VTV.vn - Không chỉ người già, người trẻ cũng có nguy cơ bị run tay chân. Vậy run tay chân ở người trẻ nguyên nhân do đâu?Run tay chân ở người trẻ nguyên nhân do đâu? - Rối loạn thần kinh thực vật nguyên nhân gây run phổ biến ở người trẻ Stress kéo dài sẽ tạo ra những áp lực trên hệ thần kinh, kích thích tăng tiết adrenaline và cortisone vào máu, dẫn tới tăng cường hoạt động của hệ thần kinh thực vật. Đây là nguyên nhân gây run phổ biến của người trẻ. Triệu chứng run chân tay sẽ tăng khi thay đổi trạng thái cảm xúc như: lo lắng, căng thẳng, hồi hộp. Tình trạng run có thể giảm khi người bệnh điều chỉnh được tâm lý và cảm xúc của mình. Giới trẻ ngày càng lạm dụng các chất kích thích như rượu bia, thuốc lá, caffeine…trong cuộc sống hàng ngày. Đa phần các chất này tạo cảm giác hưng phấn, sảng khoái cho người dùng, làm tăng hiệu quả công việc. Tuy nhiên, nếu sử dụng lâu dài chúng sẽ là nguyên nhân gây nên nhiều bệnh lý khác trong đó có bệnh run chân tay. - Run do tổn thương não Với những người bị tổn thương do chấn thương, di chứng của viêm não, sốt cao co giật ngày bé bệnh đa xơ cứng hoặc rối loạn thoái hóa di truyền thì khả năng cao sẽ mức chứng run chân tay. - Thiếu vitamin, khoáng chất gây run tay chân Chế độ ăn uống không đầy đủ dưỡng chất có thể là nguyên nhân gây run tay chân ở người trẻ Có nhiều vitamin, khoáng chất đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính bền vững dẫn truyền thần kinh và co cơ như: Magie, vitamin B6, vitamin B12, vitamin D… Sự thiếu hụt các vitamin, khoáng chất này trong một thời gian dài sẽ rất dễ dẫn tới các bệnh lý về thần kinh và cơ, trong đó có chứng run tay chân. - Run tay chân do nhiễm độc kim loại nặng Tỷ lệ mắc chứng run chân tay sẽ tăng cao ở những gia đình có người bị nhiễm chất độc màu da cam, sống gần những nơi bị ôi nhiễm hoặc làm việc trong môi trường không đảm bảo, đều có nguy cơ mắc căn bệnh trên. - Run tay chân ở người trẻ phải làm sao? Khi có dấu hiệu run tay chân, người trẻ cần đến bệnh viện để được bác sĩ chuyên khoa thăm khám tư vấn hiệu quả Khi có dấu hiệu run tay chân, người trẻ cần đến bệnh viện để được bác sĩ chuyên khoa thăm khám, chẩn đoán xác định chính xác nguyên nhân để định hướng chữa trị hiệu quả. Với mỗi một nguyên nhân gây run sẽ có một phác đồ điều trị phù hợp và bạn cần phải tuân thủ theo đúng chỉ định của bác sĩ. Ngoài ra, bạn cần điều chỉnh chế độ ăn uống cung cấp đầy đủ dưỡng chất cần thiết cho cơ thể hạn chế tối đa yếu tố nguy cơ gây run tay chân ở người trẻ. * Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online! Run là những cử động không tự chủ, nhịp nhàng, dao động của các nhóm cơ đối kháng, điển hình ở vị trí bàn tay, đầu, mặt, dây thanh quản, thân mình, hoặc hai chân. Chẩn đoán là lâm sàng. Điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân và loại run, có thể bao gồm tránh các yếu tố khởi phát (run sinh lý), propranolol hoặc primidone (run vô căn), vật lý trị liệu (run tiểu não), levodopa (run do parkinsoni), và có thể là kích thích não sâu hoặc phẫu thuật mở đồi thị (run mất chức năng và kháng thuốc). Run có thể là
Run sinh lý, thường khó nhận biết, trở nên đáng chú ý ở nhiều người khi họ có những stress thực thể hoặc tâm lý. Run khác nhau ở
Mức độ run có thể không liên quan đến mức độ của bệnh lý tiềm ẩn. Ví dụ, run vô căn thường là lành tính và không rút ngắn tuổi thọ, nhưng các triệu chứng có thể làm ảnh hưởng đến đời sống bệnh nhân, và một số nghiên cứu thần kinh học đã phát hiện thấy tình trạng thoái hóa tiểu não ở những bệnh nhân run vô căn. Các tổn thương khác nhau ở thân não, hệ ngoại tháp, hoặc tiểu não có thể gây ra triệu chứng run. Chấn thương, thiếu máu cục bộ, rối loạn chuyển hóa, hoặc bệnh lý thoái hóa thần kinh gây ra rối loạn chức năng hoặc thoái hóa thần kinh dẫn đến run. Đôi khi run là một bệnh lý mang tính gia đình (ví dụ, run vô căn). Run được phân loại chủ yếu dựa trên hoàn cảnh xuất hiện:
Hoạt động run bao gồm run "động", run khi làm động tác có chủ đích, và run tư thế.
