam trong lịch sử, tôi không xem xét lịch sử của các ranh giới hiện tại của Việt Nam, hiện nằm xa về phía tây nam của khu vực màchúng ta đang nói đến. Tôi cũng không định giải quyết lịch sử của các dân tộc Việt Nam hiện nay, mà lịch sử cổ xưa của họ có thể không giao thoa trực tiếp với các dân tộc mà chúng ta nói đến ở đây. (11) Tuy nhiên tôi lại hướng đến lịch sử sớm củathuật ngữ Việt và những ám chỉ đã thay đổi của nó, mà thuật ngữ này lại không thể thiếu cho sự hiểu biết về nguồn gốc của các nền văn hóa và các thực tiễn, không nghi ngờ gì nữa, đã tác động ảnh hưởng đến tầng lớp lãnh đạo và xã hội của chính thể Việt Nam sau này.

Trong suốt bài viết này, thứ giọng nói cất lên và mô tả về các dân tộc Việt không phải là tiếng nói của bản thân người Việt. Vì chỉ có rất ít đại diện tự thân của người Việttồn tại trong văn liệu châu Á cổ, nên thực tế tôi cũng không xem xét bản sắc tự thân Việt. (12) Thay vào đó, tôi phân tích cách thức các tác giả trong các khu vực của các nhà nước Trung Quốc đó tự xác định bản sắc của họ trong mối quan hệ với người khác ở phía Nam. (13) Như được mô tả trong các nguồn tư liệu sớm, bản sắc Việt trở nên không có gì đơn giản hơn là sự phóng chiếu của người khác trong mối quan hệ với bản thân mình.

Các quan điểm Khảo cổ học và Ngôn ngữ học về Việt tộc

Vậy thì những tộc người nào gắn liền với thuật ngữ Việt? Trong một số giới khảo cổ học và ngôn ngữ học, các học giả vẫn gộp toàn bộ một khu vực địa lý trong cả thời tiền sử và sơ sử, bằng cách gọi đó là “đại văn hóa” Việt. (14) Họ cho rằng nền văn hóa này trải dài từ sông Dương Tử về phía nam kể cả các vùng ven biển đông nam Trung Quốc và các dân tộc Việt là cư dân ven biển và cư dân nông nghiệp lúa nước.Những đặc điểm nổi bật khác của văn hóa Việt, đôi khi còn được gọi là văn hóa Ngô-Việt (Wu-Yue), bao gồm việc sản xuất đồ gốm văn in hình học, rìu đá có vai, và bôncó nấc. (15)

Các nhà ngôn ngữ học như Jerry Norman, 梅祖麟 Mei Tsu-lin [Mai Tổ Lân], và Edwin Pulleyblank gợi ý về một cơ tầng Nam Á cho các nền văn hóa xuất hiện ở các khu vực này vào thời đại Đá mới và Thời đồ đồng, và thậm chí còn đến cả thời Chiến Quốc (464-221 trước công nguyên). (16) Một số học giả thậm chí còn liên tưởng kết nối ngôn ngữ với phạm trù tộc người mờ mịt hơn. Theo Pulleyblank, thực tế thì cáitên Việt trong các văn bản sớm của Trung Quốc là để chỉ tất cả các tộc người dọc theo bờ biển “là bằng chứng thoạt nhìn thì có một bản sắc dân tộc và ngôn ngữtrong số các cư dân của toàn khu vực, nhưng tất nhiên nó không chứng minh rằngthực tế là như vậy. Đó có thể là một cách dùng sai một cái tên quen thuộc của người Trung Quốc cho những tộc người hoàn toàn không liên quan.” (17) Ở đây, Pulleyblank gắn việc sử dụng cái tên Việt của người Trung Quốc với cả thực tế ngôn ngữ và tộc người, mặc dù theo các bằng chứng mà ông sử dụng, thì thực sự không có căn cứ để người ta có thể khẳng định về điều này. Tuyên bố của Pulleyblank cho chúng ta cái nhìn sâu sắc vào cách thức mà người ta có thể dễ dàng trượt từ cách nghĩ về Việt như là một ám chỉ đến Việt như là một tộc người riêng biệt.

