Cây nha đam có tên gọi khác là gì

Cây nha đam có tên gọi khác là gì

Một trong những dược thảo đã vượt được hàng rào ngăn cách giữa đông và tây y, để được mọi ngành y học cùng sử dụng... là Nha đam (Lô hội). Ngay cả Hoa Kỳ, vốn được xem là một nước… chậm tiến trong việc dùng thảo dược để chữa bệnh, cũng đã dùng Nha đam trong nhiều dược phẩm và mỹ phẩm. Hơn nữa, nhiều nhà nghiên cứu Mỹ đã phải khuyên dân Mỹ là mỗi nhà nên trồng… một cây để vừa làm cảnh vừa làm thuốc và dùng khi cần cấp cứu vì phỏng!

Nha đam còn được gọi là cây Lô hội, tên khoa học là Aloe vera hoặc Aloe barbadensis, thuộc họ Aloeaceae (Liliaceae) . Tên Aloe vera được chính thức công nhận bởi Quy ước quốc tế về danh xưng thực vật (International rules of botanical nomenclature), và  A. barbadensis được xem là một tên đồng nghĩa.

Tuy nhiên, trong danh mục cây thuốc của Tổ chức y tế thế giới (WHO), Aloe được xem là tên chung của khá nhiều loài khác nhau như Aloe chinensis, A. elongata, A. indica… Ngoài ra, một loài Aloe khác, Aloe ferox cũng được chấp nhận là một cây cung cấp nhựa Aloe.

Mỹ gọi cây Aloe vera dưới tên “Curacao Aloes”, còn Aloe ferox dưới tên “Cape Aloes”. Người Pháp gọi dưới những tên : Aloe de Curacao, Aloe du Cap. Đông y gọi là Lô hội. WHO cũng liệt kê tên gọi của Lô hội tại các nước với 78 danh xưng khác nhau… Tại nước ta, A. vera được gọi là Lô hội hoặc Nha đam, Lưỡi hổ.

Cây nha đam có tên gọi khác là gì

Aloe vera trong y học thời Trung cổ

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÂY NHA ĐAM

Nha đam đã được dùng làm thuốc trị bệnh từ khi chưa có lịch sử y học. Sách thuốc cổ Ai Cập (3500 năm trước Tây lịch) đã chỉ dẫn cách dùng Nha đam để trị nhiễm trùng, các bệnh ngoài da và làm thuốc nhuận trường, trị táo bón… Nha đam đã được vẽ và mô tả trên các bản văn làm bằng đất sét tại Mesopotamia từ năm 1750 trước Tây lịch như một cây thuốc.

Tên “Aloe’’ có thể phát xuất từ chữ Ả Rập “Alloeh’’ với ý nghĩa là một “chất đắng và óng ánh”. Nha đam là một cây thuốc, không thuộc loại ma túy, nhưng đã gây ra cả một cuộc chiến tranh: Khi Đại đế Alexander chinh phục Ai Cập vào năm 332 trước Tây lịch, ông đã nghe nói đến một cây thuốc có khả năng trị vết thương thần kỳ tại một hòn đảo tên là Socotra, ngoài khơi Somalia, và để lấy cây này về làm thuốc cho quân của mình, đồng thời ngăn chặn địch quân không cho họ chiếm được cây thuốc này, ông đã gửi hẳn một đoàn quân đi chiếm hòn đảo (có lẽ là Madagascar ngày nay) và cây này chính là Nha đam.

Cũng nên ghi nhận là tên của dược chất “Aloe” được ghi trong Phúc Âm Thánh Gioan (19: 39- 40) dùng để ướp xác Chúa Jesus không phải từ Nha đam, nhưng từ một cây khác

gọi là Aloewood. (Aloewood chính là cây Gió bầu cung cấp hai hương liệu quý: Trầm hương và Kỳ nam).

Dioscorides, y sĩ trứ danh người Hy Lạp, đã dùng Nha đam để trị vết thương ngoài da, bệnh trĩ, vết ung loét và cả rụng tóc. Pliny, y sĩ La Mã đã biết dùng Nha đam để trị táo bón… Các nhà buôn Ả Rập đã đem Nha đam từ Tây Ban Nha sang các nước Á đông trong khoảng thế kỷ thứ 6 và từ đó y học Ayuraveda của Ấn Độ biết dùng Nha đam để trị bệnh ngoài da, ký sinh trùng đường ruột và cả đau bụng khi có kinh.

Tuy Nha đam có nguồn gốc từ châu Phi, nhưng sau đó đã được đưa sang trồng tại châu Mỹ, nhất là vùng West-Indies và dọc bờ biển Venezuela. Trong thế kỷ 19, đa số Aloe xuất cảng sang châu Âu đều từ các đồn điền tại West-Indies thuộc địa của Hà Lan (tại các đảo ArubaBarbados), qua hải cảng Curacao, nên được gọi là Curacao Aloe, Barbados Aloe… Các Aloe của châu Phi như Cape Aloe, Uganda Aloe, Natal Aloe… được gọi chung dưới tên thương mãi Zanzibar Aloe. Đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng đã đem Nha đam vào trồng ở nước ta, nhất là tại Phan Rang, Phan Thiết để lấy nhựa Aloe xuất sang châu Âu cho đến sau thế giới chiến tranh lần thứ hai thì không xuất được nữa nên Aloe vera trở thành cây hoang dại tại Ninh Thuận và Bình Thuận.