Run phức hợp có thành phần gồm nhiều loại run. Run cũng có thể được phân loại dựa trên
Run thường được mô tả dựa trên tần số dao động (nhanh hoặc chậm) và biên độ vận động (tinh [biên độ thấp] hoặc thô [biên độ cao]). Run sinh lý xảy ra ở những người khỏe mạnh. Đây là tình trạng run động trạng hoặc run tư thế đối xứng trên cả hai tay; biên độ thường mềm mại. Nó thường chỉ trở nên đáng kể khi có mặt các yếu tố gây stress. Các stress này bao gồm
Các loại thuốc (xem bảng ) có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm các loại run khác nhau. Thuốc an thần liều thấp (ví dụ như rượu) có thể làm ức chế một số loại run (ví dụ, run vô căn và run sinh lý); liều cao hơn có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm cơn run. Vì chẩn đoán run chủ yếu dựa vào lâm sàng, nên cần phải khai thác tiền sử và khám lâm sàng tỉ mỉ. Bệnh sử hiện tại nên khai thác
Nếu khởi phát đột ngột, bệnh nhân cần được hỏi về các biến cố khởi phát run (ví dụ chấn thương hoặc bệnh gần đây, sử dụng một loại thuốc mới). Đánh giá toàn diện tìm kiếm các triệu chứng của các bệnh lý nguyên nhân, bao gồm Tiền sử y khoay nên khai thác các bệnh lý có biểu hiện run.xem bảng ). Tiền sử gia đình nên khai thác về triệu chứng run ở những thân nhân cận huyết cấp độ 1. Cần đánh giá toàn diện tiền sử sử dụng thuốc nhằm tìm kiếm thuốc căn nguyên (xem bảng , bệnh nhân cần được hỏi cụ thể việc uống cà phê, rượu và sử dụng thuốc kích thích (đặc biệt tiền sử ngưng sử dụng gần đây). Đánh giá toàn diện các dấu hiệu sinh tồn, tìm kiếm các bất thường như nhịp nhanh, tăng huyết áp, sốt. Khám toàn trạng cần lưu ý đến tình trạng suy mòn, kích thích tâm thần vận động, và sự vắng mặt các biểu hiện trên khuôn mặt (chỉ ra tình trạng chậm vận động). Khám tuyến giáp để tìm hoặc đánh giá phì đại tuyến giáp nếu có, và cần lưu ý đến các dấu hiệu lồi mắt hoặc sa mí. Đánh giá tập trung nhằm lưu ý đến sự phân bố và tần suất run khi
Người khám nên lưu ý xem run có thay đổi hay không khi thực hiện các thao tác gây phân tâm (ví dụ, 100 trừ 7 nối tiếp). Quan sát chất lượng của giọng nói khi bệnh nhân đọc một đoạn dài. Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:
Loại run và khởi phát là những yếu tố hữu ích:
Những triệu chứng sau có thể giúp gợi ý căn nguyên của run:
Tiến hành quan sát dáng đi. Các dáng đi bất thường có thể gợi ý xơ cứng rải rác, đột quỵ, bệnh Parkinson, hoặc bệnh lý tiểu não. Dáng đi hẹp và lê chân điển hình trong bệnh Parkinson, dáng đi rộng và thất điều điển hình trong bệnh lý tiểu não. Dáng đi có thể có tính hystery hoặc không đồng nhất ở những bệnh nhân run do tâm lý. Ở những bệnh nhân có run thật sự, dáng đi thường bình thường, nhưng dáng đi ngón chạm gót (đặt gót chân lên ngón chân) có thể là dáng đi bất