Khả năng các dân tộc đầu tiên của miền Nam nói các thứ tiếng thuộc cùng nhómngôn ngữ có lẽ là lớn hơn nhiều so với khả năng tất cả các nhóm người trong khu vựcnày đều cùng là một tộc người. Mai Tổ Lân và Jerry Norman đã chứng minh một cách khá thuyết phục rằng các tộc người gắn liền với ám chỉ Việt thì “ít nhất một phần là AA (Nam Á).” (18) Họ trích dẫn tài liệu tham khảo các từ đơn lẻ trong tiếngTrung Quốc có nguồn gốc Nam Á, và họ chỉ rõ các từ ấy được liên kết lại theo nhiều cách khác nhau trong các văn liệu được thừa nhận thuộc về phương Nam (nước Sở), cũng như thuộc về tộc “Việt” hay “Nam Việt” (Nan Yue 南越).” Ví dụ nổi tiếng nhất là từ “jiang 江” đã trở thành danh từ riêng chỉ sông Dương Tử, nhưng vẫn có thểđược truy nguyên tới danh từ chung chỉ “sông” trong một số ngôn ngữ Nam Á. (19)

Mai và Norman đưa ra giả thuyết rằng cái tên Nam Á này gia nhập vào vốn từ vựngcủa Trung Quốc từ khu vực sông Hán gặp sông Dương Tử ở miền nam Trung Quốc, qua đó cho thấy một nguồn gốc ngôn ngữ phương nam đã ảnh hưởng đến tiếngTrung Quốc. (20) Họ tiếp tục ủng hộ cho mối liên kết giữa các ngôn ngữ Việt và Nam Á bằng cách chỉ ra những chú giải sớm của các học giả Trung Quốc về sự khác biệtngôn ngữ đặc biệt liên quan đến các tộc người Việt. Ngay từ thời nhà Hán, nhà chú giải nổi tiếng Đặng Huyền 鄧玄 (127-200 năm SCN) đã chứng minh sự khác biệt nàybằng cách làm rõ từ “chết”, ông khẳng định rằng người Việt gọi “chết” là “cha” hoặc“札” [“trat”] (21). Cuốn Từ điển 說文 Thuyết văn thời nhà Hán cũng chỉ ra một ví dụ khác, được kê trong mục từ “獀” sou [sưu] mà “Nam Việt gọi là [nog-siog 獿獀]“con chó” .”(22 ) [說文- 獀:南趙名犬獿獀。从犬叜聲。清代 段玉裁《說文解字注》南越名犬獿獀也。獿獀曡韵字。南越人名犬如是。今江浙尚有此語。从犬。叜聲。所鳩切。[Thuyết văn – sưu: Nam Triệu danh khuyển nao sưu. Tòng khuyển tẩu thanh. Thanh đại Đoàn Ngọc Tài “Thuyết văn Giải tự chú” Nam Việt danh khuyển nao sưu dã. Nao sưu điệp vận tự. Nam Việt nhân danh khuyển như thị. Kim Giang Chiết thượng hữu thử ngữ. Tòng khuyển. Tẩu thanh. Sở cưu thiết. Đại ý: Thuyết văn chú giải từ “sưu”: Nam Việt nhà Triệu gọi chó là “nao sưu”, do chó có thanh tẩu. Đoàn Ngọc Tài nhà Thanh trong “Thuyết văn Giải tự chú” viết: Nam Việt gọi chó là “nao sưu” vậy. Nao sưu là từ điệp vận. Người Nam Việt gọi chó là thế. Ngày nay vùng Giang Chiết cũng vẫn gọi như vậy. Theo đó chó thanh tẩu. Phiên thiết âm “sưu” vậy – HHN dẫn]. Theo Mai và Norman, điều này cho thấy rằng nghĩa “con chó”đã được gắn liền với âm “sou”, là từ thứ hai trong hợp từ này. Do đó họ khẳng địnhrằng những âm sớm để chỉ “chết” và “chó” rõ ràng có thể được gắn liền với nhómngôn ngữ Nam Á. (23)

