Đánh giá theo định hướng pisa năm 2024

  1. Trang chủ
  2. Tin tức - Sự kiện
  3. Tập huấn vận dụng cách đánh giá PISA vào nhà trường phổ thông

Quản trị 04/07/2014 Lượt xem: 1429


Ngày 03 và 04/7/2014, Sở GDĐT phối hợp với Trung tâm đánh giá chất lượng giáo dục thuộc Bộ GDĐT tổ chức tập huấn cho 134 cán bộ quản lý, giáo viên các trường phổ thông trong toàn tỉnh về vận dụng cách đánh giá học sinh theo chuẩn quốc tế (viết tắt là PISA) vào nhà trường phổ thông.

Tham gia hội thảo tập huấn, các học viên đã được nghe giới thiệu tổng quan về PISA, quy trình đánh giá trên diện rộng theo chuẩn quốc tế PISA và cách vận dụng vào đánh giá trong nhà trường, đánh giá cấp tỉnh. Bên cạnh đó, các học viên đã tiến hành xây dựng các bài kiểm tra trong nhà trường phổ thông dựa trên các kỹ thuật xây dựng các bài thi và các kỹ thuật trả lời câu hỏi của PISA.

Đánh giá theo định hướng pisa năm 2024

Lớp tập huấn nhằm giới thiệu cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và các giáo viên hiểu biết về chương trình đánh giá học sinh quốc tế, hướng dẫn cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên vận dụng cách đánh giá PISA vào trong quá trình kiểm tra, đánh giá ở các trường phổ thông, tạo tâm thế để hội nhập quốc tế về đánh giá giáo dục.

Việc vận dụng cách đánh giá PISA vào giáo dục phổ thông là hoạt động quan trọng; bởi có thể sử dụng kết quả của đánh giá này để thể hiện cách thức học sinh được chuẩn bị học tập tốt hơn tại Việt Nam. Đồng thời, thông qua chương trình này, các trường, các hệ thống giáo dục có thể xác định những lĩnh vực cần cải thiện, cho phép so sánh việc học tập và môi trường học tập của học sinh giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.

TỔNG QUAN VỀ PISA

PISA là Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (The Programme for International Student Assessment) được xây dựng và điều phối bởi tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) vào cuối thập kỉ 90 và hiện vẫn diễn ra đều đặn, mục tiêu là hiểu rõ các đặc trưng và trình độ của học sinh, đồng thời so sánh học sinh giữa các nước trên thế giới. Khảo sát PISA được thiết kế nhằm đưa ra đánh giá có chất lượng và đáng tin cậy về hiệu quả của hệ thống giáo dục (chủ yếu là đánh giá năng lực của học sinh trong lĩnh vực Đọc hiểu, Toán học và Khoa học) với đối tượng là học sinh trong độ tuổi sắp kết thúc giáo dục bắt buộc ở hầu hết các nước thành viên OECD. PISA cũng hướng đến thu thập thông tin cơ bản về ngữ cảnh dẫn đến những hệ quả giáo dục trên. Do đó, PISA không chỉ đơn thuần là một dự án nghiên cứu mặc dù các dữ liệu thu được từ PISA nhận được rất nhiều sự quan tâm của các quốc gia, các học giả, nhà nghiên cứu và các đối tác giáo dục khác.

Việt Nam đã đăng kí tham gia lần đầu tiên chương trình đánh giá học sinh quốc tế (gọi tắt là PISA) chu kì 2012, chính thức trở thành thành viên của PISA OECD từ tháng 11 năm 2009, bắt đầu triển khai các hoạt động PISA từ tháng 3 năm 2010. Lần đầu tiên Việt Nam đăng ký tham gia PISA năm 2012. Mặc dù kinh tế Việt Nam thấp nhất trong số 65 nước tham gia PISA nhưng kết quả thi rất đáng tự hào: nước ta đứng trong top 20 quốc gia và vùng kinh tế, có điểm chuẩn các lĩnh vực cao hơn điểm trung bình của OECD. Cụ thể: về Toán học, Việt Nam đứng thứ 17/65 (điểm trung bình là 494 thì Việt Nam đạt 511), về Đọc hiểu, Việt Nam đứng thứ 19/65, (điểm trung bình là 496 thì Việt Nam đạt 508) và Khoa học đứng thứ 8/65 (điểm trung bình Mean Score là 501, Việt Nam đạt 528). Sắp tới, Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia kỳ khảo sát PISA vào năm 2015.

