34 296 KB 3 194 Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Đang xem trước 10 trên tổng 34 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Khoa Sư Phạm Mỹ Học Đại Cương Tác giả: Ths. Phùng Hoài Ngọc
Đồng tác giả: Jesse Bader
Biên mục: sdms Phần mở đầu: Khái luận về mỹ học
Sơ lược lịch sử về bộ môn mỹ học TRƯỚC MÁC:
• • • Aristote thế kỉ 7 trước công nguyên, trong cuốn Poetic ( thi pháp), ông yêu
cầu triết học nghiên cứu qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc ấy, mĩ học còn
phôi thai, chưa tồn tại độc lập.
Baumgacten giaó sư Đức 1735: yêu c ầu mĩ học nhận nhiệm vụ nghiên
cứu con đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Ông viết hai cuốn: Mĩ
học tập I –1750, Mĩ học tập II –1758. Từ đây mĩ học ra đời chính thức, trở
thành khoa học độc lập.
Immanuel Kant cuối thế kỉ 18: Xác định đối tượng của mĩ học là “thị hiếu thẩm mĩ” – cái chủ quan, ông bác bỏ
sự nghiên cứu đối tượng khách quan ( cái đẹp không phải ở trên đôi má hồng
thiếu nữ mà ở trong con mắt kẻ si tình)
• Hegel: đầu thế kỉ 19. Mĩ học chỉ nghiên cứu cái đẹp nghệ thuật do Chúa trời ban phát cho nghệ sĩ,
“ nghệ thuật là vương quốc bao la của cái đẹp “. Cái đẹp chủ yếu tập trung ở
nghệ thuật, còn những cái đẹp khác trong đời sống thì đơn giản, thiếu hụt và
nhàm chán
•
•
•
• Tsernysevski ( Nga thế kỉ 19) trái ngược với Hegel, khẳng định “cái đẹp là
cuộc sống”
Dostoievski: “Cái đẹp sẽ cứu cả thế giới “ - cái đẹp là lí tưởng đấu tranh
của nhân dân ”
Bielinski mở rộng đối tượng mĩ học đến “lí tưởng thẩm mĩ”
Gogol nghiên cứu thi ca Puskin, từ đó đến với mĩ học.Ông viết:" con
người có thể suy tư lặng đi trước mọi thứ nhỏ bé và vĩ đại, đó là lúc phát
sinh tia lửa điện thi ca – cái đẹp. Nó vốn có trong toàn bộ thế giới (mọi
công trình của thượng đế), kể cả và trước hết là trong Con Người " (vừa
là chủ thể vừa là khách thể) CẤU TRÚC MĨ HỌC THEO QUAN ĐIỂM MÁC - LÊ NIN:
Đời sống thẩm mĩ gồm:
•
•
• khách thể thẩm mĩ
chủ thể thẩm mĩ
nghệ thuật Mối quan hệ của mỹ học với các khoa học khác
• Quan hệ với triết học: Triết học là cái nôi sinh ra Mĩ học:
• • · Bản thể luận: Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, cái thẩm mĩ có sẵn
trong bản chất thế giới. Giác quan con người là công cụ của đời sống
thẩm mĩ. Mĩ học thừa nhận “cái đẹp mang tính thứ nhất triết học”.
· Nhận thức luận: Theo Lê nin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nên chúng ta
có thể dựa vào nghệ thuật để nhận thức thế giới khách quan.
Mặt khác, con người còn sáng tạo những cái thẩm mĩ chưa có trong thực tiễn.
• Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Là công cụ đắc lực khi nghiên cứu mĩ học. • Quan hệ với tâm lí học: cùng nghiên cứu một đối tượng là con
người. Con người có hai hoạt động là sinh lí và tâm liù. Mĩ học chú ý hoạt
động tâm lí, nó nghiên cứu “ cái đẹp tâm lí học “, và “ tâm lí học thẩm mĩ “. • Quan hệ với nghệ thuật học: Nghệ thuật học bao gồm nhiều chuyên ngành:
Lịch sử nghệ thuật
Lí luận nghệ thuật
Văn bản học
Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật
Tâm lí học tiếp nhận nghệ thuật
Phê bình nghệ thuật
Quan hệ giữa mĩ học và nghệ thuật học là quan hệ hai chiều nhưng mĩ học chi
phối mạnh hơn.