Nhưng như Heather Peters đã chỉ ra, các nền văn hóa khảo cổ học hay ngôn ngữ họchiện nay không nên bị lẫn lộn với các tộc người: “Các đặc điểm văn hóa chung hoặctương đồng phổ biến không nhất thiết phải chứng tỏ tính tộc người và có thể dễ dàng che giấu một trạng thái thừa mứa các nhóm tộc người và các nền văn hóa khác nhau. Một số đặc điểm trùng lặp có thể chỉ đơn giản thể hiện một phản ứng sinh tháiđối với một môi trường chung.” (24) Vì vậy khái niệm “Việt” mà các nhà khảo cổ họcvà ngôn ngữ học thường đề cập đến, không nên bị lẫn lộn với “Việt tộc” lịch sử, vốncó thể hoặc không thể là một tộc người duy nhất. Trong phần thảo luận sau đây, tôiphác thảo vắn tắt một số định nghĩa cơ bản về tộc người, bằng cách nhấn mạnh mộtđịnh nghĩa tỏ ra là hữu ích nhất cho việc nghiên cứu tiếp theo. Khi chấp nhận một định nghĩa về tộc người, tôi yêu cầu chúng ta xem lại cách hiểu của mình về tộc người ở nam Trung Quốc sao cho chúng ta không đánh đồng bằng chứng khảo cổ học hoặc thậm chí ngôn ngữ học với bằng chứng xác thực về tộc người chung.

________________________________________

Nguồn: Erica Brindley . Barbarians or Not? Ethnicity and Changing Conceptions of the Ancient Yue (Viet) Peoples, ca. 400–50 BC.

Tác giả: Erica Brindley, Phó Giáo sư và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu sau đại học về Châu Á học, là một nhà sử học chuyên về trí tuệ và văn hóa Trung Quốc (500 TCN đến 200 AD). Sở thích của cô bao gồm các tác phẩm triết học và tôn giáo, chuẩn mực văn hóa, và nền văn hóa chính trị đã được sinh ra và phát triển mạnh mẽ trong thời gian này. Cô cũng quan tâm đến lịch sử bản sắc và các mối tương tác liên văn hóagiữa các nền văn hóa trong khu vực ảnh hưởng văn hóa Hán ở miền Bắc và các nước láng giềng phía nam của họ dọc theo bờ biển Đông Á. Gần đây cô bắt đầu nghiên cứu Việt tộc trong lịch sử sớm của vùng biên giới phía nam Trung Quốc. Cô tham gianghiên cứu lịch sử sớm của Việt Nam cũng như các khu vực Quảng Đông và Phúc Kiến ở miền nam Trung Quốc hiện đại.