Chúng ta cũng từng nghe nói đến PISA và những tranh luận về kết quả về đánh giá theo PISA. Bài viết này tổng hợp từ tư liệu của Văn phòng PISA Việt Nam để muốn chia sẻ với các bạn những bài toán nhằm đánh giá học sinh lứa tuổi 15 về Toán học để cùng tham khảo.

PISA LÀ GÌ ?

Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (The Programme for International Student Assessment) - PISA được xây dựng và điều phối bởi tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) vào cuối thập niên 90 và hiện vẫn diễn ra đều đặn. Khảo sát PISA được thiết kế nhằm đưa ra đánh giá có chất lượng và đáng tin cậy về hiệu quả của hệ thống giáo dục (chủ yếu là đánh giá năng lực của học sinh trong các lĩnh vực Đọc hiểu, Toán học và Khoa học) với đối tượng là học sinh ở độ tuổi 15, tuổi sắp kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc ở hầu hết các nước thành viên OECD. PISA cũng hướng đến thu thập thông tin cơ bản về ngữ cảnh dẫn đến những hệ quả giáo dục trên. Càng ngày PISA càng thu hút được sự quan tâm và tham gia của nhiều nước trên thế giới. Do đó, PISA không chỉ đơn thuần là một chương trình nghiên cứu đánh giá chất lượng giáo dục của OECD mà trở thành xu hướng đánh giá quốc tế, tư tưởng đánh giá của PISA trở thành tư tưởng đánh giá học sinh trên toàn thế giới. Các nước muốn biết chất lượng giáo dục của quốc gia mình như thế nào, đứng ở đâu trên thế giới này đều phải đăng ký tham gia PISA.

PISA được tiến hành dưới sự phối hợp quản lí của các nước thành viên OECD, cùng với đó là sự hợp tác ngày càng nhiều của các nước không thuộc OECD, được gọi là “các nước đối tác”. Tổ chức OECD giám sát chương trình thông qua ban điều hành PISA (PGB) và quản lí chương trình thông qua cơ quan thư kí đặt trụ sở tại Pari.

Trong mỗi kì PISA, OECD lại chọn ra một nhà thầu quốc tế, quá trình chọn lựa này mang tính cạnh tranh và được diễn ra công khai. Khảo sát PISA được tổ chức 3 năm một lần. Mặc dù mỗi kì đều kiểm tra kiến

thức thuộc ba lĩnh vực chính, nhưng lĩnh vực trọng tâm sẽ được lựa chọn quay vòng, để từ đó các dữ liệu chi tiết được cập nhật liên tục theo chu kỳ đối với mỗi lĩnh vực, và được so sánh đánh giá chuyên sâu sau 9 năm một lần.

PISA không kiểm tra kiến thức thu được tại trường học mà đưa ra cái nhìn tổng quan về khả năng phổ thông thực tế của học sinh. Bài thi chú trọng khả năng học sinh vận dụng kiến thức và kĩ năng của mình khi đối mặt với nhiều tình huống và những thử thách liên quan đến các kĩ năng đó. Nói cách khác, PISA đánh giá khả năng học sinh vận dụng kiến thức và kĩ năng đọc để hiểu nhiều tài liệu khác nhau mà họ có khả năng sẽ gặp trong cuộc sống hàng ngày; khả năng vận dụng kiến thức Toán học vào các tình huống liên quan đến toán học; khả năng vận dụng kiến thức khoa học để hiểu và giải quyết các tình huống khoa học. Cấu trúc bài thi PISA được thiết kế theo khung đánh giá của OECD, xác định rõ phạm vi kiến thức, các kĩ năng liên quan đến từng lĩnh vực và đưa ra những câu hỏi mẫu để hướng dẫn các nước xây dựng câu hỏi đóng góp cho OECD.

Khảo sát PISA đánh giá học sinh ở độ tuổi 15 (15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng). Đây là một cuộc khảo sát theo độ tuổi chứ không phải theo cấp bậc lớp học. Mục đích của cuộc khảo sát là nhằm đánh giá xem học sinh đã được chuẩn bị để đối mặt với những thách thức của cuộc sống xã hội hiện đại ở mức độ nào trước khi bước vào cuộc sống.

ĐỀ THI PISA

PISA kỳ thi đầu tiên là năm 2000, bài thi thực hiện trên giấy đánh giá 3 lĩnh vực: Đọc hiểu, Toán học và Khoa học.