Cấu trúc của đời sống thẩm mỹ
Nếu bổ dọc đời sống con người thì thấy 2 nửa: nửa vật chất và nửa tinh thần
Nếu cắt ngang, ta thấy lát cắt chính là đời sống thẩm mĩ.
Nghĩa là, đời sống thẩm mĩ thấm sâu hòa lẫn vào cả đời sống vật chất lẫn tinh
thần.
KHÁCH THỂ THẨM MĨ gồm:
Bốn phạm trù (4 cái) thẩm mĩ cơ bản:
Cái đẹp - Cái trác tuyệt - Cái bi kịch - Cái hài kịch
CHỦ THỂ THẨM MĨ gồm:
Những tố chất thẩm mỹ của CON NGƯỜI:
Cảm xúc thẩm mĩ
Biểu tượng thẩm mĩ
Hình tượng thẩm mĩ
Tình cảm thẩm mĩ
Thị hiếu thẩm mĩ
Lí tưởng thẩm mĩ. Phần thứ nhất: Khách thể thẩm mỹ Cái đẹp
Khái niệm
Thế giới là vương quốc bao la của cái đẹp.
1.1 - Phong cảnh đẹp, cho nên “thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp, mây gió trăng hoa tuyết núi sông ”.
Phong cảnh muôn màu sắc, muôn dáng điệu, muôn hương thơm.
1.2 - Con người đẹp muôn hình muôn vẻ:
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
• xinh đẹp (dung mạo)
xinh xắn (hơi nhỏ về kích thước tầm vóc)
kiều diễm (xinh đẹp có trang điểm)
duyên dáng (cử chỉ hòa nhã, dáng điệu đẹp …)
thanh nhã (tinh thần, dễ gần, tinh tế..)
mảnh dẻ
tươi thắm (nữ, sức sống, hồn nhiên..)
dễ thương (tinh thần và vật chất, thiên về tinh thần)
ưa nhìn (nét đẹp chưa rõ nét, đẹp hài hòa chung)
khả ái...
phương phi (nam, hơi lớn)
khôi ngô, tuấn tú (nam, hơi nhỏ)... • Phái nữ có nhiều vẻ đẹp tự nhiên phong phú hơn nên được gọi là “phái
đẹp”, nghệ thuật hội họa thường chọn mẫu vẽ nữ để miêu tả thế giới. 1.3 - Nghệ thuật và hàng hóa đẹp:
Tác phẩm nghệ thuật và những đồ thủ công mĩ nghệ, ngay cả mọi hàng hóa,
dụng cụ cũng vươn tới một vẻ đẹp nào đấy.
1.4 - Cảm xúc và tình cảm thẩm mĩ của cái đẹp:
Đứng trước những cái đẹp, con người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, pha chút
bàng hoàng, ngạc nhiên và cảm thấy yêu đời hơn.
Phân loại cái đẹp theo ba phạm vi tồn tại
Cái đẹp trong Xã
hội
Phong cảnh thiên nhiên: cây lá hoa … Giá trị nhân bản
bầu trời trăng sao... sông biển, loài
(bao dung)
vật, chim hót... với tiêu chuẩn sau:
Lao động, kĩ
* Hình dáng cân đối, cân xứng,Trật
xảo
tự, Màu sắc, hương vị, hài hòa,hoàn
Cái đẹp trong Tự nhiên Cái đẹp trong Nghệ thuật • -Tái tạo những vẻ đẹp của tự nhiên và xã
hội, lấy con người làm trung tâm. Tác động
vào hai giác quan chính là Nghe và Nhìn
(âm thanh và hình ảnh đẹp..) Tình yêu, tình
bạn...
