Khí mục tiêu thay đổi hình dạng vũ khí công nghệ cao có tiêu diệt được không

Phát triển khoa học quân sự chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới

Cập nhật ngày: 11-07-2017

Nền quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng của dân, do dân và vì dân, đó là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ, được xây dựng toàn diện cả tiềm lực vật chất và con người. Thế trận quốc phòng toàn dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, do nhân dân làm chủ. Đó là nền quốc phòng phát huy được cao nhất các giá trị truyền thống, cốt cách văn hóa Việt Nam, sức mạnh mọi mặt của Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và sức mạnh thời đại.

Cùng với nền an ninh nhân dân giữ cho đất nước ổn định và phát triển, kịp thời phát hiện và triệt tiêu các nguy cơ từ bên trong có thể gây đột biến. Đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch nước ngoài theo quan điểm giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng phương pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. Nền quốc phòng toàn dân không ngừng hiện đại với sức mạnh quân sự nhà nước ngày càng lớn mạnh, sức mạnh quân đội là nòng cốt, đủ sức răn đe và đánh thắng ngay từ thời bình.  Như vậy, chỉ có xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân vững chắc từ thời bình mới có điều kiện ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, kể cả chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.  Trong trường hợp bắt buộc phải chiến tranh để tự vệ, chúng ta vẫn tiến hành theo đường lối chiến tranh nhân dân. Đó là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, dựa trên sức mạnh của cả đất nước để đánh giặc, toàn dân là binh, đánh giặc với các loại vũ khí đa dạng: đơn giản, thô sơ, hiện đại. Tác chiến với các cách đánh rất linh hoạt: du kích, chính quy, quy mô nhỏ, vừa, lớn, rộng khắp, đánh bên sườn, đánh phía sau, đánh sâu, đánh hiểm... với nhiều hình thức, phương pháp thích hợp.  Chiến tranh như thế hoàn toàn có thể chế ngự được ưu thế của vũ khí công nghệ cao nhưng nó chỉ phát huy được hiệu quả dựa trên nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được xây dựng vững chắc và không ngừng hiện đại từ thời bình.  Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc là sự chuẩn bị tốt nhất về lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiềm lực và thế trận cho chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc nếu xảy ra, đảm bảo điều kiện để đánh thắng trong điều kiện chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao.  Đặc tính cơ bản của chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao là tính chính xác cao nhưng nhiều loại vũ khí công nghệ cao hoạt động theo quy luật nhất định, dựa vào nhận dạng địa hình, mục tiêu... Bằng tác chiến của chiến tranh nhân dân, chúng ta làm thay đổi quy luật, biến dạng địa hình, di chuyển, dịch chuyển, làm mục tiêu giả, tổ chức hệ thống phòng không nhân dân rộng khắp, có thể hạn chế được hiệu quả của vũ khí công nghệ cao, tiêu diệt được các loại máy bay và tên lửa hành trình của địch. Giả sử địch có tác chiến điện tử mạnh, ta vẫn có thể áp chế điện tử được hiệu quả trinh sát của chúng. Nếu chỉ huy, hiệp đồng bị gián đoạn, ta vẫn có thể tiến hành chiến tranh nhân dân để chiến đấu. Vũ khí công nghệ cao uy lực mạnh nhưng chắc chắn kẻ địch không thể tiến công, phá hủy, xâm chiếm tất cả mọi mục tiêu. Hơn nữa, với nền quốc phòng hiện đại, chúng ta hoàn toàn có thể tiêu diệt được bộ phận lực lượng và phương tiện công nghệ cao của địch (năm 1972, ta từng bắn hạ nhiều máy bay B52 của địch, là loại máy bay hiện đại khi đó).  