Đến năm 2006, PISA có thêm bài thi đánh giá trên máy tính, ngoài 3 lĩnh vực trên có thêm đánh giá kỹ năng giải quyết vấn đề. Mỗi chu kỳ lại có thêm 1 vài lĩnh vực mới được phát triển.

Đến chu kỳ PISA 2015, bài thi trên máy tính đánh giá các lĩnh vực: Đọc hiểu, Toán học, Khoa học, năng lực giải quyết vấn đề hợp tác, năng lực tài chính, năng lực sử dụng máy tính. Riêng lĩnh vực Khoa học, lĩnh vực trọng tâm của kỳ thi PISA 2015, bài thi trên máy tính có nhiều câu hỏi mới hiện đại hơn các câu hỏi thi trên giấy.

Trong phần này, chúng ta nghiên cứu về 3 lĩnh vực đánh giá trên giấy mà học sinh Việt Nam sẽ tham gia. Các khung đánh giá năng lực Toán học, Khoa học, Đọc hiểu của PISA 2015 đã có thay đổi, phát triển ở tầm cao hơn so với khung đánh giá các lĩnh vực này ở chu kỳ PISA 2012.

Quyển đề thi PISA (Booklet) bao gồm nhiều bài tập (Unit), mỗi bài tập gồm một hoặc một số câu hỏi (Items). Trung bình mỗi quyển đề thi có khoảng 50-60 câu hỏi. Tổng số bài tập trong toàn bộ đề thi PISA sẽ được chia ra thành các đề thi khác nhau để đảm bảo các học sinh ngồi gần nhau không làm cùng một đề và không thể trao đổi hoặc nhìn bài nhau trong quá trình thi. Mỗi đề thi sẽ đánh giá một số nhóm năng lực nào đó của một lĩnh vực nào đó và được đóng thành "Quyển đề thi PISA" để phát cho học sinh. Thời gian để học sinh làm một quyển đề thi là 120 phút. Học sinh phải dùng bút chì để làm trực tiếp vào "Quyển đề thi PISA" (học sinh được phép sử dụng các đồ dùng khác như giấy nháp, máy tính bỏ túi, thước kẻ, com–pa, thước đo độ,... theo sự cho phép của người coi thi).

Kĩ thuật thiết kế đề thi cho phép mỗi đề thi sẽ có đủ số học sinh tham gia làm đề thi đó nhằm mục đích đảm bảo giá trị khi thực hiện thống kê phân tích các kết quả. Năm 2012, các câu hỏi thi PISA ở lĩnh vực Toán, Khoa học, Đọc hiểu được tổ hợp thành 13 quyển đề thi (booklet) khác nhau (mỗi quyển đề thi học sinh thực hiện trong 120 phút). Mỗi học sinh sẽ được xác định ngẫu nhiên để làm một trong 13 đề. Năng lực phổ thông của PISA được đánh giá qua các Unit (bài tập) bao gồm phần dẫn “stimulus material” (có thể trình bày dưới dạng chữ, bảng, biểu đồ,…) và theo sau đó là một số câu hỏi (item) được kết hợp với tài liệu này. Đây là một điểm quan trọng trong cách ra đề. Nó cho phép các câu hỏi đi sâu hơn (so với việc sử dụng các câu hỏi hoàn toàn riêng rẽ – mỗi câu hỏi lại đặt trong một bối cảnh mới hoàn toàn). Điều này cũng cho phép học sinh có thời gian suy nghĩ kĩ càng tài liệu (do ít tình huống hơn) mà sau đó có thể được sử dụng trong đánh giá ở những góc độ khác nhau. Nó cũng cho phép thuận lợi hơn trong việc gắn 12 với tình huống thực trong cuộc sống. Việc cho điểm của các câu trong một Unit là độc lập.

Các kiểu câu hỏi được sử dụng (trong các UNIT):

- Câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn (Multiple choice);

- Câu hỏi Có – Không, Đúng – Sai phức hợp (Yes – No; True – False complex);

- Câu hỏi đóng đòi hỏi trả lời (dựa trên những trả lời có sẵn) (Close – constructed response question);

- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời ngắn (Short response question);

- Câu hỏi mở đòi hỏi trả lời dài (khi chấm sẽ phải tách ra từng phần để cho điểm) (Open – constructed` response question);