Tình xóm
giềng,
Tình đồng bào,
Tình nhân loại.
Dung thứ, ân
hận
hảo trong muôn hình muôn vẻ thiên
nhiên Đoàn kết * tất cả thế giới sinh vật đều đẹp, do
trải qua hàng triệu năm nó đã đào
thải những gì không đẹp. tự do dân chủ công bằng
* Sức sống làcái đẹp cơ bản nhất của
sinh vật. con người là sinh vật hoàn Trí tuệ
hảo nhất.
Làm ra sản
phẩm tiêu dùng
đẹp. Giải trí • - Chọn lựa, tập trung những hình ảnh đẹp,
gạt bỏ những cái bình thường, bố trí lại, soi
tỏ cái đẹp. • - Sáng tạo những vẻ đẹp mới chưa có
trong hiện thực, nhân vật lãng mạn, cảnh
vật huyền ảo, kì vĩ... và những ước mơ
khát vọng cao cả. Trang trí, trang
điểm
(thẩm mĩ
viện...)
và cao nhất là
Tác phẩm nghệ
thuật Câu hỏi: cái đẹp nhất tồn tại ở đâu trong 3 nơi: Tự nhiên - Xã hội - Nghệ thuật?
Gv -Câu chuyện Pigmalion và bức tượng ngà voi. Nữ thần Venus cho nàng sức
sống, chàng đặt tên khai sinh cho vợ là Galatea, sinh con trai đặt tên là Paphos
(Hy lạp = say mê. Latin - Pháp - Anh: pathetique (sympathetic: cảm động, thống
thiết).
Vậy cái đẹp là sự sống. Cuộc sống tự nhiên cao hơn nghệ thuật (? Tsernysevski đúng / sai?)
Thật ra chính nhờ bức tượng ngà voi - tác phẩm nghệ thuật tạo hình mà
Pigmalion mới cảm nhận được vẻ đẹp của nàng Galatea bằng xương bằng thịt con người thật sự.
Cái đẹp trong Tự nhiên rất phong phú, trong Xã hội càng phong phú hơn, cái
đẹp trong Nghệ thuật là vô tận.
Những quan niệm trước Mác về cái đẹp
Các nhà triết học cổ đại đã giải thích cái đẹp như những ma thuật, như cái lan
tỏa chứa đầy bí ẩn.
Nhà triết học -toán học Pythagore căn cứ vào các con số để giải thích sự cân
đối, hài hòa của thế giới. Cái đẹp sinh ra từ những sự chuyển động có nhịp điệu và âm thanh. Vậy cái đẹp là sự vận động nhịp nhàng của các con số và sự hòa
điệu của chúng (tiến tới lí thuyết âm nhạc hiện đại: cái đẹp của âm thanh gọi là
giai điệu)
Nhà triết học Heraclet: cái đẹp sinh ra từ sự hài hòa của mâu thuẫn. Ông nhấn
mạnh tính tương đối của cái đẹp. Dấu hiệu của cái đẹp là sự hòa hợp trong mâu
thuẫn và phù hợp với điều kiện sống.
Nhà triết học Democrit cho rằng: điều tốt nhất của con người là sống, sống
khoan khoái hơn, ít buồn phiền hơn. Không nên cố đạt tới bất kì sự khoái cảm
tột đỉnh nào mà chỉ nên đạt tới khoái cảm gắn liền với cái đẹp. Ai vi phạm độ thì
cái dễ chịu sẽ trở thành cái khó chịu. Ông cũng cho rằng khi con người muốn tái
hiện cuộc sống, tái sản xuất cuộc sống thì nghệ thuật xuất hiện.
Nhà triết học Platon: Cái đẹp là ý niệm vĩnh cửu, siêu cảm giác và siêu trần thế.