thường. Run tâm thần có thể được xác định bởi vì run tâm thần giảm hoặc biến mất khi bệnh nhân bị rối loạn tâm thần và khi tần số run đồng bộ hóa (entrains) với một nhịp gõ nhẹ bởi một phần cơ thể không bị ảnh hưởng. Duy trì tần số chuyển động khác nhau đồng thời ở hai phần cơ thể khác nhau là khó khăn. Ở phần lớn bệnh nhân, tiền sử và khám lâm sàng là đủ để xác định căn nguyên của run. Tuy nhiên, MRI hoặc CT não nên được thực hiện nếu
Khi nguyên nhân của run không rõ (dựa trên tiền sử và khám lâm sàng), cần thực hiện xét nghiệm:
Ở bệnh não nhiễm độc, bệnh lý căn nguyên thường biểu hiện rõ, nhưng việc xét nghiệm nồng độ urea nitrogen máu và amoniac máu có thể giúp chẩn đoán nguyên nhân. Đo metanephrines tự do trong huyết tương được chỉ định ở bệnh nhân tăng huyết áp kháng trị không giải thích được. Nên đo nồng độ ceruloplasmin huyết thanh và đồng trong nước tiểu để kiểm tra bệnh Wilson Bệnh Wilson Bệnh Wilson là kết quả của sự tích tụ đồng trong gan và các cơ quan khác. Phát triển các triệu chứng gan hoặc thần kinh. Chẩn đoán dựa trên nồng độ ceruloplasmin huyết thanh thấp, bài tiết đồng... đọc thêm nếu bệnh nhân < 40 tuổi và run không rõ nguyên nhân, đặc biệt nếu run có đặc điểm như đập cánh (có hoặc không kèm theo hội chứng liệt rung parkinson và rối loạn trương lực) và không có tiền sử gia đình bị run lành tính. (Đập cánh là hiện tượng run cánh tay tần số thấp, biên độ cao, do tư thế gây ra, gây ra bằng cách kéo dài cánh tay, với khuỷu tay và lòng bàn tay gập lại.)Mặc dù điện cơ (EMG) có thể phân biệt được run thực chất với các bệnh lý vận động (rung giật cơ, co giật, trạng thái động kinh cục bộ), nhưng hiếm khi cần sử dụng xét nghiệm này trong chẩn đoán. Tuy nhiên, EMG có thể giúp chẩn đoán xác định nguyên nhân gây ra run nếu nghi ngờ bệnh lý thần kinh ngoại vi. Không cần điều trị trừ khi các triệu chứng trở nên khó chịu. Tránh các yếu tố khởi phát (như caffein, mệt mỏi, thiếu ngủ, thuốc căng thẳng và lo lắng nếu có thể) có thể giúp ngăn ngừa hoặc giảm các triệu chứng. Run sinh lý tăng do cai rượu hoặc cường giáp, và bằng cách sử dụng thuốc và các điều kiện có thể gây ra run. Run đỡ khi điều trị bệnh nền. Các thuốc benzodiazepine đường uống (ví dụ, diazepam 2 đến 10 mg, lorazepam 1 đến 2 mg, oxazepam 10 đến 30 mg) 3 hoặc 4 lần mỗi ngày có thể có hiệu quả cho bệnh nhân run có lo âu mạn tính, tuy nhiên nên tránh sử dụng liên tục. Propranolol (20 đến 80 mg/lần uống 4 lần mỗi ngày) và các thuốc chẹn beta khác thường có hiệu quả đối với run cấp tính do thuốc hoặc lo âu (ví dụ như sợ hãi khi đứng trước đám đông). Propranolol 20 đến 80 mg uống 4 lần mỗi ngày (hoặc thuốc chẹn beta khác) thường có hiệu quả, hoặc primidone 50 đến 250 mg/lần uống 3 lần/ngày. Đối với một số bệnh nhân, một