LĨNH VỰC TOÁN HỌC CỦA PISA 2015

Xác định năng lực Toán học

Sự hiểu biết về toán học là trung tâm của sự sẵn sàng của một người trẻ tuổi dành cho cuộc sống ở xã hội hiện đại. Tỷ lệ các vấn đề và tình huống gặp phải trong cuộc sống hàng ngày đang gia tăng, kể cả trong ngữ cảnh chuyên môn, yêu cầu có độ hiểu biết về toán học, suy luận toán học và các công cụ toán học, trước khi có thể hiểu rõ và giải quyết các vấn đề này. Toán học là một công cụ quan trọng cho người trẻ khi họ đương đầu với các vấn đề và thách thức trong khía cạnh cá nhân, nghề nghiệp, xã hội, khoa học trong cuộc sống. Đánh giá ở tuổi 15 cung cấp sự biểu lộ sớm về việc các cá nhân có thể đáp ứng như thế nào với các tình huống đa dạng có liên quan đến toán học mà các em sẽ gặp phải trong cuộc sống sau này.

Là cơ sở của đánh giá quốc tế học sinh tuổi 15, câu hỏi đưa ra là: “Điều gì quan trọng mà công dân cần biết và có thể làm trong các tình huống liên quan đến toán học?" Cụ thể hơn, khả năng toán học có ý nghĩa như thế nào đối với một người tuổi 15, đang học hoặc chuẩn bị theo đuổi ngành đào tạo chuyên sâu trong sự nghiệp hoặc nhập học đại học? Điều quan trọng là cấu trúc năng lực toán học, được sử dụng trong báo cáo này là thể hiện khả năng cá nhân về lập công thức (formulate), vận dụng (employ) và giải thích (interpret) toán học ở nhiều ngữ cảnh, chứ không phải là ở mức thấp hoặc tối thiểu về kiến thức và kỹ năng. Thay vào đó là mô tả (describe), giải thích (explain) và dự đoán (predict) các hiện tượng. Quan niệm về năng lực toán học này hỗ trợ cho tầm quan trọng trong việc phát triển sự hiểu biết thấu đáo của học sinh về các khái niệm toán học thuần túy và lợi ích của các em khi được tham gia vào cuộc thám hiểm trong thế giới trừu tượng của toán học.

Cấu trúc về năng lực toán học, theo định nghĩa PISA, đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển năng lực của học sinh trong việc sử dụng toán học theo ngữ cảnh, và điều quan trọng là các em có trải nghiệm toán học phong phú trên lớp để thực hiện công việc này. Điều này là đúng đối với học sinh tuổi 15, vốn là đối tượng gần với chương trình đào tạo chính thức cuối cùng về toán học, cũng như đối với đối tượng sẽ tiếp tục nghiên cứu toán học chính thức. Ngoài ra, có thể suy luận rằng đối với hầu hết học sinh, động lực học toán tăng lên khi các em nhìn thấy mối liên quan giữa nội dung đang học với thế giới bên ngoài lớp học và với các môn khác.

Năng lực toán học tự nhiên sẽ vượt qua ranh giới độ tuổi. Tuy nhiên, đánh giá học sinh tuổi 15 phải tính đến những đặc điểm liên quan tới đối tượng học sinh này; vì vậy, cần xác định nội dung, ngôn ngữ và ngữ cảnh phù hợp với lứa tuổi. Khung này phân biệt giữa các loại nội dung bao quát, quan trọng đối với năng lực toán học của từng cá nhân nói chung và các chủ đề nội dung cụ thể phù hợp với học sinh tuổi Năng lực toán học không phải là tính chất mà cá nhân có hoặc không có, mà đó là tính chất ở một miền liên tục, với một số cá nhân có năng lực toán học tốt hơn so với những người khác - và luôn có tiềm năng phát triển.

Năng lực toán học được định nghĩa như sau: “Năng lực toán học là khả năng của cá nhân biết lập công thức (formulate), vận dụng (employ) và giải thích (explain) toán học trong nhiều ngữ cảnh. Nó bao gồm suy luận toán học và sử dụng các khái niệm, phương pháp, sự việc và công cụ để mô tả, giải thích và dự đoán các hiện tượng. Nó giúp cho con người nhận ra vai trò của toán học trên thế giới và đưa ra phán đoán và quyết định của công dân biết góp ý, tham gia và suy ngẫm”.

Đánh giá năng lực Toán học phổ thông trong PISA

Năng lực phổ thông (literacy) là khái niệm quan trọng xác định nội dung đánh giá của PISA, xuất phát từ sự quan tâm tới những điều mà học sinh sau giai đoạn giáo dục cơ bản cần biết và có khả năng thực hiện được những điều cần thiết, chuẩn bị cho cuộc sống trong xã hội hiện đại.