Mọi vẻ đẹp là do Thượng đế nhập vào, con người chỉ nhận ra cái đẹp mà không
thể giải thích được cái đẹp
Kant thế kỉ 18: Cái đẹp chỉ tồn tại trong chủ thể,
Hegel thế kỉ 19: Caí đẹp chỉ có ở nghệ thuật
Ý kiến của các nhà văn, nhà mĩ học Nga thế kỉ 19 tiến thêm một bước khi xác
định quan niệm đầy đủ về cái đẹp.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đúc kết, hoàn thành quan niệm về cái đẹp
Định nghĩa về cái đẹp:.
Cái đẹp là nhu cầu tinh thần vô hạn của con người (nhu cầu vật chất thì có hạn)
giúp con người khoan khoái dễ chịu. Cái đẹp là một hiện tượng vô cùng phức
tạp và đa dạng. Nó là một lĩnh vực tinh thần và tình cảm dù nó tồn tại dưới dạng
vật chất hay tinh thần. Nó là một loại giá trị giúp con người đánh giá thế giới và
bản thân mình. Nó là nhu cầu cá nhân nhưng đồng thời cũng mang tính định
hướng của xã hội. Nó tồn tại trong ba phạm vi: tự nhiên - xã hội và nghệ thuật.
4.1 - Cái đẹp khách quan, tự nó: có những chuẩn mực như cân đối trật tự, hợp lí. Về kích thước, đó là “ tỉ lệ vàng
“, kích thước vàng.
Thiên nhiên là nơi chứa đựng những cái đẹp khách quan tự nó, trải qua hàng
triệu năm thích nghi, đào thải và tích lũy...
Loài vật có óc thẩm mĩ hay không? - người ta mới chỉ thừa nhận chúng có bản
năng sinh vật về cái đẹp.
4.2 - Cái đẹp hài hòa, chỉnh thể trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật: Hài hòa là sự phối hợp những bộ phận nếu đứng riêng lẻ chưa phải là đẹp sẽ
tạo ra một cái đẹp. (ví dụ: đôi chân con cò khẳng khiu, quá dài so với thân thể
nhỏ bé, nhưng lại hòa hợp với cổ dài, mỏ dài, do đó nhìn toàn bộ con cò rất
đẹp). Chỉnh thể có thể thiếu sự cân xứng, nhưng nó được đặt trong một tương quan
nào đó vẫn tạo ra được cảm giác hài hòa và đẹp (ví dụ: mái tóc lệch, chiếc răng
khểnh)
4.3 - Cái đẹp mang tính chủ thể - khách thể: Cái đẹp này phụ thuộc vào năng lực vào ý thức thẩm mĩ của con người (chủ
thể). Bên cạnh đó, còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như: lứa tuổi, nghề
nghiệp, hoàn cảnh xuất thân, trình độ học vấn và văn hóa, dân tộc, thời đại.
Những yếu tố ấy tạo ra những thị hiếu thẩm mĩ khác nhau.
4.4 -Cái đẹp trong nghệ thuật:
• Khái niệm: Đó là cái đẹp do nghệ sĩ sáng tạo ra trong các loại hình nghệ thuật. Cái đẹp
nghệ thuật có quan hệ mật thiết với cái đẹp trong tự nhiên và xã hội.
Trước hết, nghệ thuật tái tạo những cái đẹp có sẵn trong tự nhiên mà trung tâm
là con người. Tái tạo không phải là sự chép lại đơn giản (copy), mà là chọn lựa,
sắp xếp bố cục, gạt đi những cái rườm rà, và tập trung chiếu sáng cái đẹp. Qua
sự tái tạo, nghệ sĩ bộc lộ cách đánh giá và ca ngợi cái đẹp.
Tiến hơn nữa, nghệ sĩ còn sáng tạo những vẻ đẹp mới mẻ như một ước mơ,
một dự báo về cái đẹp tương lai, hoặc quay về sống với những cái đẹp đã trôi
vào quá khứ...
