Kinh tế cuối năm 2023

Kinh tế cuối năm 2023
Ảnh minh họa. (Ảnh: Vietnam+)

Trong báo cáo kinh tế mới nhất về Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered dự báo nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phục hồi trong tháng Tám khi quá trình phục hồi kinh tế đã cho thấy những tín hiệu lan tỏa.

Ngân hàng duy trì dự báo tăng trường GDP của Việt Nam sẽ đạt 10,8% trong quý 3/2022 và 3,9% trong quý 4/2022, đưa tăng trưởng GDP cả năm đạt 6,7%.

Ông Tim Leelahaphan, chuyên gia kinh tế phụ trách Thái Lan và Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered chia sẻ: “Sự phục hồi dự kiến sẽ diễn ra mạnh mẽ trong nửa cuối năm, nhất là khi Việt Nam đã mở cửa du lịch trở lại sau 2 năm đóng cửa. Tuy nhiên, giá dầu thế giới gia tăng cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế.”

[HSBC: Kinh tế Việt Nam thành công dù bức tranh bên ngoài kém sáng]

Theo Ngân hàng Standard Chartered, tăng trưởng doanh số bán lẻ dự kiến tăng 60,2% so với cùng kỳ trong tháng Tám so với mức 42,6% trong tháng Bảy. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và nhập khẩu dự kiến sẽ tăng lần lượt 15,2%, 15% và 15,2% so với mức 8,9%, 3,4% và 11,2% trong tháng Bảy. Việt Nam có thể sẽ ghi nhận mức thâm hụt thương mại 1,4 tỷ USD trong tháng Tám. Hàng điện tử tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất.   

Theo các chuyên gia của Standard Chartered, lạm phát tháng Tám đạt 3% so với cùng kỳ so với mức 3,2% trong tháng Bảy. Lạm phát hiện vẫn trong tầm kiểm soát. Áp lực giá cả sẽ gia tăng trong nửa cuối năm 2022 và năm 2023. Bên cạnh các yếu tố nguồn cung, áp lực từ phía nguồn cầu cũng đang mạnh lên.

Ngân hàng Standard Chartered kỳ vọng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục cảnh giác với các rủi ro về bất ổn tài chính. Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, Ngân hàng Nhà nước dự kiến sẽ giữ nguyên hạn mức tăng trưởng tín dụng 14% trong năm nay mặc dù có những ý kiến cho rằng cần nới room tín dụng để giảm tắc nghẽn nguồn vốn vào thị trường bất động sản. 

Các ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro lớn hơn về thanh khoản khi tín dụng vào lĩnh vực bất động sản chiếm tỷ trọng lớn, tới 94% dư nợ tín dụng bất động sản có thời gian vay vốn từ 10 đến 25 năm, trong khi đó 80% nguồn vốn huy động của các ngân hàng là ngắn hạn.

Theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng từ đầu năm đến nay đạt 9,4% so với cuối năm 2021 và trong nửa đầu năm tăng 16,7% so với cùng kỳ. Dư nợ bất động sản chiếm 1/5 tổng tín dụng toàn hệ thống.

Cùng với Standard Chartered, các chuyên gia HSBC cũng đánh giá bất chấp bức tranh bên ngoài kém tươi sáng, nền kinh tế trong nước tiếp tục gặt hái thành công nhất định. Dệt may và da giày được đánh giá là tăng trưởng mạnh, đạt 30% so với cùng kỳ năm 2020, một phần do hiệu ứng cơ sở thuận lợi. Do Thành phố Hồ Chí Minh và các khu vực lân cận phải trải qua giai đoạn giãn cách nghiêm ngặt trong quý 3/2021, hiệu ứng cơ sở có thể sẽ kéo dài qua hết quý 3/2022.

Bên cạnh đó, cũng theo HSBC, tăng trưởng doanh thu bán lẻ ghi nhận mức cao kỷ lục hơn 55% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặc dù một phần do hiệu ứng cơ sở thuận lợi, đà tiêu thụ tiếp tục tăng mạnh đối với cả hàng hóa và dịch vụ. Đặc biệt, doanh số các ngành liên quan đến du lịch rất đáng lưu ý, chứng kiến mức tăng trưởng hai con số bốn tháng liên tiếp.

Việt Nam đã thu hút hơn 350.000 khách du lịch quốc tế, gấp ba lần so với mức trung bình hàng tháng trong nửa đầu năm 2022, đưa tổng lượt khách đến Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại lên 1 triệu khách.