lượng nhỏ rượu có thể có hiệu quả; tuy nhiên, không khuyến khích sử dụng rượu trong điều trị vì nguy cơ lạm dụng. Thuốc hàng thứ hai là topiramate 25 đến 100 mg uống 2 lần/ngày và gabapentin 300 mg uống 2 hoặc 3 lần một ngày. Có thể thêm Benzodiazepine nếu các thuốc khác không kiểm soát được run. Không có thuốc nào điều trị có hiệu quả; vật lý trị liệu (ví dụ, tập có kháng trở chi bị ảnh hưởng, hướng dẫn bệnh nhân cố định chắc các gốc chi khi cử động) đôi khi có tác dụng. Các loại thuốc khác bao gồm (ví dụ, pramipexole, ropinirole, rotigotine), (selegiline, rasagiline), (entacapone, tolcapone — chỉ được sử dụng kết hợp với levodopa) và . Đối với những cơn run nặng, gây tàn tật và kháng thuốc, có thể được cân nhắc xạ phẫu đích mở đồi thị một bên hoặc kích thích não sâu kéo dài tại đồi thị một hoặc hai bên. Run loạn trương lực có thể đáp ứng tốt hơn với phẫu thuật thần kinh chức năng nhắm vào phần trong của bèo nhạt. Trong bệnh Parkinson, triệu chứng run giảm đi đáng kể sau kích thích sâu đồi thị, phần trong bèo nhạt hoặc nhân hạ đồi. Mặc dù các kỹ thuật này giờ đã trở nên phổ biến, chỉ nên sử dụng sau khi điều trị nội khoa tối ưu thất bại, và chỉ ở những bệnh nhân không bị suy giảm nhận thức hoặc rối loạn tâm thần.
Nhiều bệnh nhân cao tuổi cho rằng run tiến triển là dấu hiệu của lão hóa bình thường, và có thể không tìm kiếm sự chăm sóc y tế. Mặc dù hiện tượng run vô căn tồn tại phổ biến người lớn tuổi, cần phải khai thác tiền sử và khám lâm sàng tổng thể để loại trừ các nguyên nhân khác, và để xác định xem các triệu chứng có đủ trầm trọng để bắt đầu điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật hay không. Liều thấp tương đối cũng có thể làm nặng thêm triệu chứng run ở người cao tuổi, và nên điều chỉnh liều thuốc thường xuyên đến liều thấp nhất có hiệu quả (amiodarone, metoclopramide, thuốc ức chế chọn lọc trên serotonin, thyroxine). Tương tự thế, bệnh nhân cao tuổi dễ bị ảnh hưởng bởi các tác dụng không mong muốn của các thuốc điều trị run; do đó, các thuốc này nên được sử dụng thận trọng ở người lớn tuổi, thường ở liều thấp hơn liều được coi là tối ưu. Nếu có thể, không nên dùng thuốc kháng cholinergic ở người cao tuổi. Run có thể ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động chức năng ở người lớn tuổi, đặc biệt nếu họ có các rối loạn thể chất hoặc nhận thức khác. Vật lý trị liệu và hoạt động trị liệu có thể đưa ra các chiến lược thích nghi đơn giản và các thiết bị hỗ trợ, từ đó giúp duy trì chất lượng cuộc sống.
Điều trị theo nguyên nhân và phân loại run: Tránh các yếu tố kích thích (sinh lý), propranolol hoặc primidone (vô căn), vật lý trị liệu (tiểu não), levodopa (parkinson), và có thể là kích thích não bộ sâu (run gây tàn tật và kháng thuốc). |