Họ cù là dân tộc gì năm 2024

Học và làm theo lời Bác dạy “Học tập và tự học tập, học nữa học mãi...”. Thấm nhuần lời dạy của Bác, Dòng họ Cù xã Vĩnh Chân là một trong những dòng họ tiêu biểu của huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ có truyền thống hiếu học từ xưa tới nay và đạt nhiều thành tích đáng kể. Từ cách mạng tháng 8 năm 1945, các gia đình trong Dòng họ đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của sự học tập, về văn hóa, giáo dục đạo đức nên đã định hướng và tạo điều kiện tốt nhất cho con cháu qua các thế hệ học tập, trở thành truyền thống tốt đẹp của dòng họ. Chính vì vậy, Dòng họ Cù đã có nhiều học sinh giỏi, đỗ đạt và thành công trên nhiều lĩnh vực công tác. Sau nhiều năm phấn đấu, hiếu học của Dòng họ, không phân biệt giới tính trai hay gái, đến nay trong Dòng tộc đã có trên 300 cử nhân, đại học và sau đại học, trong đó: giáo viên các cấp 150 người, mang hàm Đại tá trong Quân đội 15 người, Tiến sỹ 17 người, Thạc sỹ 37 người, Giáo sư 2 người, Nhà giáo Ưu tú - Nhà giáo Nhân dân 3 người. Đó là những con số để minh chứng cho bề dày thành tích của Dòng họ Cù nhờ hiếu học mà có.

Họ cù là dân tộc gì năm 2024

Dòng họ Cù được thành lập Chi hội Khuyến học từ năm 2000, thành viên Ban Chấp hành gồm 09 người, 01 Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch, 01 Thư ký, 5 Ủy viên; các thành viên đều là những người cán bộ nghỉ hưu có trình độ và tâm huyết với công tác khuyến học, khuyến tài. Nơi hội họp của Dòng họ tại Nhà thờ Tổ khu 8 xã Vĩnh Chân. Phong trào khuyến học, khuyến tài được duy trì liên tục, thường xuyên, có quy chế hoạt động và ngày càng đổi mới phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hằng năm, Dòng họ đều tổ chức biểu dương, khen thưởng để động viên, khích lệ kịp thời con cháu có thành tích xuất sắc trong học tập và rèn luyện. Giai đoạn 2000 – 2015: Chi hội đã khen thưởng 316 cháu đạt thành tích cao trong học tập đỗ Đại học, giỏi cấp Quốc gia, cấp Tỉnh, huyện, sinh viên giỏi.các trường đại học. Giai đoạn 2015 – 2020: Chi hội khen thưởng cho 99 cháu đạt thành tích cao trong các cấp học phổ thông, đỗ vào Đại học 23 cháu, Tiến sỹ 03 cháu, Thạc sỹ 06 cháu, Sinh viên giỏi 13 cháu, giỏi cấp Tỉnh 14 cháu, giỏi cấp Huyện 32 cháu, nghèo vượt khó 06 cháu.

Công tác xây dựng quỹ Khuyến học của dòng họ, phong trào tiết kiệm “nuôi lợn nhựa khuyến học” ở gia đình phục vụ cho học tập được thực thường xuyên và hiệu quả. Quỹ khuyễn học dòng họ hiện nay duy trì 75 triệu đồng, tất cả do con em dòng tộc tự nguyện đóng góp.

Chi hội đã làm tốt công tác tuyên truyền về các tấm gương học tập, tự học suốt đời; tuyên truyền về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tập, trách nhiệm của gia đình, dòng họ, động viên gia đình nuôi dạy con em nỗ lực học tập, tích cực thi đua học giỏi đỗ vào các trường Đại học để làm rạng rỡ cho gia đình dòng họ, xứng đáng với truyền thống cha ông đi trước.

Ban Chấp hành Chi hội Khuyến học của Dòng họ Cù rất nhiệt tình, trách nhiệm, tích cực hoạt động thực hiện bàn bạc dân chủ, công khai, có biện pháp chỉ đạo kịp thời. Chi hội luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Hội Khuyến học và sự quan tâm động viên cả về vật chất và tinh thần, phối hợp tốt với Đảng ủy, UBND xã trong công tác Khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chi hội còn phối hợp chặt chẽ với các nhà trường để nắm bắt, trao đổi tình hình học tập tu dưỡng đạo đức của các cháu, từ đó uốn nắn, động viên kịp thời.

Từ năm 2000 đến nay, với truyền thống hiếu học và bề dày thành tích, Dòng họ Cù xã Vĩnh Chân đã được Trung ương Hội Khuyến học Việt nam, Hội Khuyến học tỉnh Phú Thọ, Quỹ Khuyến học Khuyến tài Đất Tổ, UBND huyện Hạ Hòa tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen các loại. Thành tích của Dòng họ Cù trong công tác khuyến học, khuyến tài đã góp phần thúc đẩy phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020 theo Quyết định 281/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành để xây dựng xã hội học tập ngày càng tiến bộ.