Trong số đó, khách du lịch đến từ Hàn Quốc (25%), châu Âu (13%) và Mỹ (10%) chiếm gần một nửa tổng số du khách. Tiếp theo là khách du lịch đến từ các nước ASEAN với sự quan tâm ngày càng gia tăng. Tổng cục Du lịch Việt Nam phấn đấu đạt mục tiêu 5 triệu khách du lịch cho năm nay.

Hiện Việt Nam đang cấp 6.000 visa mỗi ngày cho khách du lịch Ấn Độ, cao hơn nhiều so với con số 250 trước đại dịch. Tuy nhiên, nguồn cung lao động đang thiếu hụt nên vẫn chưa đáp ứng nhu cầu, đặc biệt ở tại một số địa điểm du lịch nổi tiếng./.

Kinh tế cuối năm 2023
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Trần Quốc Phương. (Ảnh: Vietnam+)

Kinh tế Việt Nam 2022 đang tiếp tục phục hồi với những triển vọng tươi sáng nhưng những rủi ro thách thức mới cũng xuất hiện.

Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, bên cạnh những dự báo lạc quan, cần nhìn nhận một thực tế là nền kinh tế khó khăn ngày càng lớn khi đại dịch COVID-19 chưa kết thúc trong bối cảnh bức tranh kinh tế - chính trị quốc tế có những biến động.

Tiềm ẩn nhiều rủi ro

Năm 2020-2021 dù ảnh hưởng nặng bởi dịch COVID-19 nhưng GDP của nền kinh tế trong giai đoạn này vẫn duy trì tăng trưởng dương chủ yếu nhờ tăng trưởng xuất nhập khẩu và đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Thực tế, một số ngành hồi phục mạnh sau dịch như: bán lẻ, hàng cá nhân, dược phẩm… do cầu nội địa phục hồi tốt; trong đó ngành dịch vụ ăn uống và lưu trú được kỳ vọng sẽ trở lại “bình thường mới” nhờ sự phục hồi của ngành du lịch, tăng trưởng lượng khách du lịch quốc tế.

Ngành xây dựng kỳ vọng vào đầu tư công, FDI và bất động sản. Một số ngành có sự phục hồi tốt đạt gần tiệm cận với tốc độ trước dịch là vận tải, kho bãi, lâm nghiệp… và logistics sẽ là điểm sáng, triển vọng tăng trưởng cao trong những năm tới.

Số lượng hàng hoá thông quan qua các cảng biển Việt nam dự kiến sẽ tăng trưởng từ 12-15% trong vòng 2-3 năm tới do sự phục hồi của hoạt động sản xuất trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu.

Thứ trưởng Trần Quốc Phương nhận định, mặc dù, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng nhìn chung nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi, một số tổ chức quốc tế dự báo lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam.

Chẳng hạn, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi ở mức 6,5% năm 2022 và đạt 6,7% năm 2023.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 xuống mức 3,6%, nhưng tin rằng, tại Việt Nam, tiến trình phục hồi kinh tế sẽ mạnh lên từ việc thực thi Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.

Theo đó, ông Francois Painchaud, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam cho rằng, GDP Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 6% trong năm 2022 và 7,2% trong năm 2023…

Dù vậy, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho rằng, môi trường kinh doanh ngày càng xuất hiện những thách thức mới, khó lường. Kinh tế Mỹ đang cho thấy những dấu hiệu chững lại, lạm phát tăng cao, khả năng thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ cao trong khi sức mua bị giảm thấp.

Và một trong những rủi ro lớn nhất của nền kinh tế trong năm 2022 chính là lạm phát. Các dự báo của các tổ chức trong nước, quốc tế, cũng như các chuyên gia kinh tế cho rằng, lạm phát năm nay sẽ tiệm cận ngưỡng 4% mà Chính phủ đặt ra, chứ không thể ở mức thấp như những năm vừa qua.

Ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, với độ trễ của gói phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, đặt trong bối cảnh giá cả hàng hóa thế giới đang tăng cao, lạm phát của Việt Nam năm nay sẽ khoảng 4-4,5%. Con số này trong năm 2023 được ông Lâm dự báo ở mức 5-5,5%.

Cùng với đó, kinh tế châu Âu đang đối mặt với nguy cơ suy thoái khi giá dầu và kim loại tăng cao do ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga-Ukraine. Kinh tế Trung Quốc đứng trước rủi ro tăng trưởng chậm lại.