Ghi chú

  1. Sự tập trung một cách nhất quán vàobiên giới phía bắcvà tây bắckhông có gì phải ngạc nhiên, do xung độtvà căng thẳng thường xuyên giữaTrung Quốc vàcác láng giềngdu mụcthảo nguyên, ví dụ, các nhóm như蠻夷戎狄 [Man Di NhungĐịch] Hung Nô 匈奴 Hung Nô, Tabgatch 拓拔 Thác Bạt, 鮮卑 Tiên Ti, 女真 Jurchen – Nữ Chân, Mông Cổ, và Mãn Châu, những tộc người đã liên tục có vai trò trong việc hình thành, hướng dẫn, tạo lập, hoặc thậm chí kiểm soát các chính sách và hành động của các nhà nước khác nhau của Trung Quốc. Một vài ví dụ đại diện cho ta một bức tranh đầy đủ về tầm quan trọng học thuật này. Joseph Fletcher, OwenLattimore, Pamela Crossley, Mark Elliott, James Millward, Laura Hostetler, JonathanLipman, và Dru Gladney đã thực các công trình nghiên cứu mở rộng về các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nội Á, Trung Quốc – Mãn Châu, và / hoặc Trung Quốc – Hồi giáo từ nhà Thanh đến thời hiện đại. Cụ thể hơn, đối với các mối quan hệ tộc ngườivà / hoặc quan hệ đối ngoại ở Trung Quốc trước nhà Thanh, các học giả như 王赓武Vương Canh Vũ và Morris Rossabi xử lý vấn đề biên giới phía bắc bằng việc phân tíchcác mối quan hệ của Khitans, Jurchens, và Mông Cổ với người “Hán” thuộc các triều đại Tống và Nguyên; xem Vương, The Structure of Power in North China during the Five Dynasties (Stanford: Stanford U.P., 1967), Rossabi, The Jur chens in the Yüan and Ming (Ithaca: Cornell U. East Asia Papers, 1982), and Rossabi, ed., China among Equals: The Middle Kingdom and Its Neighbors, 10th-14th Centuries (Berkeley: U. of California P., 1983). Nhiều học giả từ các ngành nghiên cứu về Lịch sử nghệ thuật và Tôn giáo Lục triều đã tập trung vào vấn đề về các mối quan hệ tộc người Trung Quốcvới các lãnh chúa và các nhà lãnh đạo Trung Á trong viễn cảnh lịch sử. Đối với đế chếTrung Quốc, Nicola di Cosmo và Marc Abramson tập trung chủ yếu vào khu vực biên giới phía bắc và phía tây cũng như tập trung vào các khác biệt giữa các tộc người và các nhóm du mục Trung và Bắc Á. Cuốn sách gần đây của Di Cosmo về các mối quan hệ trước Hán và Hán với các nền văn hóa “thảo nguyên” thực hành du canh du cư đã đem đến một điểm khởi đầu quan trọng để hiểu lịch sử sớm của vùng biên giới phía bắc Trung Quốc: Ancient China and Its Enemies: The Rise of Nomadic Power in East Asian History (Cambridge: Cambridge U.P., 2002); và Abramson, “Deep Eyes and High Noses: Constructing Ethnicity in Tang China (618–907),” Ph.D. diss. (Princeton U., 2001). Xem them công trình của 王明珂 Vương Minh Kha về các tộc Mãn Thanh trước Hán, chẳng hạn “The Ch’iang (Qiang) of Ancient China through the Han Dynasty: Ecological Frontiers and Ethnic Boundaries,” Ph.D. diss. (Harvard University, 1992). Cũng không có gì đáng ngạc nhiên là nhiều công trình về tộc người lại rơi vàothời kỳ đương đại và hiện đại, kể từ khi các nhà nhân học văn hóa thường tham gia vào các chủ đề như vậy nhằm nghiên cứu nền các văn hóa và các đối tượng hiện tồn.Các công trình nhân học về Trung Quốc cũng có một cấu phần không gian, và nó thường bao gồm các biên giới phía tây nam, gần Tây Tạng, Miến Điện và Việt Nam.Xem các tác phẩm tiêu biểu của Joseph Rock, Sow-Theng Leong, Stevan Harrell, vàRalph Litzinger; Harrell, ed., Perspectives on the Yi of Southwest China (Berkeley: U. of California P., 2001), Harrell, ed., Cultural Encounters on China’s Ethnic Frontiers (Seattle: U. of Washington P., 1996), and Leong, Migration and Ethnicity in Chinese History: Hakkas, Pengmin, and Their Neighbors (Stanford: Stanford U.P., 1997).
  2. Một số công trình về lịch sử sớm Nam Trung Quốc bao gồm các tác phẩm củaKeith Taylor, The Birth of Việt Nam (Berkeley: U. California P., 1983), cũng như RaoZongyi 繞宗頣 Nhiễu Tông Di, Vương Minh Kha, Wolfram Eberhard, LeonardArrousseau, Richard Holcombe, và CP FitzGerald. Đối với nước Sở và vị trí của nótrong bối cảnh Xuân thu Chiến quốc, xem Constance Cook and John Major, eds., Defining Chu: Image and Reality in Ancient China (Honolulu: U. Hawaii P., 1999). For an account of later Chinese frameworks for civilizing measures on its southern frontiers, see Magnus Fiskesjo, “On the Raw and the Cooked: Barbarians of Imperial China,” Inner Asia 1.2 (1999), pp. 139–68.
  3. Chắc chắn, nền tảng học vấn của cá nhân mỗi tác giả cũng sẽ giúp xác định cách thức tiếp cận của họ đối với thuật ngữ “Việt”. Tuy nhiên trong nhiều ví dụ về “Việt”từ thời kỳ này, chúng ta thường phải đối mặt với sự thiếu khuyết thông tin tiểu sử hoặc ngữ cảnh về tác giả. Điều này cản trở nghiêm trọng khả năng của chúng tatrong việc xác định nguyên nhân sâu xa của từng loại phương pháp tiếp cận để nhận dạng, cũng như khả năng của chúng ta trong việc so sánh các thay đổi quan niệm vềtộc người theo một cung cách lịch sử nhất định.
  4. Tất nhiên, chúng tôikhông nói rằngkhái niệm xuyên-văn hóa, dân tộc, chính trị vàbản sắc “Trung Quốc” không tồn tạivào thời điểm đó. Các tài liệu tham về các bản sắc như vậy rấtphong phú, nhưng chúng cũng đã thay đổi liên tục, và ranh giớigắn liền vớimỗi bản sắc luônthay đổi liên tục. Trong thời kỳChiến Quốc, ví dụ các khái niệm“Hoa”, “Hạ”, “Hoa Hạ” hoặc “Chư Hạ”chắc chắn sẽ có các tài liệu tham khảoliên quan tựxác định,nhưngkhông phải là “Trung Quốc”, hoặc thậm chí “Hán”. Vấn đề còn không rõ ràngkhi “Hán” bắt đầu được sử dụng như mộtnhãntộc người, mặc dù trong thời nhà Nguyên nóđã được sử dụngnhư vậy, bổ sung cho các thuật ngữ tộc người cũ và các địa danhgắn kết chặt chẽ với chúng, bao gồm cả “Trung Nguyên”và “Trung Quốc”.