Năng lực Toán học phổ thông (Mathematical literacy) là khả năng nhận biết ý nghĩa, vai trò của kiến thức toán học trong cuộc sống; vận dụng và phát triển tư duy toán học để giải quyết các vấn đề của thực tiễn, đáp ứng nhu cầu đời sống hiện tại và tương lai một cách linh hoạt; là khả năng phân tích, suy luận, lập luận, khái quát hóa, trao đổi thông tin hiệu quả thông qua việc đặt ra, hình thành và giải quyết vấn đề toán học trong các tình huống, hoàn cảnh khác nhau, trong đó chú trọng quy trình, kiến thức và hoạt động.

Năng lực Toán học phổ thông không đồng nhất với khả năng tiếp nhận nội dung của chương trình toán trong nhà trường phổ thông truyền thống, mà điều cần nhấn mạnh đó là kiến thức toán học được học, vận dụng và phát triển như thế nào để tăng cường khả năng phân tích, suy luận, lập luận, khái quát hóa và phát hiện được những tri thức toán học ẩn dấu bên trong các tình huống, các sự kiện.

Các cấp độ năng lực Toán học trong PISA

PISA đề cập đến 3 cấp độ năng lực Toán học phổ thông:

Đánh giá theo định hướng pisa năm 2024
Đánh giá theo định hướng pisa năm 2024
3 cấp độ đánh giá năng lực theo PISA

Việc đánh giá theo PISA khác với đánh giá truyền thống, đòi hỏi không chỉ chú ý đến nội dung kiến thức học sinh đã tiếp thu được, mà còn chú trọng đánh giá những năng lực, quá trình hình thành các kĩ năng (processes skills) cho học sinh.

4 loại ngữ cảnh được xác định và sử dụng để phân loại các câu hỏi

- Cá nhân (Personal): các vấn đề phân loại theo ngữ cảnh cá nhân loại sẽ tập trung vào các hoạt động bản thân, gia đình hoặc một nhóm đồng niên của một người nào đó. Các loại ngữ cảnh cá nhân gồm có (nhưng không giới hạn) về chuẩn bị bữa ăn, mua sắm, trò chơi, sức khỏe cá nhân, giao thông cá nhân, thể thao, du lịch, lập kế hoạch cá nhân và tài chính cá nhân.

- Nghề nghiệp (Occupational): những vấn đề xếp vào loại ngữ cảnh nghề nghiệp có nội dung về thế giới việc làm. Nội dung có thể là (nhưng không giới hạn) đo lường, chi phí và đặt hàng vật liệu xây dựng, sổ lương / kế toán, kiểm soát chất lượng, lập danh mục / kiểm kê, thiết kế / kiến trúc và công việc ra quyết định. Ngữ cảnh lao động còn liên quan tới lực lượng lao động, từ công việc lao động phổ thông đến công tác chuyên môn mức cao nhất.

- Xã hội (Societal): những vấn đề phân loại theo ngữ cảnh xã hội sẽ có nội dung trọng tâm về cộng đồng (địa phương, quốc gia hay toàn cầu) của cá nhân nào đó. Nội dung có thể là (nhưng không giới hạn) những thứ như hệ thống bầu cử, giao thông công cộng, chính phủ, chính sách công, nhân khẩu học, quảng cáo, thống kê quốc gia và nền kinh tế. Do con người đều liên quan tới tất cả những mặt này theo phương diện cá nhân, nên nội dung trọng tâm của các loại ngữ cảnh xã hội sẽ dựa trên quan điểm của cộng đồng.

- Khoa học (Scientific): những vấn đề phân loại theo dạng khoa học đều có liên tới ứng dụng toán học vào thế giới tự nhiên, các vấn đề và chủ đề liên quan đến khoa học và công nghệ. Các ngữ cảnh cụ thể có thể bao gồm (nhưng không giới hạn) các lĩnh vực như thời tiết, khí hậu, sinh thái học, y học, khoa học không gian, di truyền học, đo lường và thế giới của toán học.

Các câu hỏi PISA được sắp xếp theo bài thi (unit) và có chung một phần dẫn (stimulus material). Do đó, tất cả các câu hỏi ở cùng một bài thi thường thuộc về cùng một ngữ cảnh. Tuy nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ xảy ra, ví dụ: phần dẫn có thể được kiểm tra xem xét từ quan điểm cá nhân ở một câu hỏi và từ một quan điểm xã hội ở câu hỏi khác.