• Tiêu chuẩn cái đẹp trong nghệ thuật: Tính điển hình của vẻ đẹp: cái đẹp phổ biến, quen thuộc, sinh động cụ thể
nhưng gây rung động khoái cảm thẩm mĩ cho người thưởng thức.
Trong quan niệm về cái đẹp cần tránh hai hướng lệch lạc: sự giáo điều, khô
khan hoặc tự nhiên chủ nghĩa (câu chuyện nhà thơ - nhà soạn kịch Bertolt
Brecht đến thăm một nhà hát “ nổi tiếng “ với sự cố: một khán giả qúa xúc động
đã bắn diễn viên. Tiểu thuyết Đẹp của Khái Hưng kể chuyện họa sĩ Nam mỏi
mệt, thất vọng vì đi tìm mẫu vẽ không thỏa mãn. Trở về nhà người quen ở Hà
Nội, anh gặp lại Lan - cô bé ngày xưa gọi anh bằng chú anh không chú ý, nay
lớn lên xinh đẹp bất ngờ. Anh xúc động, say mê vẽ.Và tình yêu đến, anh cưới
Lan. Một thời gian trôi qua, anh lại thất vọng, không vẽ được nữa, Lan đã thành
thiếu phụ. Bạn bè hỏi, anh buồn bã nói: trên đời không có cái đẹp vĩnh cửu, nó
đã chết, cái đẹp rất yểu mệnh, thật là chán ! (!?) (sinh viên nên thảo luận về 2
chuyện kể trên).
4.5. Nhân vật lí tưởng (cái đẹp nhất) đi cùng lịch sử mĩ học, lịch sử nghệ thuật và lịch sử
phát triển của nhân loại: Nhân vật lí tưởng là mẫu người đẹp nhất của thời đại.
(xem phần thứ hai: Chủ thể thẩm mỹ - mục Sự thể hiện lí tưởng thẩm mĩ trong
nghệ thuật) Cái trác tuyệt
Bốn dạng trác tuyệt
•
•
•
• Cái trác tuyệt huy hoàng
Cái trác tuyệt rợn ngợp
Cái trác tuyệt thán phục
Cái trác tuyệt thanh cao 1.1 - Cái trác tuyệt huy hoàng
• •
•
•
•
•
• Ngắm nhìn toàn cảnh buổi bình minh báo hiệu một ngày đẹp trời - đó là
một cảnh tượng huy hoàng khiến ta cảm thấy khoan khoái cao độ,vui
mừng tràn ngập.
Một buổi hòa nhạc lớn hàng nghìn diễn viên với bài đồng ca hùng tráng
Bản giao hưởng số 5 của Beethoven với những giai điệu huy hoàng tràn
đầy niềm tin tất thắng vào sức mạnh con người
Trận đánh “ Điện biên phủ trên không “ chống lại máy bay B.52 của đế
quốc Mĩ ở Hà Nội cuối năm 1972
Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 do Hồ Chủ tịch viết và
đọc
Chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975
Những câu nói nổi tiếng của một số vĩ nhân, lãnh tụ, nhà văn hóa lớn trên
thế giới. (danh ngôn)...
1.2 - Cái trác tuyệt rợn ngợp:
•
•
•
•
• Cảnh biển động dữ dội, bão táp cuốn trôi tất cả, sấm chớp đầy trời
Núi lửa đang phun cuồn cuộn
Đứng nhìn cảnh rừng già mênh mông, trầm lặng, không bóng người, thiếu
những cái quen thuộc, chỉ có tiếng gió rừng xào xạc
Nghĩ đến một thời gian kéo dài thuộc về tương lai vô định và vô vọng, ta
cảm thấy rợn ngợp...