Trong những năm gần đây, khi tái phát minh những dược tính quý giá của Nha đam thì Hoa Kỳ đã trồng khá nhiều Aloe vera tại Florida, TexasArizona do ở nhu cầu chất gel Aloe để làm mỹ phẩm tăng cao. Khoảng 10 năm trở lại đây thì phong trào trồng Nha đam để xuất khẩu lớn mạnh tại hai tỉnh mà cây phát triển tốt nhất nêu trên.

ĐẶC TÍNH THỰC VẬT

Nha đam thuộc loại cây nhỏ, gốc thân hóa gỗ, ngắn. Lá dạng bẹ, không có cuống, mọc vòng rất sát nhau, màu từ lục nhạt đến lục đậm. Lá mọng nước, mép lá có răng cưa thô như gai nhọn, cứng tùy theo loại, mặt trên lõm có nhiều đốm không đều, lá dài từ 30 - 60 cm. Phát hoa ở nách lá, có thể dài đến 1 m, mang rất nhiều hoa mọc rũ xuống, với 6 cánh hoa dính nhau ở phần gốc, 6 nhị thò. Quả nang chứa nhiều hột.

Cây Nha đam rất dễ trồng nơi ráo nước, nhiều nắng  nhưng cần tưới 2 - 3 ngày 1 lần. Trồng bằng chồi non phát xuất từ gốc. Có thể trồng trong chậu kiểng. Cây tuy thích ánh sáng mặt trời nhưng cũng chịu được bóng râm 50% và đất cằn cỗi. Aloe vera không phát triển được ở nơi có mùa đông dưới 60C. Trong số hơn 300 loài Aloe, ngoài Aloe vera, Aloe ferox… dùng làm thuốc, còn một loài được dùng làm cây cảnh rất đẹp, như Aloe variegata (Lô hội mỏ két) có hoa màu đỏ; Aloe maculata (Lô hội vằn), hoa màu da cam...

Cây nha đam có tên gọi khác là gì
THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Aloe vera là nguồn cung cấp hai dược liệu khác hẳn nhau.

Dược liệu thứ nhất là một chất nhựa Aloe, ở ngay dưới lớp biểu bì hay “da” mỏng của lá có những tế bào đặc biệt gọi là tế bào trụ bì (là những tế bào gân màu lục ở mặt ngoài miếng gel khi ta gọt bỏ lớp vỏ màu lục phía ngoài), chứa một chất nước cốt màu vàng lục, sau khi chảy ra, tự cô đặc lại ở nhiệt độ bình thường, có màu vàng nâu, óng ánh và rất đắng, đông y cũng gọi là Nha đam (nhựa khô).

Chất nước cốt tự khô này chứa các hoạt chất hydroanthron: gồm các chuyển hóa chất hydroanthracen, mà những chất quan trọng nhất là aloin A và B (từ 25 đến 40%). Hỗn hợp aloin A và B còn được gọi là Barbaloin; hydroxy-aloin A và B (từ 3 đến 4%); một ít aloe-emodin  và chrysophanol. Các chuyển hóa chất Chromon gồm 8-C-glycosyl chromon, còn gọi aloeisin (khoảng 30%) và các aloeresin A và B.

Dược liệu thứ hai là một chất nhày gọi là gel Aloe. Chất gel này có thể lấy bằng cách gọt bỏ vỏ lá Nha đam màu lục rồi nghiền nát miếng gel trong suốt trong lá. Chất gel này chứa một loại polysaccharid gồm: pectin, hemicellulose, gluco mannan, acemannan và các chuyển hóa chất mannose.

Trong Nha đam còn có thêm những chất khác như: enzym: bradykinase, các acid amin, lipid, sterol (lupeol, campesterol, beta-sitosterol), tanin, hợp chất hữu cơ loại magnesium lactat, một chất kháng-prostaglandin…

Cây nha đam có tên gọi khác là gì

DƯỢC TÍNH & CÁCH SỬ DỤNG

NHA ĐAM TRONG ĐÔNG Y

Đông y cổ truyền dùng Nha đam dưới dạng chất nhựa khô từ nhựa lá cô đặc. Dược liệu được lấy từ các loài Aloe vera var. chinensis hay A. ferox trồng tại các tỉnh phía nam. Theo đông y thì Nha đam hay Lư hội có vị đắng, tính hàn, tác dụng vào các kinh thuộc can, vị và đại trường. Nha đam có tác dụng hạ hỏa, tống ứ: dùng để trị táo bón, chóng mặt, mắt đỏ và tinh thần cáu kỉnh do ở “nhiệt” ứ. Dùng chung với Chu sa (Cinnabaris) để trị táo bón kinh niên do nhiệt ứ. Nha đam diệt được ký sinh trùng, và bổ được vị: trị được trẻ em chậm phát triển vì sán lãi. Nha đam “thanh nhiệt” và làm mát gan: trị các chứng đau hạ vị, chóng mặt, nhức đầu, ù tai, cáu bực, bón và sốt nóng do ở nhiệt tại kinh can. Nha đam được dùng chung với rễ Long đởm (Radix Gentianae) và Hoàng cầm (Radix Scutellariae Baicalensis). Liều dùng Nha đam trong đông y: từ 0,3 - 1,5 gr dưới dạng viên, hoàn hoặc bột (không công hiệu khi dùng dưới dạng thuốc sắc).