Các nội dung chủ đề đánh giá năng lực toán học cho học sinh ở độ tuổi 15

- Các hàm số (Functions): khái niệm về hàm số, nhấn mạnh nhưng không giới hạn về hàm số tuyến tính (linear functions), tính chất, các phần mô tả và phép biểu diễn về chúng. Các phép biểu diễn thường được dùng là lời nói, kí hiệu, bảng và đồ họa.

- Biểu thức đại số (Algebraic expressions): diễn giải bằng lời của và thao tác trên các biểu thức đại số có liên quan tới số, kí hiệu, phép tính số học, lũy thừa và nghiệm đơn.

- Phương trình và bất đẳng thức (Equations and inequalities): phương trình và bất đẳng thức tuyến tính và có liên quan, phương trình căn bậc hai đơn, các phương pháp giải toán theo giải tích và không phân tích.

- Hệ thống tọa độ (Co-ordinate systems): các phép biểu diễn và mô tả dữ liệu, vị trí và các mối quan hệ.

- Những mối quan hệ bên trong và giữa các đối tượng hình học ở hai và ba chiều (Relationships within and among geometrical objects in two and three dimensions): các mối quan hệ tĩnh như các tính liên thông đại số của số liệu (ví dụ: định lý Pitago dùng để xác định mối liên hệ giữa chiều dài các cạnh của tam giác vuông), vị trí tương đối, đồng dạng và đồng dư, các mối quan hệ động liên quan tới các phép biến đổi và chuyển động của đối tượng cũng như tính tương ứng giữa các đối tượng hai và ba chiều.

- Phép đo (Measurement): định lượng về tính năng của và giữa các hình khối và đối tượng, như các phép đo góc, khoảng cách, độ dài, chu vi, chu vi, diện tích và khối lượng.

- Số và các đơn vị (Numbers and units): các khái niệm, phép biểu diễn con số và các hệ thống con số, bao gồm những tính chất về số nguyên và hữu tỉ, số vô tỉ, số lượng và các đơn vị đề cập tới những hiện tượng như thời gian, tiền bạc, trọng - lượng, nhiệt độ, khoảng cách, diện tích, khối lượng, nguồn gốc số lượng và mô tả bằng con số về chúng.

- Các phép tính số học (Arithmetic operations): bản chất và tính chất của các phép tính này và các quy ước có liên quan.

- Phần trăm, tỷ lệ và tỷ lệ thức (Percents, ratios and proportions): mô tả bằng con số về độ lớn tương đối và áp dụng tỷ lệ thức và tư duy theo tỉ lệ để giải đề.

- Nguyên tắc tính toán (Counting principles): tổ hợp và hoán vị đơn.

- Ước lượng (Estimation): phép xấp xỉ về số lượng theo mục đích và biểu thức số, gồm có cả số và số làm tròn.

- Thu thập dữ liệu, phép biểu diễn và diễn giải (Data collection, representation and interpretation): bản chất, nguồn gốc và tập hợp nhiều dạng dữ liệu, nhiều cách khác nhau để biểu diễn và diễn giải chúng.

- Dữ liệu biến thiên và mô tả về chúng (Data variability and its description): những khái niệm như biến thiên, phân phối và xu hướng tập trung các bộ dữ liệu, những cách mô tả và diễn giải chúng theo điều kiện định lượng.

- Mẫu và chọn mẫu (Samples and sampling): những khái niệm về chọn mẫu và chọn mẫu từ những tập hợp dữ liệu, gồm có suy luận đơn giản dựa trên tính chất của mẫu.

- Biến đổi và xác suất (Chance and probability): khái niệm về sự kiện ngẫu nhiên, biến thiên ngẫu nhiên và phép biểu diễn cho chúng, biến đổi và xác suất của các sự kiện, những khía cạnh cơ bản của khái niệm xác suất.

Độ khó của các câu hỏi

Có các câu hỏi để thử thách những học sinh có khả năng nhất và cả những câu hỏi phù hợp với đối tượng học sinh có khả năng kém nhất theo đánh giá toán học. Từ góc độ tâm lý, cuộc khảo sát được thiết kế để đo lường một nhóm cá nhân cụ thể chính là hiệu quả nhất và đạt hiệu quả khi độ khó của câu hỏi phù hợp với khả năng của các đối tượng đo. Hơn nữa, những quy mô về khả năng thành thạo đã nêu sẽ được sử dụng làm phần chính ở báo cáo kết quả PISA và chỉ bao gồm các chi tiết hữu ích cho tất cả học sinh nếu rút ra được mức độ khả năng đã nêu từ các câu hỏi đó.