Các dấu hiệu chính trị và thời gian của bản sắc đã định danh cho dân tộc theo triều đại mà họ sống trong đó. Trong thời Hán, thuật ngữ “Hán” được sử dụng bởi người ngoài như Hung Nô để chỉ dân tộc thuộc triều đại đó. Các từ về bản sắc dựa trên cơ sở triều đại khác bao gồm “Đường”, “Tống”, “Nguyên”, “Minh” và “Đại Thanh”. Rất thú vị là một số định danh triều đại đã được chọn bởi những người ở Trung Quốc và các nơi khác để chỉ “Trung Quốc” như một dân tộc (ví dụ, “Hán” như là một cái nhãn được sử dụng ở Trung Quốc và Nhật Bản, cũng như “Đường” khi được sử dụng tại Nhật Bản). Xem Endymion Wilkinson’s Chinese History: A Manual (Cambridge: Harvard University Asia Center, 1998), pp. 96–97, 682–88, 694–704, 722–25.

  1. LydiaLiu, The Clashof Empires: The Invention of China in Modern World Making (Cambridge: Harvard U.P., 2004), pp. 75–81. Liucho thấy cách thức mà siêudấuhiệu, Trung Quốc,đã được chấp nhận như là mộthình thức về bản sắc tự thân duy nhấttrong thời hiện đại. Vì thuật ngữ “Trung Quốc” bắt nguồn từ các từ tiếng Phạnhoặc tiếng Ba Tư: Cina, Chini, đó là một địa danh được sử dụng bởinhững người khácvà do đókhông phải là mộtphần củamột tiết mụcTrung Quốcbản địatự xác định.Việc tôi sử dụngthuật ngữ “China” và “Chinese” trong bài viết nàychỉ đơn thuần làmột cách viết tắtthuận tiện, các ám chỉ emic – người trong cuộcvàngôn ngữ địa phươngthực tế vềbản sắclàchủ đềcủa các luận chiếnlý thuyếtnói chung,và cần phải thảo luận nhiều. NhưCharlesHolcombe xác định: “Các xu hướngdựphóng các bản sắcdân tộc-quốc gia hiện đại vàoquá khứ xa xưavà cho rằngbằng cách nào đó chúng vĩnh cửuvàkhông thay đổi,tuy nhiêncó thể hiểu được, là mộtsai lầm (nguy hiểm)”; Holcombe, “Early Imperial China’s Deep South: The Viet Regions through Tang Times,” T’ang Studies 15–16 (1997–1998), p. 133.
  2. Tư Mã Thiên đã viết ra mộtdòngđơn giảncho dân tộcHoa Hạ là truy nguyên trở lại thời Tam hoàng, Ngũ đế, sau đó đến cáctriều đạiHạ, Thương, và Chu; Sima Qian, Shi ji (Beijing: Zhonghua shuju, 1992; hereafter S J ) 1–5, pp. 1–171.
  3. Thần thoại về tính liên tục và đồng nhất của người Hán giả định một khái niệm về văn hóa “Trung Quốc”, hoặc “Hán”, bao gồm toàn bộ vùng địa lý rộng lớn tương ứng với ranh giới của các triều đại hoàng đế sau này, và đặc biệt là đế chế nhà Thanh.
  4. See Cook and Major, Defining Chu. See also Rafe de Crespigny, Generals of the South: The Foundation and Early History of the Three Kingdoms State of Wu, Asian Studies Monographs, ns 16 (Canberra: The Australian National University, 1990).
  5. See Liu, Clash of Empires, p. 80.