Coi trọng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân nhưng không có nghĩa chúng ta chỉ dựa vào yếu tố truyền thống, vũ khí, phương tiện thô sơ. Trong điều kiện có thể, chúng ta vẫn có thể trang bị, mua sắm những phương tiện, vũ khí cần thiết, có tính hiện đại, đảm bảo tính tự vệ, phòng ngừa từ xa; có thể trang bị vũ khí công nghệ cao để áp chế, chống lại vũ khí công nghệ cao của đối phương.  Nhưng điều quan trọng hơn, bằng thế trận chiến tranh nhân dân, chúng ta có điều kiện để bảo toàn lực lượng, tồn tại và tiếp tục tiến công sau các đòn tiến công hỏa lực mạnh bằng vũ khí công nghệ cao của địch. Chưa kể, nếu chỉ tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao thì chưa thể khuất phục được ý chí chiến đấu của ta, còn khi kẻ địch tiến công trên bộ thì đó là lúc chiến tranh nhân dân phát huy hiệu quả cao nhất.  Với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, nếu buộc phải tiến hành chiến tranh để tự vệ, bảo vệ Tổ quốc thì đường lối duy nhất, căn bản nhất vẫn là tiến hành chiến tranh nhân dân. Một cuộc chiến tranh nhân dân đúng nghĩa thì không thế lực nào có thể đánh bại được, cho dù kẻ địch sử dụng vũ khí công nghệ cao. Nhưng điều kiện tiên quyết để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân được thắng lợi, đó là phải chuẩn bị dựa trên kết quả xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc ngay từ thời bình.  Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay là cần tuyên truyền, giải thích cho lực lượng vũ trang và nhân dân hiểu rõ về vũ khí công nghệ cao và cách phòng, chống. Đấu tranh phê phán các quan điểm đề cao vũ khí công nghệ cao, tuyệt đối hóa loại vũ khí này dẫn tới tâm lý lo lắng, sợ sệt, bi quan, cho rằng nếu địch sử dụng vũ khí công nghệ cao để xâm lược thì ta không thể nào đánh nổi. Giáo dục cho lực lượng vũ trang và nhân dân nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong thời bình cũng như trong điều kiện chiến tranh nếu xảy ra. Từ đó xây dựng niềm tin vào đường lối quân sự, an ninh, khả năng hạn chế và chiến thắng vũ khí công nghệ cao bằng việc củng cố, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngay từ thời bình. Đồng thời, cần đầu tư nghiên cứu, phát triển lý luận về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân trong điều kiện mới, đột phá tư duy truyền thống: Không phải cứ nói đến quốc phòng toàn dân là nói đến nền quốc phòng đơn giản, thô sơ, chỉ dựa vào dân mà coi nhẹ yếu tố hiện đại vũ khí, phương tiện quốc phòng. Do đó, cần đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học quân sự chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, trong đó tập trung nghiên cứu các giải pháp phòng chống vũ khí công nghệ cao.  Nghiên cứu phát triển khoa học nghệ thuật quân sự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhất là các loại hình tác chiến  mới, phương pháp tác chiến mới trong điều kiện chiến tranh vũ khí công nghệ cao. Đầu tư, cải tiến để hiện đại hóa, sản xuất và mua sẵn một số vũ khí hiện đại, nhất là vũ khí chiến lược có tầm bắn xa, uy lực lớn, có khả năng răn đe hiệu quả ngay trong thời bình, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển đảo.  Rõ ràng, chúng ta không bảo thủ đến mức cố tình bảo vệ những điều không còn phù hợp với thực tiễn thời đại, song sự thực, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân không hề lạc hậu, nó vẫn giữ nguyên vai trò, vị trí trong điều kiện ngày nay. Đó là đường lối sáng suốt trong điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Nếu từ bỏ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân mà chỉ tập trung tăng cường mua sắm, trang bị vũ khí công nghệ cao để chống lại vũ khí công nghệ cao của địch là cách nhìn phiến diện. 

Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình nhưng để gìn giữ hòa bình, tránh chiến tranh và cả trong điều kiện nếu buộc phải kháng chiến để tự vệ, để bảo vệ Tổ quốc thì chúng ta phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh ngay từ thời bình. Vì vậy, trong xây dựng nền quốc phòng, an ninh, trong đường lối bảo vệ Tổ quốc, chúng ta cần có cách nhìn nhận khách quan, đúng đắn, phù hợp điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, bác bỏ quan điểm cho rằng trong điều kiện tác chiến bằng vũ khí hiện đại, công nghệ cao, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là “lạc hậu, sai lầm”.

Trung tướng Trần Thái Bình - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng
Theo Cand.com.vn

QPTD -Thứ Năm, 01/09/2011, 23:38 (GMT+7)

Tác động của vũ khí công nghệ cao đến lý luận và thực tiễn quân sự

Vũ khí công nghệ cao (VKCNC) là hệ quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự. Nó được đánh giá bằng hàm lượng giá trị công nghệ chứa trong vũ khí đó. Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) thì VKCNC hiện nay gồm 8 loại chủ yếu, đó là: vũ khí điều khiển chính xác thế hệ mới, vũ khí tàng hình, vũ khí tác chiến điện tử, vũ khí năng lượng định hướng (vũ khí la-de, vũ khí chùm hạt…), vũ khí vi-ba, pháo điện từ, vũ khí thông minh và vũ khí vũ trụ. Về lý thuyết sản xuất cũng như thực tiễn sử dụng đều cho thấy, nhiều loại VKCNC có ưu điểm nổi bật là: khả năng tự điều khiển, tự nhận biết mục tiêu, khả năng tự loại bỏ nhiều yếu tố khí tượng, đặc biệt là khả năng tiến công từ xa, độ chính xác và khả năng sát thương “mềm”, sát thương “cứng”. Nói cách khác, VKCNC là vũ khí thế hệ mới, có sự vượt trội về tính năng kỹ thuật, chiến thuật so với hệ vũ khí thông thường.

Các nhà lý luận quân sự mác-xít từng chỉ ra rằng, vũ khí, kỹ thuật chiến đấu mới ra đời và việc chúng được trang bị với số lượng lớn cho quân đội bao giờ cũng dẫn đến những biến đổi lớn về tổ chức bộ đội và nghệ thuật quân sự. Ph. Ăng-ghen viết: “Sự tiến bộ về kỹ thuật, một khi đã có thể áp dụng được và được áp dụng vào trong lĩnh vực quân sự, thì lập tức và hầu như cưỡng bức, thường thường là ngược lại với ý muốn của cấp chỉ huy-phải có những sự thay đổi, thậm chí những sự đảo lộn cả về phương pháp tác chiến”1.

Thật vậy, sự ra đời của VKCNC và việc chúng được sử dụng ngày càng phổ biến trong một số cuộc chiến tranh gần đây cho thấy, VKCNC đã có sự tác động sâu sắc đến những vấn đề lý luận và thực tiễn quân sự. Bài viết này chỉ đề cập đến một số mặt tác động chủ yếu.

VKCNC tác động đến phương thức tiến hành chiến tranh xâm lược.

Phương thức tiến hành chiến tranh của các nước đế quốc trong các cuộc chiến tranh trước đây là đưa quân đội đến xâm lược một nước khác. Ngày nay, về cơ bản vẫn vậy, song cùng với đó, cũng xuất hiện một khả năng mới về phương thức tiến hành chiến tranh do sự tác động của VKCNC. Với việc trang bị VKCNC, kẻ xâm lược hoàn toàn có thể tiến công quân sự một nước khác mà không cần đưa quân vào nước đó, thậm chí không cần đưa bộ binh ra khỏi lãnh thổ của mình mà vẫn đạt được mục đích của cuộc chiến tranh. Một khái niệm chiến tranh mới ra đời, đó là “chiến tranh trừng phạt”, “chiến tranh xâm lược mềm”. Cuộc chiến tranh do Mỹ và các nước NATO thực hiện đối với Nam Tư năm 1999 là một ví dụ phản ánh một phần kiểu chiến tranh như thế. Quân đội các nước này không cần đưa quân vào lãnh thổ Nam Tư, không vận dụng các hình thức tác chiến trên bộ nhưng vẫn cơ bản đạt được mục tiêu đề ra (phá hủy cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, quốc phòng của Nam Tư, buộc chính phủ mới giao nộp Tổng thống Mi-lô-xê-vích cho tòa án La-hay, thực hiện sự có mặt của lực lượng quân sự của Mỹ và NATO ở Cô-xô-vô, tạo cơ sở để chi phối tình hình Ban-căng có lợi cho Mỹ).

VKCNC làm thay đổi không gian và thời gian tác chiến.

Trong phần lớn các cuộc chiến tranh trước đây thì quá trình tác chiến thường có chiến tuyến rõ ràng giữa hai lực lượng quân sự đối địch. Mỗi bên tham chiến đều có sự phân biệt giữa tiền tuyến với hậu phương. Ngày nay, VKCNC với tính ưu việt của nó đã cho phép đối tượng sử dụng có thể mở rộng không hạn chế không gian tác chiến, cả trên bộ, trên biển, trên không và trong vũ trụ, trong điện từ trường. Do vậy, sự phân biệt tiền tuyến và hậu phương chỉ còn là tương đối, ranh giới giữa chúng ngày càng mờ nhạt.

