Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác – Lênin được xác định dựa trên quan điểm duy vật lịch sử. Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Nhưng bất cứ nền sản xuất nào cũng đều diễn ra trong một phương thức sản xuất nhất định tức là trong sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Kinh tế chính trị là khoa học xã hội, đối tượng nghiên cứu của nó là mặt xã hội của sản xuất, tức là quan hệ sản xuất hay là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải vật chất. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất lại tồn tại và vận động trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất tức là cơ sở hạ tầng xã hội cũng tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng, nhất là các quan hệ về chính trị, pháp lý… có tác động trở lại mạnh mẽ đối với quan hệ sản xuất. Vậy đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Kinh tế chính trị là khoa học nghiên cứu quan hệ sản xuất nhằm tìm ra bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế, phát hiện ra các phạm trù, quy luật kinh tế ở các giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. READ: quá trình tái sản xuất xã hội gồm những khâu nào? Các phạm trù kinh tế là những khái niệm phản ánh bản chất của những hiện tượng kinh tế như: hàng hóa, tiền tệ, giá trị, giá cả… Còn các quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ tất yếu, bản chất, thường xuyên, lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Quy luật kinh tế có những tính chất sau: Cũng như các quy luật khác, quy luật kinh tế là khách quan, nó xuất hiện, tồn tại trong những điều kiện kinh tế nhất định và mất đi khi các điều kiện đó không còn; nó tồn tại độc lập ngoài ý chí con người. Người ta không thể sáng tạo, hay thủ tiêu quy luật kinh tế mà chỉ có thể phát hiện, nhận thức và vận dụng quy luật kinh tế để phục vụ cho hoạt động kinh tế của mình. Quy luật kinh tế là quy luật xã hội, nên khác với các quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế chỉ phát sinh tác dụng thông qua hoạt động kinh tế của con người. Nếu nhận thức đúng và hành động theo quy luật kinh tế sẽ mang lại hiệu quả, ngược lại sẽ phải chịu những tổn thất. Khác với các quy luật tự nhiên, phần lớn các quy luật kinh tế có tính lịch sử, chỉ tồn tại trong những điều kiện kinh tế nhất định. Do đó, có thể chia quy luật kinh tế thành hai loại. Đó là các quy luật kinh tế đặc thù và các quy luật kinh tế chung. Các quy luật kinh tế đặc thù là các quy luật kinh tế chỉ tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. READ: Tổng hợp đề thi Marketing căn bản Các quy luật kinh tế chung tồn tại trong một số phương thức sản xuất. Nghiên cứu quy luật kinh tế có ý nghĩa quan trọng bởi vì các hiện tượng và quá trình kinh tế đều chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế. Quy luật kinh tế là cơ sở của chính sách kinh tế. Chính sách kinh tế là sự vận dụng các quy luật kinh tế và các quy luật khác vào hoạt động kinh tế. Nó chỉ đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả kinh tế cao khi nó phù hợp với yêu cầu của quy luật kinh tế, và đáp ứng được lợi ích kinh tế của con người. Không hiểu biết, vận dụng sai hoặc coi thường quy luật kinh tế sẽ không tránh khỏi bệnh chủ quan, duy ý chí, chính sách kinh tế sẽ không đi vào cuộc sống, thậm chí còn gây hậu quả khó lường. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị bao gồm: phương pháp biện chứng duy vật và phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin được sử dụng đối với nhiều môn khoa học. Trong kinh tế chính trị, phương pháp này đòi hỏi: khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải đặt trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng, chứ không phải là bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích luỹ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất.
Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể… Đây là phương pháp quan trọng, được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu kinh tế chính trị và một số môn khoa học xã hội khác, bởi vì nghiên cứu các khoa học này không thể tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không sử dụng được các thiết bị kỹ thuật như kính hiển vi, các thiết bị máy móc như các khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Mặt khác, bản thân các hiện tượng và quá trình kinh tế cũng phức tạp, có nhiều nhân tố tác động đến chúng, cho nên sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học làm cho việc nghiên cứu trở nên đơn giản hơn, nhanh chóng đi đến kết quả hơn. Trừu tượng hoá khoa học là phương pháp gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các hiện tượng được nghiên cứu những cái đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời, hoặc tạm gác lại một số nhân tố nào đó nhằm tách ra những cái điển hình, ổn định, vững chắc, từ đó tìm ra bản chất các hiện tượng và quá trình kinh tế, hình thành các phạm trù và phát hiện ra quy luật phản ánh những bản chất đó.