Lạm phát đang gia tăng tại nhiều nơi trên thế giới do giá năng lượng, lương thực trên toàn cầu tăng mạnh đã tạo tác động dây chuyền đến giá cả các hàng hoá dịch vụ khác…

Kích hoạt để hồi phục mạnh hơn nữa

Tính đến thời điểm này, triển vọng tăng trưởng trong năm 2022 của hầu hết các ngành chính được dự báo tích cực. Tuy nhiên, một số ngành có sự hồi phục rất chậm, như hàng không và du lịch quốc tế; xây dựng và vật liệu, cần phải được kích hoạt để hồi phục mạnh hơn nữa, nhằm góp sức tăng trưởng kinh tế cao hơn, nhất là trong bối cảnh môi trường lãi suất đã “tạo đáy” và lạm phát có thể gia tăng vượt kỳ vọng.

Với phương pháp tiếp cận chủ yếu dựa trên dữ liệu (data-driven), ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup nhận định, các nhóm ngành đang hồi phục, nhưng hầu hết chưa về mức độ tăng trưởng trước khi COVID-19 diễn ra.

[Việt Nam nằm trong số các nước được dự báo tăng trưởng cao nhất]

Nhấn mạnh các yếu tố cơ bản của nền kinh tế vẫn được duy trì vững chắc, ông Nguyễn Quang Thuân nhận xét các yếu tố này tạo ra một thị trường tiêu thụ nội địa lớn và hấp dẫn.

Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn khi đã tham gia 15 Hiệp định Thương mại tự do, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng trưởng liên tục trên 12% trong 10 năm trở lại đây, dòng vốn FDI tiếp tục chảy mạnh vào, đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất lớn trong khu vực.

Kinh tế cuối năm 2023
Cảng Hải Phòng. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)

Từ góc nhìn của quốc tế, ông Francois Painchaud cho rằng, Việt Nam đã duy trì thành công sự ổn định về tài khóa, cán cân đối ngoại và ổn định tài chính. Các chính sách kinh tế vĩ mô đã giúp giảm bớt tác động của dịch COVID-19, đặc biệt, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ được thực hiện một cách thích hợp và kịp thời để hỗ trợ phục hồi tăng trưởng chung. Tuy nhiên, sự phục hồi diễn ra không đồng đều và đang có một số rủi ro đối với triển vọng tăng trưởng.

Tuy nhiên, theo ông Francois Painchaud, rủi ro đối với tăng trưởng nghiêng về tăng trưởng chậm lại trong khi rủi ro về lạm phát nghiêng về gia tăng lạm phát. Bên cạnh đó là các rủi ro khác như: việc thắt chặt các điều kiện tài chính toàn cầu, diễn biến trên thị trường bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp trong nước…

Ông Francois Painchaud cũng lưu ý chính sách tài khóa nên đi đầu trong việc hỗ trợ chính sách, đặc biệt nếu rủi ro suy giảm tăng trưởng trở thành hiện thực.

Còn ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, trong bối cảnh mới, để thực hiện thành công Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã  hội, nhất thiết phải đáp ứng được 3 yêu cầu chính.

Đó là phải khẩn trương, kịp thời hiện thực hóa các hỗ trợ đến tay người dân và doanh nghiệp. Tiếp đến là tăng khả năng hấp thụ, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực. Và việc công khai, minh bạch vừa là giải pháp vừa là yêu cầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả và hoàn thành mục tiêu chương trình.

“Để Chương trình thực sự là ‘phao cứu sinh’ giúp phục hồi và vực dậy nền kinh tế, đòi hỏi nỗ lực của tất cả các bên, từ Nhà nước đến người dân và doanh nghiệp. Bản thân mỗi doanh nghiệp trước hết tự thay đổi để thích ứng với thay đổi trong bối cảnh mới

Doanh nghiệp cần năng động, chủ động, sáng tạo hơn, quản trị tốt hơn để thích ứng tốt hơn với xu hướng kinh doanh mới, thói quen tiêu dùng mới và công nghệ mới,” ông Hiếu nhấn mạnh.

Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho rằng, công tác dự báo về triển vọng kinh tế vĩ mô cũng như kinh tế ngành cần được cập nhật dựa trên những phân tích khoa học, chuyên sâu và đa chiều.

Đây là những nỗ lực rất cần thiết, nhằm góp sức cho hoạch định chính sách cũng như hoạt động của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, để cùng hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước như các Nghị quyết của Chính phủ đã đề ra./.