Nếu như không gian tác chiến được mở rộng, thì ngược lại, VKCNC lại khiến cho thời gian tác chiến giảm hẳn, tiến dần tới tác chiến theo thời gian thực; và do đó, độ dài về thời gian của một chiến dịch hay một cuộc chiến tranh có xu hướng rút ngắn xuống nhiều lần so với trước đây. Ví dụ: chiến dịch “Con cáo sa mạc” do Mỹ-Anh tiến hành ở I-rắc năm 1998 chỉ kéo dài 73 giờ; cuộc chiến tranh do Mỹ và NATO tiến hành ở Nam Tư năm 1999 chỉ dừng lại ở một chiến dịch duy nhất, mang tên “Sức mạnh đồng minh”, diễn ra trong 78 ngày; cuộc chiến tranh do Mỹ và một số đồng minh của Mỹ tiến hành ở I-rắc năm 2003 chỉ kéo dài 21 ngày. Trong khi đó, các cuộc chiến tranh chủ yếu sử dụng vũ khí thông thường trước kia thường kéo dài hàng năm, thậm chí hàng thập kỷ; chẳng hạn, cuộc chiến tranh Triều Tiên kéo dài 3 năm, cuộc chiến tranh do Mỹ xâm lược Việt Nam kéo dài tới 21 năm. Tương tự, thời gian của các chiến dịch quân sự cũng vậy, ví dụ: chiến dịch I-a-đrăng của Mỹ (ta cũng mở chiến dịch-chiến dịch Plây-me) là chiến dịch có quy mô không lớn nhưng cũng kéo dài 38 ngày; cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty (thực chất là một chiến dịch của Mỹ-ngụy; về phía ta là chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty của Mỹ) kéo dài 52 ngày, v.v. Tuy nhiên, đó chỉ là cách so sánh tương đối vì thời gian của các trận chiến đấu, các chiến dịch hay cả một cuộc chiến tranh, ngoài yếu tố tác động của vũ khí, trang bị kỹ thuật còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa.

VKCNC làm thay đổi ranh giới giữa tiến công và phòng ngự.

Tiến công và phòng ngự là hai loại hình tác chiến cơ bản của bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Trong tác chiến trước đây, thường bên này tiến công thì bên kia phòng ngự và ngược lại. Ngày nay, nếu các bên tham chiến đều trang bị và sử dụng VKCNC thì rất có thể không còn trận chiến đấu, chiến dịch tiến công hay phòng ngự nguyên nghĩa nữa; thay vào đó là các trận chiến đấu, chiến dịch có sự chuyển hóa hết sức nhanh chóng và khó lường. Bên phòng ngự có thể chủ động tiến công đáp trả ngay lập tức vào trung tâm chỉ huy hay căn cứ hoả lực của bên tiến công, tức cùng một lúc vừa tổ chức lực lượng phòng ngự chốt giữ, ngăn chặn, vừa đồng thời tổ chức lực lượng phản đột kích và lực lượng tiến công đối phương. Ngược lại, nhờ có các phương tiện phóng rải được tự động hoá cao nên bên tiến công có khả năng hoàn thành một khối lượng lớn về công sự, vật cản cần thiết để chuyển vào phòng ngự chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn. Vì vậy, có thể nói, trong chiến tranh hiện đại sử dụng VKCNC thì ranh giới giữa tiến công và phòng ngự ngày càng có xu hướng đan xen, rất khó phân biệt.

VKCNC thúc đẩy sự phát triển các hình thức, phương pháp tác chiến mới.

Để hiện thực hoá Học thuyết an ninh quốc gia, Mỹ đã và đang tích cực tìm kiếm những hình thức, phương pháp tác chiến mới sao cho phát huy hết tính năng của VKCNC, đặc biệt là các phương tiện vũ trụ trong các cuộc chiến tranh cũng như các chiến dịch chống khủng bố. Trong một số cuộc chiến tranh do Mỹ phát động vừa qua, ngoài mục tiêu chính trị, mục tiêu quân sự, mục tiêu địa - chính trị, Mỹ còn đặt ra mục tiêu kỹ thuật, đó là tiến hành thử nghiệm hệ thống vũ khí, trang bị kỹ thuật mới; đồng thời hoàn thiện các phương pháp tác chiến thông qua việc sử dụng hệ thống vũ khí trang bị kỹ thuật đó trong chiến đấu.