Khảo sát toán học ở PISA bao gồm những đơn vị đánh giá có tài liệu dẫn bằng lời (verbal stimulus material) và thường là những thông tin khác như bảng biểu, biểu đồ, đồ thị hoặc sơ đồ, cùng với một hoặc nhiều câu hỏi có liên kết với tài liệu dẫn chung này. Định dạng này sẽ mang lại cơ hội cho học sinh tham gia vào ngữ cảnh hoặc vấn đề khi các em trả lời một loạt các câu hỏi có liên quan tới phần dẫn.

Tuy nhiên, do mô hình đo lường dùng để phân tích dữ liệu PISA là câu hỏi độc lập, vì vậy, bất cứ khi sử dụng những bài thi (unit) có nhiều câu hỏi (item), mục đích của người ra câu hỏi thi là cần đảm bảo sự độc lập tối đa giữa các câu hỏi.

PISA áp dụng cấu trúc bài thi này để tạo điều kiện sử dụng nhiều tình huống càng thực tế càng tốt, ngoài ra còn phản ánh sự phức tạp của tình hình thực tế, song song với việc sử dụng hiệu quả thời gian thi. Tuy nhiên, cần đảm bảo là phạm vi ngữ cảnh chỉ vừa phải để tối thiểu hóa độ chệch (bias) và tối đa hóa câu hỏi độc lập.

Các câu hỏi (item) được chọn đưa vào khảo sát PISA thể hiện cho một loạt khó khăn thử thách, để phù hợp với mức độ khả năng của học sinh tham dự đánh giá.

Ngoài ra, tất cả các dạng đánh giá chính (theo nội dung, theo quy trình và theo ngữ cảnh) cũng được thể hiện tùy theo mức độ bằng những câu hỏi theo nhiều độ khó riêng. Độ khó câu hỏi chính là một trong nhiều thuộc tính đo lường trong khảo sát thử nghiệm mở rộng trước khi lựa chọn câu hỏi dùng trong khảo sát chính thức PISA.

Đánh giá theo định hướng pisa năm 2024
Đánh giá theo định hướng pisa năm 2024
6 mức độ trong đánh giá theo PISA 2012

Các bạn có thể tải các bài toán của PISA tại đây để tham khảo.

Nguồn: Tài liệu tập huấn năm 2015 của Văn phòng PISA Việt Nam.

BigSchool: Cách đánh giá theo PISA cũng còn nhiều ý kiến, xin chia sẻ ý kiến trong bài nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa, Lê Diễm Phúc, Nguyễn Thị Thu Hà, trường ĐHNN, ĐHQG HN (Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 32, Số 1 (2016) 58-65):

Những ý kiến phê phán PISA

Theo OECD [14], PISA có những hạn chế về mặt phương pháp khảo sát như sau:

PISA khảo sát “kiến thức và kỹ năng” suốt đời và không tập trung vào các nội dung trong “chương trình học”. Điều này hạn chế khả năng mà PISA có thể khám phá mối quan hệ giữa sự khác nhau về kết quả học sinh và sự khác nhau của chương trình học đang và dự tính được tiến hành.

Học sinh tham gia PISA được chọn ngẫu nhiên trong các trường, và không thuộc về một lớp học hoặc khóa học cố định và do vậy đến từ nhiều môi trường học tập khác nhau với giáo viên khác nhau và, có thể, các cấp độ giảng dạy khác nhau. Do vậy, các biến số ở cấp độ lớp học, bao gồm biến số về trình độ giáo viên, chỉ có thể thu thập được ở cấp độ từng học sinh hoặc ở cấp độ nhà trường. Bởi thế, PISA không cung cấp thông tin hoặc các đề xuất cụ thể về phương pháp giảng dạy.