Ngoài ra, kinh tế chính trị còn sử dụng nhiều phương pháp khác như lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, các phương pháp toán học, thống kê, mô hình hoá các quá trình kinh tế được nghiên cứu, v.v.. Phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin được sử dụng đối với nhiều môn khoa học. Trong kinh tế chính trị, phương pháp này đòi hỏi: khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải đặt trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, thường xuyên vận động, phát triển không ngừng, chứ không phải là bất biến. Quá trình phát triển là quá trình tích luỹ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật cũng đòi hỏi khi xem xét các hiện tượng và quá trình kinh tế phải gắn liền với những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể… 2. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học Đây là phương pháp quan trọng, được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu kinh tế chính trị và một số môn khoa học xã hội khác, bởi vì nghiên cứu các khoa học này không thể tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không sử dụng được các thiết bị kỹ thuật như kính hiển vi, các thiết bị máy móc như các khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Mặt khác, bản thân các hiện tượng và quá trình kinh tế cũng phức tạp, có nhiều nhân tố tác động đến chúng, cho nên sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học làm cho việc nghiên cứu trở nên đơn giản hơn, nhanh chóng đi đến kết quả hơn. Trừu tượng hoá khoa học là phương pháp gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các hiện tượng được nghiên cứu những cái đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời, hoặc tạm gác lại một số nhân tố nào đó nhằm tách ra những cái điển hình, ổn định, vững chắc, từ đó tìm ra bản chất các hiện tượng và quá trình kinh tế, hình thành các phạm trù và phát hiện ra quy luật phản ánh những bản chất đó. Ngoài ra, kinh tế chính trị còn sử dụng nhiều phương pháp khác như lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, các phương pháp toán học, thống kê, mô hình hoá các quá trình kinh tế được nghiên cứu, v.v.. Tóm tắt nội dung tài liệu - ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH
TRỊ MÁC LÊNIN
Đối tượng của kinh tế chính trị Mác Lênin
Lịch sử cho thấy quá trình hình thành và phát triển môn kinh tế chính trị có
những nhận thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa trọng thương
cho rằng, đối tượng nghiên cứu của môn kinh tế chính trị là lĩnh vực lưu thông
mà chủ yếu là ngoại thương. Chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên
cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nhưng lại chỉ giới hạn ở sản
xuất nông nghiệp. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển xác định kinh tế chính trị là
khoa học khảo sát về bản chất và nguyên nhân của sự giàu có, có những phát
hiện nhất định về những quy luật kinh tế chi phối nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nhưng lại coi các quy luật của chủ nghĩa tư bản là quy luật của quá trình
lao động nói chung của loài người, phủ định tính chất lịch sử của chủ nghĩa tư
bản. Một số nhà kinh tế học hiện đại ở các nước tư bản chủ nghĩa lại tách
chính trị khỏi kinh tế, biến kinh tế chính trị thành khoa học kinh tế thuần tuý,
che đậy quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giai cấp trong chủ
nghĩa tư bản.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
được thể hiện rõ trong tác phẩm Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen. Ph.Ăngghen
đã nhấn mạnh: "Kinh tế chính trị học, theo nghĩa rộng nhất, là khoa học về
những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật
chất trong xã hội loài người... Những điều kiện trong đó người ta sản xuất sản
phẩm và trao đổi chúng, đều thay đổi tuỳ từng nước, và trong mỗi nước, lại
thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi vậy không thể có cùng một môn kinh tế chính trị
duy nhất cho tất cả mọi nước và cho tất cả mọi thời đại lịch sử được... Vậy
môn kinh tế chính trị, về thực chất là một môn khoa học có tính chất lịch sử. Nó
nghiên cứu tư liệu có tính chất lịch sử, nghĩa là một tư liệu luôn luôn thay đổi;
nó nghiên cứu trước hết là những quy luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển
của sản xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi nghiên cứu như thế xong xuôi rồi nó
mới có thể xác định ra một vài quy luật hoàn toàn có tính chất chung, thích dụng,
nói chung, cho sản xuất và trao đổi... Chẳng hạn như việc dùng tiền kim loại đã
làm cho một loạt quy luật phát huy tác dụng, những quy luật này có hiệu lực cho
bất cứ nước nào và bất cứ giai đoạn lịch sử nào mà tiền kim loại được dùng làm
phương tiện trao đổi"
Phương thức phân phối sản phẩm cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất và
trao đổi của một xã hội nhất định trong lịch sử, vào những tiền đề lịch sử của xã
hội đó. Tuy vậy, phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả thụ động của
sản xuất và trao đổi, nó cũng có tác động trở lại đối với sản xuất và trao đổi.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của một
phương thức sản xuất nhất định và tính tất yếu của sự thay thế phương thức
sản xuất đó bằng một phương thức sản xuất cao hơn. Tác phẩm Tư bản của C.