Chúng làm cho ta cảm thấy bị ức chế, dồn nén rồi dâng trào xúc cảm
mãnh liệt. 1.3 - Cái trác tuyệt thán phục:
• Hình ảnh anh Nguyễn Văn Trỗi mảnh mai quần áo trắng bình tĩnh hiên
ngang trên pháp trường khiến bao người Việt Nam cảm động, thán phục
và tự hào, khiến hàng triệu thanh niên noi theo anh • •
•
•
•
• Hình ảnh chị Uùt Tịch bụng mang dạ chửa chèo đò chở mấy đứa con nhỏ
qua sông Cổ Chiên rộng lớn, mưa bão, đò chìm, trong đêm tối chị chỉ huy
và đưa thoát các con lên bờ.
Những bài thơ ca ngợi Bác Hồ của nhà thơ Tố Hữu
Bài Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của thầy Đồ Chiểu
Tình bạn vĩ đại và cảm động của Marx và Engels
Kim Tự Tháp và bức tượng con Sphins ở Ai cập
Vạn lý trường thành, Những con đê sông Hồng, khu chùa tháp Aêng kor... 1.4 - Cái trác tuyệt thanh cao
•
•
•
•
• Ngôi nhà sàn của Bác Hồ bên hồ nước lặng lẽ
Cảnh ngôi chùa Một Cột (chùa Diên hựu) đơn sơ cũ kĩ ở Hà Nội
Mối tình của Mác và Gienny
Nghĩ về một thời gian rất dài đã thuộc về quá khứ của một đời người, một
dân tộc
Truyện Kiều của Nguyễn Du... Cái trác tuyệt thanh cao có vẻ bề ngoài giản dị, gần gũi nhưng hàm chứa những
vẻ đẹp tiềm tàng, tinh khiết tưởng như vô hạn, khiến cho ta khâm phục, rồi suy
nghĩ miên man thấy nó gần gũi thân thương lạ.
Tình cảm thẩm mĩ của cái trác tuyệt
Các phạm trù mĩ học là thể thống nhất và phân lập ở hai cực: một, nó có tính
chất bản thể (tự nó); mặt khác, nó mang tính chất giá trị học định vị (tuỳ theo
cách đánh giá của con người)
ĐỊNH NGHĨA: Cái Trác Tuyệt một mặt phản ánh bản thân tính chất đồ sộ, to
lớn, hùng vĩ, vũ bão, mạnh mẽ hay là thanh cao, tiềm tàng, sâu lắng, vô cùng
trong sáng, vô cùng thanh khiết của các sự vật khách quan, mặt khác nó phản
ánh xu hướng con người luôn luôn có khát vọng vươn tới cái vĩ đại.
Nếu cái đẹp thúc đẩy con người vươn đến cái hoàn thiện hoàn mỹ thì cái trác
tuyệt phản ánh một phẩm chất rất quan trọng là: trong khi hoàn thiện, hoàn mĩ
bản thân mình, con người còn muốn hùng vĩ hóa bản thân một cách bất tận để
đáp ứng những nhiệm vụ to lớn và bất tận của cuộc đời đang đặt ra trước con
người.
Xu hướng không ngừng nâng cao năng lực và tâm hồn con người hướng đến
cái vĩ đại đã yêu cầu mĩ học phải đề cập đến cái trác tuyệt.
Như vậy, hai tiêu chí đầu tiên để xây dựng tình cảm thẩm mĩ của cái trác tuyệt
là
• Bản thân các sự vật khách quan còn tiềm tàng biết bao năng lực to lớn
mà con người chưa thể một lúc đã phát hiện hết. • Mặt khác ngay trong bản thân con người cũng còn chứa biết bao nhiêu
khả năng hùng mạnh chưa thể một lúc sử dụng hết, phát huy hết. Khi nói về mối quan hệ giữa hai năng lực tiềm tàng này, ngay từ thời cổ Hy Lạp,
tác phẩm mĩ học Bàn về cái trác tuyệt (tác phẩm vô danh, nhưng vẫn được gán
một cách ước lệ cho nhà từ chương học Leghinnutxơ), đã nhấn mạnh: “Trong
tính bẩm sinh của nó, về bản chất, tâm hồn con người có thể đồng vọng với cái
trác tuyệt”. Nhưng đó không phải là tiếng đồng vọng thông thường, mà là “ tiếng
đồng vọng về cái vĩ đại của tâm hồn” (Đỗ Văn Khang, Lịch sử mỹ học, NXB Hà
Nội, 1983).