PISA chọn mẫu dựa trên độ tuổi của nhóm đối tượng khảo sát. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các khảo sát định hướng kết quả, và giúp cung cấp cơ sở để xem xét tỉ mỉ các vấn đề chính sách quan trọng, như ảnh hưởng của một số các đặc điểm cấu trúc tới hệ thống giáo dục (vd: việc áp dụng các chương trình học “đại trà” so với các chương trình “chuyên”, hoặc việc học lại). Mặt khác, việc bao gồm cả các nước ngoài OECD trong khảo sát (ở những nước này tỉ lệ đi học của nhóm học sinh ở độ tuổi 15 có thể thấp hơn 100%) yêu cầu phải xét đến tỉ lệ nhóm học sinh ở độ tuổi 15 còn đi học khi so sánh khác biệt giữa các quốc gia.

Ngoài ra, một số tác giả cũng chỉ ra những khiếm khuyết của PISA. Ví dụ, PISA chưa đạt được tham vọng kiểm tra những kĩ năng thực dùng trong cuộc sống [15], các hạn chế về phương pháp đã làm giới hạn số lượng những năng lực có thể được đo đạc trên diện đánh giá rộng, và do đó, PISA không thể bao quát toàn bộ tất cả những kĩ năng có thể giúp cho giới trẻ thành công, hoặc sự thiếu hụt về tính hiệu lực (validity) và tính tin cậy (reliability) của các kết quả PISA [16].

Thêm nữa, một số người còn có ý kiến cho rằng PISA đã trở thành phương tiện để tuyên truyền chính sách, trong đó các ý kiến cố vấn được xây dựng trên nền tảng là những số liệu hời hợt và những phân tích không hoàn chỉnh. Chủ yếu những lời phê bình này đến từ Đức, quốc gia chịu ảnh hưởng rõ rệt của PISA.

Ở Phần Lan cũng diễn ra nhiều tranh luận, một phần là vì học sinh ở nước này làm tốt trong bài kiểm tra PISA nhưng lại có kết quả khá kém trong bài kiểm tra TIMSS vào năm 1999 [17].

Việc Việt Nam đạt thứ hạng cao trong kì đánh giá PISA 2012 (thứ 8 về Khoa học/ 528 điểm, thứ 17 về môn Toán/511 điểm, và thứ 19 về môn Đọc hiểu/508 điểm) đã làm dậy sóng truyền thông và cũng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học nói chung, khoa học giáo dục nói riêng, và đặc biệt là của đông đảo người dân. Ý kiến phê phán phương pháp khảo sát của PISA thì ít (nổi bật có bài của tác giả Nguyễn Văn Tuấn chỉ ra một số lỗi trong thống kê) [18], đa phần các tác giả chỉ trích PISA vì họ đã tự khoác cho PISA một “chiếc áo” không phải của PISA. Như OECD tuyên bố, PISA không đánh giá chất lượng của một nền giáo dục, PISA chỉ đánh giá học sinh ở giai đoạn chuẩn bị kết thúc thời gian học tập bắt buộc về kiến thức và kĩ năng cần thiết cho việc sống và làm việc trong xã hội, tập trung vào ba mảng kĩ năng cơ bản (khoa học, đọc hiểu, và toán học). PISA là một nghiên cứu so sánh đánh giá giáo dục quốc tế lớn nhất từ trước đến nay, bởi thế nên việc còn tồn tại những hạn chế, từ đó mà tạo ra những ý kiến tranh luận trái chiều cũng là điều dễ hiểu. Và qua mỗi kì đánh giá PISA, OECD đã nỗ lực hoàn thiện bộ công cụ đánh giá, qua đó thêm nhiều kĩ năng quan trọng khác cần thiết cho cuộc sống của người học sau này cũng được đánh giá chứ không chỉ dừng ở những kĩ năng cơ bản như đã nói ở trên: PISA 2003 bổ sung đánh giá kĩ năng giải quyết vấn đề, PISA 2012 bổ sung đánh giá kĩ năng tài chính và kĩ năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, PISA 2015 bổ sung đánh giá kĩ năng hợp tác giải quyết vấn đề.

Tài liệu dẫn:

[15] Schleicher, A. (2007). Can competencies assessed by PISA be considered the fundamental school knowledge 15-year-olds should possess? Eductional Change, 8(4), 8.

[16] Sjøberg, S. (2007). PISA and "Real Life Challenges": Mission Impossible? In S. T. Hopmann (Ed.), PISA according to PISA (tr. 9).

[17] Schneider, M. (2009). The International PISA Test, 2009, from http://educationnext.org/theinternational-pisa-test/

[18] Nguyễn Văn Tuấn, Pisa cũng chông chênh như... tháp nghiêng. Tuanvietnam.net, 09/12/2013 06:00 GMT+7