Mác là một kiểu mẫu về kinh tế chính trị theo nghĩa hẹp, trong đó phân tích sự
- phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những
nhân tố phủ định của chủ nghĩa tư bản và sự chuẩn bị những tiền đề cho sự ra
đời của phương thức sản xuất mới. Trong lời tựa viết cho lần xuất b ản th ứ
nhất tác phẩm này, C. Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu là phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với
phương thức ấy và mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận
động kinh tế của xã hội hiện đại.
V.I. Lênin cũng xác định: Kinh tế chính trị "tuyệt nhiên không nghiên cứu "sự
sản xuất" mà nghiên cứu những quan hệ xã hội giữa người với người trong sản
xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất" và phê phán quan điểm cho rằng
kinh tế chính trị là khoa học về kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ xã hội của con người hình thành
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất và vạch rõ những quy
luật điều tiết sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải đó trong
những trình độ nhất định với sự phát triển xã hội loài người. Tóm lại, đối tượng
nghiên cứu của kinh tế chính trị là phương thức sản xuất hay nói cách khác là
nó nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau
với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Các quan hệ sản xuất phải phù hợp một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi của quan hệ
sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, đẩy nhanh
hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Kinh tế chính trị không nghiên cứu bản thân đối tượng lao động và tư liệu lao
động mà nghiên cứu việc phát triển lực lượng sản xuất trong mức độ làm rõ sự
phát triển của quan hệ sản xuất do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết
định. Nó cũng không nghiên cứu bản thân của cải vật chất, mà nghiên cứu quan
hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu
dùng những của cải này.
Kinh tế chính trị cũng quan tâm đến mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng, bởi vì các quan hệ sản xuất là cơ sở của kiến trúc thượng
tầng và kiến trúc thượng tầng, nhất là quan hệ chính trị, pháp luật, v.v. tác động
trở lại quan hệ sản xuất và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu
hiện rõ nhất là vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội hiện đại.
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và tác động với
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng không phải là nghiên cứu
những biểu hiện bề ngoài của các hiện tượng kinh tế mà đi sâu vạch rõ bản
chất, tìm ra những mối liên hệ và sự lệ thuộc bên trong của các hiện tượng và
quá trình kinh tế trên cơ sở đó hình thành các phạm trù và khái niệm như hàng
hoá, tiền tệ, tư bản, thu nhập quốc dân, v.v.. Kết quả cao nhất của sự phân tích
khoa học các quan hệ sản xuất, các quá trình kinh tế nói chung là phát hiện ra
các quy luật, tính quy luật kinh tế và sự tác động của chúng nhằm mục đích ứng
dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn.
- Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ nhân quả bản chất, tất yếu,
thường xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Cũng như
các quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế có tính khách quan, không lệ thuộc
vào ý chí và nhận thức chủ quan của con người. Nhưng, khác với quy luật tự
nhiên, quy luật kinh tế chỉ xuất hiện trong quá trình hoạt động kinh tế của con
người. Vì vậy quy luật kinh tế có tính lịch sử, nó chỉ tồn tại trong những điều
kiện lịch sử nhất định. Có những quy luật kinh tế tồn tại trong mọi phương
thức sản xuất, gọi là quy luật chung (như quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật tiết kiệm
thời gian, quy luật nâng cao nhu cầu, v.v.). Lại có những quy luật kinh tế chỉ tác
động trong một số hình thái kinh tế xã hội nhất định, như quy luật giá trị, quy
luật lưu thông tiền tệ, v.v., đó là những quy luật đặc thù.