Để phân biệt tình cảm của cái đẹp và tình cảm của cái trác tuyệt, chúng ta cần
chú ý, khi cảm thụ cái đẹp, người bình thường cũng có thể bị cái đẹp quyến rũ.
Nhưng khi cảm thụ cái trác tuyệt, không phải bất cứ ai cũng nẩy sinh tâm hồn
trác tuyệt. Muốn có tình cảm về cái trác tuyệt, tư tưởng và cảm hứng của con
người không thể thấp kém. Những người suốt đời mắt nhìn xuống đất, trong
đầu đầy những ý nghĩ thông tục sẽ không thể “đồng vọng với cái vĩ đại”. Chỉ
những ai mà lí tưởng sống có nội dung lành mạnh, có khát vọng vươn lên cái
cao đẹp thì mới có năng lực cảm nhận “tiếng đồng vọng về cái vĩ đại của tâm
hồn”.
Tình cảm về cái trác tuyệt có cường độ mạnh với nhiệt tình hăng say đầy khát
vọng hướng về sự hùng vĩ. Tình cảm trác tuyệt chứa đựng một giá trị tổng hợp đó là thành quả cao của mối quan hệ Chân - Thiện - Mỹ- chính là chất lý tưởng
đã được xoa mình bằng “một chất dầu thánh” làm cho ngây ngất.
(Lưu ý: khi cảm thụ cái trác tuyệt rợn ngợp, trong cảm xúc của con người rõ
ràng có tồn tại yếu tố khó chịu, bó buộc, đè nén. Nhưng, điều thú vị là ở chỗ,
con người sau khi trải qua những giây phút khó chịu cảm thấy bất lực, nhỏ bé
trước những hiện tượng đồ sộ, dữ dội ngoài tự nhiên thì khi đã định thần lại, một
người có bản lĩnh se õ cảm thấy dâng trào trong tâm hồn một niềm kiêu hãnh,
rằng bão tố, sấm chớp, cảnh hoang vu, núi cao rừng thẳm, tuyết dày có gì mà
đáng sợ! Con người sẽ nhìn thẳng vào nó, và một ngày kia sẽ tìm cách chinh
phục nó. Chẳng hạn, đứng trước cảnh núi lửa đang phun nham thạch nóng
bỏng, trong một giây phút choáng ngợp ta thấy sức mạnh dữ dội kinh người của
từng đụn khói tỏa ngút trời cao. Khi trấn tĩnh, trong ta dâng trào niềm cảm khoái
vô tận, rằng sức mạnh của núi lửa cũng không phải là sức mạnh phá hoại.
Cũng vậy, khi hình nấm choáng cả góc trời của vụ thử bom nguyên tử đầu tiên
ở Arizona đã khiến cho cô gái mù tròn hai mươi tuổi ở cách xa chỗ đó 100km
phải thốt lên: “Trong phòng này có ánh sáng”, câu nói đã chứng minh cho cái
cảm quan đi từ sức mạnh của tự nhiên đến sức mạnh của con người).
Tuy nhiên, khi cảm thụ cái trác tuyệt rợn ngợp, người cảm thụ phải ở trong
trạng thái gián tiếp. Một người đang rong thuyền trên biển mà gặp sóng thần,
anh ta chỉ có cách là tìm cách chạy thoát thân. Nhưng người đứng trên bờ mà
cảm thấy con thuyền nhỏ bé kia đang thoát dần ra khỏi sóng thần thì anh ta sẽ
có cảm xúc về cái trác tuyệt cuả biển cả và cái thông minh dũng cảm của người
đi biển. Khi người đi biển trở về đúng căn nhà của người ngắm biển, cả hai This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
|