Các nhà quân sự cho rằng, VKCNC cùng với các phương tiện kỹ thuật mới đang chi phối mạnh mẽ đến phương pháp tác chiến, từ tác chiến tuần tự là chủ yếu sang tác chiến không tuần tự; từ tác chiến theo kiểu hình thành giai đoạn sang tác chiến đồng thời; từ hiệp đồng tác chiến theo nhiệm vụ sang hiệp đồng tác chiến theo mục tiêu, v.v.

VKCNC tác động đến quan hệ của các thành tố cấu thành nghệ thuật quân sự.

Nghệ thuật quân sự gồm ba thành tố cấu thành, đó là: chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Thông thường, nghệ thuật chiến dịch chủ yếu là vận dụng các biện pháp chiến dịch, hình thức chiến thuật để thực hiện mục đích bộ phận của chiến tranh; còn chiến thuật là nghệ thuật tổ chức chuẩn bị và thực hành trận chiến đấu. Nhưng trong chiến tranh sử dụng VKCNC, các đơn vị chiến thuật cũng có thể có khả năng thực hiện các nhiệm vụ chiến lược; một chiến dịch độc lập khi giành thắng lợi có thể quyết định việc kết thúc chiến tranh. Mặt khác, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, chỉ huy cấp chiến lược có thể kiểm soát được ở tất cả các cấp và có khả năng chỉ huy đến phân đội, thậm chí đến từng người lính khi cần thiết.

VKCNC chi phối đến việc tổ chức quân đội.

Trước kia, quân đội các nước thường tổ chức một đội quân đông người, chấp nhận một cuộc chiến tranh tiêu hao. Nhưng giờ đây, đứng trước thách thức của chiến tranh sử dụng VKCNC, nhiều nước đã tiến hành tổ chức lại quân đội theo hướng gọn, mạnh (giảm quân số, tăng cường trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại) để sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh cục bộ công nghệ cao, cường độ lớn, thời gian ngắn. Theo đó, bộ binh được giảm mạnh về biên chế, nhưng được chú trọng nâng cao tính hợp thành, tính cơ động và khả năng tác chiến đa năng; các quân chủng, binh chủng, tuỳ yêu cầu mà rút gọn hay phát triển, nhưng đều thực hiện việc chuyển từ tổ chức phân công trách nhiệm theo địa lý sang tổ chức phân công theo năng lực tác chiến, tạo ra khả năng độc lập và tính liên hợp cao trong tác chiến, giảm bớt sự trùng lắp giữa các quân, binh chủng.

Trên đây là một số mặt tác động chủ yếu của VKCNC đến lý luận và thực tiễn quân sự. Rõ ràng, để đối phó thắng lợi với cuộc chiến tranh xâm lược mà kẻ địch sử dụng VKCNC (nếu xảy ra) chúng ta phải quan tâm đến rất nhiều vấn đề. Trước hết, về mặt nhận thức, cần thấy VKCNC không thể tự nó tác động vào các sự vật, hiện tượng, nhưng nó là tiền đề vật chất dẫn đến sự thay đổi các hoạt động tác chiến, các phương pháp tác chiến và tổ chức bộ đội. VKCNC không thay thế được con người, nhưng nó làm cho hiệu suất chiến đấu của người sử dụng nó tăng lên. VKCNC không làm thay đổi nguồn gốc, bản chất của chiến tranh xâm lược, cho dù gọi là “đòn trừng phạt” hay là gì đi nữa thì bản chất của nó vẫn là chiến tranh phi nghĩa. Thế nhưng, do thời gian của cuộc chiến tranh sử dụng VKCNC rất ngắn (thời gian của cuộc chiến tranh tương lai có khi chỉ tính bằng giờ), nên có thể dân tộc bị xâm lược chưa kịp chuẩn bị về mặt tinh thần, dư luận chưa kịp phản ứng, thì chiến tranh đã kết thúc. Vì vậy, cùng với việc nhận thức, chúng ta phải tích cực đổi mới tư duy quân sự, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận và thực tiễn của nghệ thuật quân sự Việt Nam; từ đó vận dụng vào sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội và huấn luyện bộ đội, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.

Đại tá, ThS. LƯƠNG XUÂN LÃM

Học viện quốc phòng