10 C. Michele Thompson, Scripts, Signs and Swords: The Viet Peoples and the Origins of Nom,” Sino-Platonic Papers 101(March, 2000), p. 17; ở những chỗ kháctác giả trích dẫn luận án Jeffrey Barlow viết rằng Việt được xác định bởi sự kết hợpvới một chiếc rìu chiến lớn rìu (鉞 việt), dùng làm từ cùng gốc cho Việt (ibid., p. 22).Rao Zongyi 繞宗頣 Nhiễu Tông Di, trích dẫn Da Dai Li Ji 大戴禮記 Đại Đái Lễ kí, cho thấy rằng thuật ngữ “Việt” ngược lại, có thể là một từ vay mượn thay cho từ thích 戚[thân thích]; 繞宗頣, 吳越文化 (Nhiễu Tông Di – Ngô Việt Văn hóa), ZYYY 41,4(1969), n. 2, p. 628. “Yuenan” hay Việt Nam, lần đầu tiên được các nhà cai trị Mãn Châu của nhà Thanh ban cho như một tên gọi dân tộc Việt Nam vào năm 1802;Holcombe, “Early Imperial China’s Deep South,” p. 133.

  1. Xem Keith Taylor bác bỏ lý thuyết di cư của Leonard Aurousseau của các dân tộcViệt. Như Taylor ghi nhận, cư dân Việt Nam hiện nay nhiều khả năng bắt nguồn từcác khu vực xung quanh Việt Nam hiện tại hơn là từ các vùng Việt xưa ở nam Trung Quốc. Trong khi các giai cấp thống trị Việt di chuyển về phía nam vào Việt Nam theothời gian, thì thật phi lý khi khẳng định rằng phần lớn dân số hiện nay của Việt Namdi cư cùng với họ; Taylor, Birth of Vietnam, pp. 314–15. Xem thêm nhận xét của Mark Lewis về tính bất động của những người nông dân, trái ngược với tầng lớp thượng lưu trong “Warring States: Political History,” trong Michael Loewe and Edward Shaughnessy, eds., Cambridge History of Ancient China: From the Origins of Civilization to 221 B.C. (Cambridge: Cambridge U. P., 1999), p. 649.
  2. Việc ghi lại tài liệu sớm như vậy về tiếng nói Việt xuất hiện trong một bài hát Việtcổ xưa, phiên âm trong 說苑 Thuyết uyển của 劉向 Lưu Hướng. Vì không có hình thức bằng văn bản của ngôn ngữ đang được đề cập, tác giả người Hán cung cấp cho người đọc một bản phiên âm của lời bài hát Việt, cùng với một bản dịch tiếng Háncủa nó. Những mảnh còn lại của giọng nói Việt có thể được tìm thấy trong Sử ký,trong các đoạn trích dẫn của những con người xuất sắc và học vấn cao từ các chínhthể Việt khác nhau; họ cũng rất giỏi về văn hóa và các chuẩn mực Trung Quốc và cho là có mối quan hệ có vấn đề với người dân bản địa nơi họ cai trị. Trong trường hợplời bài Việt nhân ca, bản dịch Hán ngữ của Lưu Hướng “có chút ít dấu hiệu cho thấyâm tiết được phiên âm tương ứng với âm tiết của từ Hán”, khiến cho rất khó xác định nhóm ngôn ngữ ấy là gì; Tsu-lin Mei and Jerry Norman, “The Austroasiatics in Ancient South China: Some Lexical Evidence,” MS 32(1976), p. 277.

今夕何夕兮搴舟中流

今日何日兮得與王子同舟

蒙羞被好兮不訾詬恥

心兒頑而不絕兮得知王子

山有木兮木有枝

kim tịch hà tịch hề khiên chu trung lưu

kim nhật hà nhật hề đắc dữ vương tử đồng chu

mông tu bị hảo hề bất tí cấu sỉ

tâm nhi ngoan nhi bất tuyệt hề đắc tri vương tử

san hữu mộc hề mộc hữu chi

Chẳng biết hôm nay lễ lạt gì,

Việt nhân tôi lướt sóng chu du cùng Vương Tử

Phận thấp hèn, tôi nào đâu mơ ước

Tiếp Vương gia, tâm can tôi vui sướng vô ngần

Núi có rừng và cây kia có nhánh

Vương Tử người có thấu nỗi lòng tôi!