Ân Phú tuy chật hẹp (diện tích khoảng 9 km2, dân số hơn 2.000 người) nhưng sơn thủy hữu tình, giáp ranh giữa ba huyện Vũ Quang, Hương Sơn và Đức Thọ. Tên Ân Phú hiện cũng có nhiều cách giải thích khác nhau, nhưng nghĩa chung là giàu có, thịnh vượng - xuất hiện từ đầu thời Tự Đức (1847). Đây không chỉ là vùng đất hiếu học, giàu truyền thống văn hóa mà còn nổi tiếng yêu nước, cách mạng với nhiều người tham gia các phong trào Cần vương, yêu nước, có 59 liệt sĩ qua các cuộc kháng chiến. Hiện nay, Ân Phú đang là một điểm sáng về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; đã đạt chuẩn nông thôn mới từ khá sớm...

Cùng với họ Trần và họ Nguyễn, họ Cù là một trong ba dòng tộc đầu tiên có công khai ấp lập làng. Trong số 32 vị tiên hiền, hậu hiền được nhân dân thờ tự cho đến nay, có đến bảy vị họ Cù. Theo hồ sơ khoa học di tích lịch sử văn hóa Đền Vại, thì ngoài dòng tộc Cù Hoàng từ Quỳnh Lưu chuyển cư vào, họ Cù Huy tôn Binh bộ Thượng thư Cù Ngọc Xán là tiên Thủy tổ. Tuấn vũ hầu Cù Ngọc Xán được nhà Lê ban quốc tính, sau được phong tước Vương, thờ tại Đền Vại với mỹ danh Tượng Sơn Cao Liệt tôn thần. Ông là phu quân của bà Ngô Thị Ngọc Điệp, sinh khoảng đầu thế kỷ XV, con gái thứ 14 của Dụ Vương Ngô Từ, hậu duệ thứ 13 của Ngô Quyền; bà cũng là chị của Ngô Thị Ngọc Dao, mẹ vua Lê Thánh Tông. Bà Ngọc Điệp là Quận Quân Á tước, được phong thần là Lê Triều Hoàng hậu, mất ngày 13 tháng 2 âm lịch tại Trại Đầu - Ân Phú và trở thành người mẹ tinh thần của vùng đất này trong suốt 600 năm qua; riêng Triều Nguyễn đã có bảy sắc phong.

Như vậy là sự hợp duyên giữa hai dòng tộc Cù - Ngô của vị Thủy tổ đã mang lại cho làng xã, dòng họ một sức sống bền bỉ, một truyền thống văn hóa, yêu nước xuyên suốt năm thế kỷ. Và đến thế kỷ 20, không biết có lời “mách bảo” nào từ nguồn cội không mà hai thi sĩ chủ tướng của phong trào Thơ Mới, Cù Huy Cận - Ngô Xuân Diệu đã kết thân ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên trên đất Huế, tạo thành một Tình Bạn lớn hết sức đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam.

Hỡi ai đó, có nhớ chàng Huy Cận

Gọi gió trăng mà thỏ thẻ với lời trên

Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên

Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu

(Thơ Huy Cận - Mai sau)

Chi nhánh họ Cù Huy có thủy tổ là Cù Thạch Khối đến Huy Cận là tám đời. Khoảng năm 1942, họ Cù Huy lại tách thành hai cánh. Huy Cận là con trai đầu của cụ Cù Trương, từng thi Hương trúng Tam trường, sau theo học Quốc ngữ, chữ Tây, hết cấp Tiểu học được bổ làm Hương sư ở Thanh Hóa một thời gian, sau về quê dạy học, cày ruộng. Mẹ là bà Bùi Thị Chi sinh trưởng trong một gia đình có nhiều người đỗ đạt ở làng dệt lụa Hạ nổi tiếng vùng Tùng Ảnh.

Đường về Ân Phú quê cha

Sông La uốn khúc Mồng Ga núi gần,

Đường về quê mẹ quen chân

Tam Soa bến cũ mấy lần đò xuôi

...Một đời mòn gót nghìn đường

Bước về đầu xóm rưng rưng lệ nhòa...

2 Đọc “Hồi ký song đôi” (Nxb Hội Nhà văn, H. 2011), ta sẽ nhận thấy quê hương Ân Phú nói riêng và Hà Tĩnh, xứ Nghệ nói chung thật sự là mạch nguồn của rất nhiều tác phẩm văn học của Huy Cận. Xuân Diệu từng nhận xét - quê hương đã cung cấp cho Huy Cận một cái vốn đất đai gì sâu thẳm lắm như từ ruột của thời gian. Và chính Huy Cận trong bài thơ “Tôi nằm nghe đất” đã chia sẻ:

Tôi sinh ra ở miền sơn cước

Có núi làm xương cốt tháng ngày

Đất bãi tơi làm da thịt mát

Gió sông như những mảng hồn bay...