Cần chú ý rằng, quy luật kinh tế và chính sách kinh tế là hai vấn đề khác nhau.
Chính sách kinh tế là tổng thể các biện pháp kinh tế của nhà nước nhằm tác
động vào các ngành kinh tế theo những mục tiêu nhất định trong một thời gian
nhất định. Nó là một khái niệm thuộc hoạt động chủ quan của nhà nước. Khi
tình hình kinh tế thay đổi thì chính sách kinh tế cũng thay đổi theo. Nó có thể
được nhà nước sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện sau khi đã được ban hành. Nghiên
cứu kinh tế chính trị chưa phải là nghiên cứu chính sách kinh tế, nhưng việc
nghiên cứu các chính sách kinh tế đòi hỏi phải nghiên cứu kinh tế chính trị, dựa
trên cơ sở khoa học của kinh tế chính trị.
Cần phân biệt kinh tế chính trị với các môn kinh tế khác, cụ thể như: kinh tế
phát triển, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp. Giữa kinh tế chính trị và
các bộ môn nói trên có sự khác nhau về trình độ khái quát hoá. Những nguyên lý
và những quy luật kinh tế do kinh tế chính trị phát hiện có ý nghĩa phổ biến đối
với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có thể ứng dụng trong các ngành và các cơ sở
kinh tế. Còn những kết luận, những nguyên lý của các bộ môn kinh tế khác chỉ
có thể ứng dụng trong phạm vi ngành hoặc những đơn vị kinh tế thuộc ngành
đó.
Kinh tế chính trị là bộ môn khoa học cơ bản, cung cấp những nguyên lý lý luận
cho các bộ môn khoa học kinh tế khác. Đồng thời, nó định hướng cho các hoạt
động thực tiễn kinh tế. Ý nghĩa thực tiễn và sức sống của kinh tế chính trị thể
hiện ở chỗ các phạm trù, quy luật, nguyên lý của nó phản ánh sát thực tiễn kinh
tế xã hội của đất nước.
Cần có sự nhận thức đúng về sự giống nhau giữa kinh tế chính trị Mác Lênin
và kinh tế học. Không ít người đã đối lập một cách cực đoan hai môn khoa học
này. Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế cho thấy hai môn khoa học này
có chung một nguồn gốc, hay nói khác, đều nằm trong dòng phát triển của lịch
sử các học thuyết kinh tế. Trong dòng lịch sử đó, kinh tế học là một nhánh "phái
sinh" của kinh tế chính trị tư sản, nên nó chịu ảnh hưởng của A. Smith và D.
Ricardo và thích ứng với yêu cầu lịch sử cụ thể của chủ nghĩa tư bản.
- Ưu điểm của kinh tế chính trị Mác Lênin ở chỗ phát hiện những nguyên lý
chung và những quy luật trừu tượng chi phối quá trình sản xuất xã hội. Còn kinh
tế học tuy phiến diện nhưng lại có ưu điểm là vận dụng phương pháp tiếp cận
tình huống (case study) và minh hoạ bằng đồ thị, biểu đồ gắn với những hiện
tượng cụ thể diễn ra trên bề mặt xã hội. Bởi vậy, không nên đối lập một cách
cực đoan kinh tế học với kinh tế chính trị Mác Lênin. Thái độ đúng đắn nhất là
nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác Lênin, coi đó là nền tảng
phương pháp của các môn khoa học kinh tế khác, và tiếp thu có phê phán, có
chọn lọc những thành tựu khoa học của kinh tế học làm phong phú thêm kinh tế
chính trị Mác – Lênin. C. Mác đã khẳng định học thuyết của mình là hệ thống
kinh tế chính trị "mở" biện chứng và phát triển không ngừng.
Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác Lênin
Để nhận thức hiện thực khách quan và tái hiện đối tượng nghiên cứu vào tư
duy, cấu thành một hệ thống những phạm trù và quy luật, khoa học kinh tế
chính trị cũng sử dụng phép biện chứng duy vật và những phương pháp khoa
học chung như mô hình hoá các quá trình và hiện tượng nghiên cứu, xây dựng
các giả thuyết, tiến hành thử nghiệm, quan sát thống kê, trừu tượng hoá, phân
tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống... Đó là những phương pháp được sử
dụng cả trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Tuy nhiên, khác với các
môn khoa học tự nhiên, kinh tế chính trị không thể tiến hành các phương pháp
thực nghiệm trong phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử nghiệm trong đời sống
hiện thực, trong các quan hệ xã hội hiện thực. Các thử nghiệm về kinh tế đụng
chạm đến lợi ích của con người, vì vậy kiểm tra những giải pháp, thử nghiệm
cụ thể chỉ được tiến hành trong những phạm vi rất hạn chế. Do vậy, phương
pháp quan trọng của kinh tế chính trị là trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp
trừu tượng hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong
những quá trình và những hiện tượng được nghiên cứu, tách ra những cái điển
hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy
nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất
ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh
những bản chất đó. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong phương pháp này là giới
hạn của sự trừu tượng hoá. Việc loại bỏ những cái cụ thể nằm trên bề mặt của
cuộc sống phải bảo đảm tìm ra được mối quan hệ bản chất giữa các hiện
tượng dưới dạng thuần tuý nhất của nó; đồng thời phải bảo đảm không làm
mất nội dung hiện thực của các quan hệ được nghiên cứu; không được tuỳ tiện,
loại bỏ cái không được phép loại bỏ, hoặc ngược lại, giữ lại cái đáng loại bỏ.
Giới hạn trừu tượng hoá cần thiết và đầy đủ này được quy định bởi chính đối
tượng nghiên cứu. Thí dụ, để vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn
có thể và cần phải trừu tượng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ, mặc dù nó thực sự
tồn tại với mức độ ít hoặc nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng
không được trừu tượng hoá bản thân quan hệ hàng hoá tiền tệ, bởi vì tư bản
lấy quan hệ hàng hoá tiền tệ làm hình thái tồn tại của mình; hơn nữa, càng
- không được trừu tượng hoá việc chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, bởi vì
không có hàng hoá sức lao động thì chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư
bản nữa.
Trừu tượng hoá khoa học gắn liền với quá trình nghiên cứu đi từ cụ thể đến
trừu tượng, nhờ đó nêu lên những khái niệm, phạm trù và vạch ra những mối
quan hệ giữa chúng, phải được bổ sung bằng một quá trình ngược lại đi từ
trừu tượng đến cụ thể. Cái cụ thể này không còn là những hiện tượng hỗn độn,
ngẫu nhiên mà là bức tranh có tính quy luật của đời sống xã hội.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học cũng đòi hỏi gắn liền với phương pháp
kết hợp lôgíc với lịch sử.
Bởi lẽ, lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy lôgíc cũng phải bắt đầu từ đó.
Theo cách nói của Ph. Ăngghen, sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự
phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng và nhất quán về lý
luận. Nó là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng uốn nắn theo những quy luật
mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp.
CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN VÀ SỰ CẦN
THIẾT NGHIÊN CỨU NÓ
Chức năng của kinh tế chính trị Mác Lênin
Kinh tế chính trị Mác Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa
Mác Lênin, có quan hệ mật thiết với hai bộ phận kia là triết học và chủ nghĩa
xã hội khoa học. Kinh tế chính trị Mác Lênin là biểu hiện mẫu mực của sự
vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào sự phân tích kinh tế. Kinh tế chính trị
Mác Lênin thực hiện những chức năng sau đây:
Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác Lênin cung cấp những tri thức về sự vận động của các
quan hệ sản xuất, về sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất và kiến trúc thượng tầng, về những quy luật kinh tế của xã hội trong
những trình độ phát triển khác nhau của xã hội. Đó là chìa khoá để nhận thức
lịch sử phát triển của sản xuất vật chất và lịch sử phát triển của xã hội loài
người nói chung, về chủ nghĩa tư bản nói riêng để giải thích các hiện tượng và
quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn; phân tích nguyên nhân và dự báo
triển vọng, chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội.
Những tri thức do kinh tế chính trị cung cấp là cơ sở khoa học để đề ra đường
lối, chính sách kinh tế tác động vào hoạt động kinh tế, định hướng cho sự phát
triển kinh tế và cũng là cơ sở nhận thức sâu sắc đường lối, chính sách kinh tế.