[dẫn theo Lâm Hà 1985: 106; 1995: 72] Nguyễn Ngọc Thơ, Việt nhân ca – bài ca người Việt cổ, http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/ Wednesday, 22 September 2010 [HHN dẫn].

Như vậy, mặc dù bài hát Việt của Thuyết uyển gợi ý về một quan điểm cho rằng nócó nguồn gốc Việt, thì đó vẫn là thông qua bộ lọc ngôn ngữ Trung Quốc để chúng ta tiếp xúc với nó. Hơn nữa, việc thể hiện bài hát bằng giọng Việt vẫn không tự nó loại trừ khả năng là phong cách và nội dung của bài hát đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởicác hình thức trữ tình hoặc các mô hình thi ca nhà Chu. Để có được một nghiên cứungôn ngữ ngắn gọn và bản dịch của bài hát này (sang tiếng Nhật), xem IzuiHisanosuke 泉井久之助 “Ryū Eko Setsu En kan daiichi không Etsuka ni tsuite” 泉井久之助<刘向<说苑>卷十一越歌 Tuyền Tỉnh Cửu Chi Trợ <Lưu Hướng – Thuyết uyển> Quyển thập nhất – Việt ca> Gengo Kenkyū 22/23 (1953), tr. 41-5.

  1. Danh pháp “Trung Quốc”, như được sử dụng trong thời Chiến Quốc, để chỉ một cách mơ hồ cho các quốc gia thuộc các khu vực xung quanh trung tâm nhà Chu ở lưu vực sông Vị và lưu vực sông Hoàng Hà. Sử dụng chung cái danh pháp đó cũng cho thấy rằng các nhà nước này là các thành viên chính thức của vũ trụ chính trị nhà Chu. Danh pháp này không bao gồm các quốc gia xen kẽ trong cùng khu vực địa lý thuộc các tộc người Nhung, Di, và nhiều tộc người khác.
  2. Heather Peters, “Tattooed Faces and Stilt Houses: Who Were the Ancient Yue?” SinoPlatonic Papers 17(April 1990), p. 7.
  3. Peters, “Tattooed Faces,” p. 3. See also Rao, “Wu Yue wenhua,” p. 610; and William Meacham, “Origins and Development of the Yue Coastal Neolithic: A Microcosm of Culture Change on the Mainland of East Asia,” in David Keightley, ed., The Origins of Chinese Civilization (Berkeley: U. California P., 1983), pp. 147–76.
  4. Mei and Norman, “Austroasiatics in Ancient South China,” pp. 274–301. See also E. G. Pulleyblank, “The Chinese and Their Neighbors in Prehistoric and Early Historic Times,” in Keightley, The Origins of Chinese Civilization, pp. 411–66.
  5. Pulleyblank, “Chinese and Their Neighbors,” p. 438.
  6. Mei and Norman, “Austroasiatics in Ancient South China,” p. 276.
  7. Ibid., pp. 280–83.
  8. Ibid., p. 282.
  9. Ibid., p. 277.
  10. Ibid., pp. 277–79. Như trên. Từ Trung Quốc cho hổ (虎); răng lớn (ya: 牙); nỏ (nu 弩); và từ cổ xưathời Chu chỉ bay, hoặc một loại muỗi (wei), là những từ có nguồn gốc từ một nhóm ngôn ngữ như vậy, mặc dù không có bằng chứng về mối liên hệ giữa các thuật ngữ này và người Việt; Mei và Norman, “Austroasiatics in Ancient South China,” pp. 284–94., pp. 284-94. Một khẳng định hơi khác của Stephen O’Harrow, cho rằng tiếng Việtcổ có thành ngôn ngữ chung của các nền văn hóa trải từ miền Bắc Việt Nam đếnnam Trung Quốc trong thời đại đồ đồng; O’Harrow, “Men of Hu, Men of Han, Men of the Hundred Man: The Biography of Si Nhiep and the Conceptualization of Early Vietnamese Society,” BEFEO 75(1986), pp. 249–66.