Dân số việt nam năm 2009 là bao nhiêu năm 2024

NDĐT - Theo kết quả tổng điều tra, tính đến 1-4-2009, cả nước có 85.846.997 người, trong đó nam giới có 42.413.143 người, chiếm 49,4%. Vẫn còn 2,4% số hộ sử dụng nhà dưới 15m2 và hơn 1,5 triệu người thất nghiệp.

Đó là số liệu do Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở T.Ư công bố sáng nay, 21-7, tại Hội nghị công bố kết quả điều tra toàn bộ; tổng kết tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.

Như vậy, sau 10 năm, kể từ đợt tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, dân số nước ta tăng 9,5 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 952 ngìn người. Tỷ lệ tăng dân số giai đoạn này là 1,2%/năm. Kết quả này cho thấy mức sinh của người dân Việt Nam đã giảm đáng kể (so với 1,7%/năm của giai đoạn 1989-1999).

Dân số khu vực thành thị nước ta năm 2009 là hơn 25,43 triệu người, chiếm 29,6%. Như vậy, thời kỳ 1999-2009, dân số thành thị đã tăng bình quân 3,4%/năm. Nguyên nhân chủ yếu do quá trình phát triển đô thị hóa và di dân. Có ba địa phương có quy mô dân số hơn ba triệu người là: TP Hồ Chí Minh (7,163 triệu người), TP Hà Nội (6,452 triệu người) và tỉnh Thanh Hóa (3,401 triệu người. Ngược lại, năm tỉnh Bắc Cạn, Điện Biên, Lai Châu, Kon Tum và Đác Nông có số dân dưới 500 nghìn người.

Đợt Tổng điều tra lần này cũng thu thập đầy đủ số liệu của 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh hiện có 73,594 triệu người, chiếm 85,7%. Số lượng người dân thuộc tôn giáo năm 2009 tăng 932 ngìn người so với năm 1999. Cả nước có 15,672 triệu người tin và theo một tôn giáo bất kỳ. Điều này minh chứng cho chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.

Về giáo dục, đáng chú ý là tỷ lệ biết chữ của người 15 tuổi trở lên năm 2009 đã đạt 94%.

Kết quả điều tra về nhà ở cho thấy số hộ có nhà ở kiên cố chiếm 46,3%, hộ có nhà đơn sơ chỉ còn 7,8%. Diện tích ở bình quân đầu người của cả nước là 16,7m2. Trong khi tỷ trọng hộ sử dụng diện tích nhà ở từ 60 m2/nhà đã tăng lên 51,5% thì cả nước vẫn còn có 2,4% số hộ sử dụng nhà dưới 15 m2, tăng 0,2% so với 10 năm trước.

Trong cơ cấu dân số và tuổi lao động, dân số nước ta đang ở thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” khi tỷ trọng số người dưới 15 tuổi đã giảm xuống còn 24,5%, tỷ trọng dân số có nhóm tuổi 15-64 (tuổi chủ lực của lực lượng lao động) tăng lên hơn 69%. Cả nước có gần 44 triệu người trong độ tuổi lao động (nữ chiếm 46,6%), chủ yếu ở khu vực nông thôn (31,9 triệu người). Tuy nhiên, một số liệu đáng buồn là số người thất nghiệp ở nước ta lên đến hơn 1,5 triệu người, trong đó hơn 627 nghìn người khu vực thành thị và nữ chiếm 45,7% số người thất nghiệp…

Như vậy, “bức tranh” chung về dân số nước ta theo kết quả đợt Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy nhiều “gam màu” sáng, phản ánh tích cực những thành tựu đổi mới của đất nước trong 10 năm qua. Theo đồng chí Đỗ Thức, Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, giai đoạn 2001-2010, dân số nước ta đã dần ổn định ở quy mô hợp lý, các chỉ số giáo dục, nhà ở, văn hóa ngày càng tăng, đặc biệt cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực từ nông lâm thủy sản sang công nghiệp xây dựng và dịch vụ.

Tính đến 0 giờ ngày 1-4-2009, dân số nước ta là 85.846.997 người, với 3 đơn vị cấp tỉnh, thành phố có quy mô dân số hơn 3 triệu dân, gồm TP Hồ Chí Minh (7,163 triệu người), Hà Nội (6,452 triệu người) và Thanh Hóa (3,401 triệu người). Cả nước có 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc Kinh chiếm 85,7%, còn lại là các dân tộc khác như Tày, Dao, Nùng, Ê Đê, Thái… Thời gian qua, mức gia tăng dân số có chiều hướng giảm, tỷ suất tăng dân số bình quân giảm từ 1,7% thời kỳ 1989-1999 xuống 1,2% trong thời kỳ 1999-2009. Cơ cấu dân số theo độ tuổi có sự thay đổi tích cực do tỷ lệ dân số dưới 15 tuổi giảm từ 33,1% năm 1999 xuống còn 24,5% vào năm 2009. Ngược lại, tỷ lệ dân số nhóm tuổi 15-64 (là nhóm tuổi chủ lực của lực lượng lao động) tăng từ 61,1% lên 69,1% trong thời gian tương ứng. Đây là thời kỳ "cơ cấu dân số Vàng", được các chuyên gia quốc tế đánh giá là điều kiện thuận lợi để phát huy tác dụng trong chiến lược phát triển kinh tế theo hướng hiện đại, bền vững. Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam là 110,5 bé trai/100 bé gái. Con số trên chưa phải là tình trạng đáng báo động, song cũng cần lưu ý, có những biện pháp quản lý, tuyên truyền và điều chỉnh kịp thời để giữ được sự cân bằng giới tính trong giai đoạn tiếp theo.

Trong những hộ gia đình có nhà ở, 46,3% có nhà ở kiên cố, 37,9% số hộ có nhà bán kiên cố, còn lại là các hộ ở nhà đơn giản. Về hình thức sở hữu nhà, 92,8% số hộ có nhà riêng, nhà thuê hoặc mượn của tư nhân chiếm 6,5%. Diện tích nhà ở tính bình quân đạt 16,7m2/người. Hiện hơn 86% số hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, 54% số hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh, 96% số hộ sử dụng điện lưới để thắp sáng…

Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng nhận định, tổng điều tra đã diễn ra đúng kế hoạch và thành công. Các số liệu chi tiết sẽ là đầu vào tham chiếu, rất có giá trị giúp Chính phủ, các địa phương, ngành… nghiên cứu, vận dụng trong việc hoạch định, điều chỉnh và thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH, an sinh xã hội nói chung; từng lĩnh vực, như văn hóa, giáo dục, y tế, phát triển con người nói riêng…