Quê hương hiện ra trong thơ Huy Cận thật cụ thể, yên bình:

Tuổi nhỏ tôi trùm trong nhớ thương

Cách sông chợ Nướt, bến đò sương

Làng quê sơn cước chiều về sớm

Bóng núi dài lan mát ruộng nương...

Mãi sau này, trong bài thơ “Yêu đời” ông cũng nhắc lại: Quê anh cà nhút mặn mòi/ Sinh anh muối mặn yêu đời, đó em! Khung cảnh làng quê cũng chính là thi hứng trực tiếp của những tuyệt thi như “Tràng Giang”, “Ngậm ngùi” và nhiều sáng tác sau 1945.

Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại hai thi phẩm nổi tiếng như để tri ân quê hương - “Gửi người xứ Nghệ” đã được phổ nhạc và thành bài ca “đi cùng năm tháng” (Ai vô xứ Nghệ), và “Ngã ba Đồng Lộc” - như dựng thêm một tượng đài vĩnh cửu bằng thi ca:

Trong đời mỗi dân tộc cũng có những ngã ba/ Những ngã ba vận mệnh/ Những cái nút trên dặm dài lịch sử/ Gặp những ngã ba đời con sẽ nghĩ suy/ Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi/ Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc/...Là ngã ba nhưng nào có phân vân/ Nào có đắn đo do dự!/... Nhưng hướng đi đã quyết/ Không phải cho một lần/ Mà cho tất cả mọi lần/ Không phải cho một người/ Mà cho tất cả quê hương, đất nước...

Với những thành công lớn trong sự nghiệp chính trị và đặc biệt là sự nghiệp văn hóa, văn học, người đầu tiên của Việt Nam được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Thơ thế giới (2001), hoặc như nhận xét của Vũ Đình Minh - nhà thơ hoạt động chính trị, nhà văn hóa lừng danh vượt qua cả biên giới quốc gia để hòa nhập vào dòng văn hóa của thế giới - Huy Cận đã thật sự mang lại niềm vinh dự, tự hào cho dòng tộc và quê hương Hà Tĩnh.

3 Sinh thời, Huy Cận dành rất nhiều tâm huyết, tình cảm cho quê hương. Ngày thơ Việt Nam lần đầu tiên (2003) được Hội Nhà văn tổ chức tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du (Nghi Xuân, Hà Tĩnh), nhà thơ Huy Cận đã về dự, đánh trống khai hội và phát biểu, đọc thơ rất say sưa. Ông cũng tranh thủ mọi cơ hội để về thăm, động viên, giúp đỡ quê hương, dòng tộc.

Mặc dù rất bận rộn với nhiều hoạt động khác nhau nhưng ông vẫn không quên trách nhiệm của một Tộc trưởng dòng họ. Ông đã trực tiếp lập gia phả, viết lời mở đầu rất thống thiết: “Chim có tổ, người có tông. Chúng ta là các lớp hậu duệ của tổ tiên xem, thuộc tộc phả để ghi lòng tạc dạ tinh thần thương yêu đùm bọc lấy nhau của cha ông, cố kết với nhau vì tình nhà nghĩa nước. Tộc phả cũng là lịch sử của họ ta, một họ tuy không đông người nhưng đã có đóng góp xứng đáng vào công việc của quê hương, làng nước. Có thuộc quá khứ mới mở mang được tương lai. Xin bà con trong họ giữ gìn và phát huy ý nghĩa, tác dụng giáo dục của bản tộc phả thiêng liêng này”.

Năm 2002, ông viết “Di chúc về vấn đề lưu niệm”, trong đó khẳng định việc được thờ tự tại quê nhà: “Vợ con tôi sẽ thờ tôi tại nhà và đất ở của tôi ở 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội và thờ tôi tại nhà thờ họ Cù Huy cánh tiểu tôn ở xã Ân Phú, tỉnh Hà Tĩnh”.

Sau khi ông mất (19-2-2005), nhà thờ họ Cù Huy đã được tôn tạo lại và đang làm hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngay trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Danh nhân văn hóa - Nhà thơ Huy Cận (1919 - 2019). Khép lại một đời bôn ba khắp bốn phương trời, cống hiến hết mình cho đất nước, từng giữ nhiều chức vụ trọng yếu như bộ trưởng, thứ trưởng và đại diện cho quốc gia tại nhiều tổ chức, diễn đàn văn hóa, chính trị quốc tế, để lại cho hậu thế gần 50 đầu sách, trong đó có nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Pháp hoặc được xuất bản ở nước ngoài, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (1996), Huân chương Sao Vàng cao quý..., nay ông đã được về với tổ tiên, dòng tộc, được bà con làng xã tri ân, thờ phụng như một nhân thần của quê hương, đất nước.