Chức năng thực tiễn
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhận thức: nghiên cứu các quy luật
kinh tế là để thực hiện nhiệm vụ cải tạo thế giới. Các học thuyết kinh tế chính
trị của Các Mác trang bị cho công nhân và nhân dân lao động một công cụ đấu
tranh giai cấp mạnh mẽ, giúp họ nhận rõ sứ mệnh lịch sử của mình. Kinh tế
chính trị tuy không đưa ra những giải pháp cụ thể cho mọi tình huống trong cuộc
- sống, nhưng nó vạch ra những quy luật và những xu hướng phát triển chung,
cung cấp những tri thức và nếu thiếu chúng sẽ không giải quyết được tốt những
vấn đề cụ thể. Khi quần chúng đã nắm vững lý luận khoa học thì lý luận khoa
học sẽ trở thành lực lượng vật chất. Tính khoa học và cách mạng của kinh tế
chính trị Mác Lênin là những yếu tố quyết định hành động thực tiễn của người
học, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn đó, nhất là trong công cuộc xây
dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Chức năng phương pháp
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh tế, trong
đó có các khoa học kinh tế ngành, như kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, xây
dựng, vận tải, lao động, tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng... Ngoài ra, nó
còn là cơ sở lý luận cho một loạt khoa học kinh tế nằm giáp ranh giữa các tri
thức ngành khác nhau, như địa lý kinh tế, nhân khẩu học... Đối với các khoa học
kinh tế nói trên, kinh tế chính trị thực hiện chức năng phương pháp luận, nghĩa
là cung cấp nền tảng lý luận khoa học, mang tính đảng cho các môn khoa học
kinh tế cụ thể.
Chức năng tư tưởng
Trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật vận động và phát triển của chủ
nghĩa tư bản, kinh tế chính trị Mác Lênin đã góp phần đắc lực xây dựng thế
giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc của người học vào cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột giai cấp và dân tộc, xây dựng xã
hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa, làm cho niềm tin có một căn cứ khoa học
vững chắc đủ sức vượt qua khó khăn, kể cả những thất bại tạm thời trong quá
trình phát triển của cách mạng. Kinh tế chính trị Mác Lênin, cùng với các bộ
phận hợp thành khác của chủ nghĩa Mác Lênin, là vũ khí tư tưởng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, xây
dựng chế độ xã hội mới.
Sự cần thiết phải nghiên cứu kinh tế chính trị Mác Lênin
Kinh tế chính trị Mác Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập, nghiên cứu kinh tế
chính trị Mác Lênin càng được đặt ra một cách bức thiết, nhằm khắc phục sự
lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận với cuộc sống, góp
phần hình thành tư duy kinh tế mới.
Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, do đó những kiến thức, khái niệm, phạm trù, quy luật... của kinh tế
thị trường mà kinh tế chính trị đưa ra là cực kỳ cần thiết không chỉ đối với quản
lý kinh tế vĩ mô, mà còn cần thiết cho việc quản lý sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư.
Đối với sinh viên ở các trường kinh tế, học tập kinh tế chính trị Mác Lênin để
có cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt các môn khoa học kinh
tế khác vì các môn kinh tế khác đều phải dựa vào các kiến thức, các phạm trù
kinh tế và các quy luật mà kinh tế chính trị Mác Lênin nêu ra.
- Nói về tầm quan trọng của việc học tập kinh tế chính trị và khoa học xã hội nói
chung, Đại hội VII của Đảng đặt ra yêu cầu cải tiến nội dung và phương pháp
nghiên cứu giảng dạy khoa học xã hội, trước hết là chủ nghĩa Mác Lênin theo
hướng lý luận gắn chặt với thực tiễn, nâng cao năng lực thực hành, khoa học xã
hội phải trở thành công cụ sắc bén trong việc đổi mới tư duy, xây dựng ý thức
và nhân cách xã hội chủ nghĩa, khắc phục những tư tưởng sai lầm... Đại hội lần
thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: Khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên
cứu những luận cứ cho việc tạo động lực phát huy sức mạnh của toàn dân tộc,
tiếp tục đổi mới sâu rộng, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội X, Đảng ta nêu rõ: "Phát triển khoa học xã
hội hướng vào việc tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, giải đáp những
vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bước đi công
nghiệp hoá, hiện đại hoá...".
Page 2 YOMEDIA Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin được trình bày với các nội dung chính: Đối tượng của kinh tế chính trị Mác - Lênin, phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin, chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lênin và sự cần thiết nghiên cứu nó,... Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo tài liệu. 06-09-2016 1546 22 Download Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.
|