NHA ĐAM TRONG TÂY Y

Tây y sử dụng Nha đam như hai loại dược phẩm khác hẳn nhau: Aloe gel và nhựa Aloe.

KHẢ NĂNG TRỊ LIỆU CỦA ALOE GEL

Tác dụng trị phỏng và giúp làm lành vết thương:

Khả năng của chất Aloe gel tươi trong việc giúp trị lành các vết thương đã được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1935 khi tạp chí Y khoa Mỹ công bố trường hợp một phụ nữ bị phỏng vì tia X được trị lành bằng cách đắp chất nhày lấy trực tiếp từ lá Aloe tươi. Sau đó các tác dụng của Aloe gel trên vết thương và vết phỏng đã được nghiên cứu rất kỹ tại khắp nơi trên thế giới. Riêng công trình nghiên cứu tại ĐH Texas (Galverton) đã ghi nhận: Aloe gel có thể thấm sâu vào mô tế bào, có tác dụng kháng sinh và có tác dụng làm tê tế bào (giảm đau). Nó diệt vi khuẩn, siêu vi khuẩn và ngăn sự phát triển của nấm gây bệnh.

Aloe gel có tác dụng kháng viêm giảm đau, làm giãn nở các vi mạch máu, giúp đưa máu về nuôi dưỡng các tế bào bị hư hại. Tác dụng kháng viêm của Aloe gel đã được giải thích bằng 3 cơ chế sinh học (Journal of the American Pediatric Medical Association No 84-1994): (1) phân hóa tố (enzym) bradykinase (loại carboxypeptidase) trong Aloe gel có thể ức chế tác dụng gây đau nhức của Bradykinin. (2) Magnesium lactat có khả năng ngăn cản tiến trình tạo histamin. (3) Khi có sự hiện diện của Aloe gel, các chất thromboxan B2 và prostaglandin F2 (các chất gây viêm và gây đau nhức) đều giảm bớt.

Hợp chất loại sterol (lupeol) trong Aloe gel có tác dụng chống sưng rất mạnh. Aloe gel đã được chứng minh là có tác dụng ngăn chặn được sự phát triển của các vi trùng  Mycobacterium tuberculosis (bệnh lao), Staphyloccoccus aureus, Streptococcus pyogenes (gây mụn nhọt), Salmonella paratyphi, Pseudomonas, Escherichia coli... và các loại nấm gây bệnh như Candida albicans, Trichophyton (nấm tóc), và cả siêu vi Herpes.

Các thử nghiệm lâm sàng ghi nhận Aloe gel giúp vết thương mau lành (International Journal of Dermatology No. 30-1991): Trong thử nghiệm “in vivo” Aloe gel giúp mau lành bằng cách kích hoạt trực tiếp hoạt tính của các đại thực bào và các nguyên bào sợi. Sự kích hoạt các nguyên bào sợi làm gia tăng sự tổng hợp collagen và proteoglcan… giúp sửa chữa các hư hỏng nơi mô tế bào. Tác dụng này có lẽ do các polysaccharid loại mannose: Chất mannose-6-phosphat là chất chính tác dụng bằng cách kết dính nơi các thụ thể của các yếu tố tăng trưởng trên bề mặt của các nguyên bào sợi (fibroblast) và do đó gia tăng hoạt tính của chúng. Hơn nữa, Acemannan, một hợp chất phức tạp trong lá Nha đam cũng cho thấy có khả năng giúp vết thương chóng lành và giảm được các phản ứng tác hại của tia phóng xạ trên da (International Journal of Radiation oncology, biology and physiology No.15-1995). Cơ chế tác dụng này gồm hai mặt: trước hết Acemannan là một tác nhân kích hoạt đại thực bào rất mạnh và do đó kích thích sự phóng thích các cytokin, và thứ đến là các yếu tố tăng trưởng có thể kết dính trực tiếp với acemannan, tạo sự ổn định và kéo dài khả năng kích ứng tạo mô tế bào.

Tác dụng trị phỏng:

Các vết phỏng cấp 1 và 2 khi được chữa trị bằng cách thoa trực tiếp Aloe gel tươi cho thấy thời gian lành vết thương nhanh hơn, đồng thời vết thẹo cũng nhỏ hơn (Journal of burn care and rehabilitation No 3-1982). Tác dụng này được cho là do allantoin trong gel. Aloe gel cũng khá hữu hiệu trong các trường hợp vết thương ngoài da do băng giá và cả phỏng da vì phơi nắng quá độ: khi phân tích tác dụng trên vết thương cho thấy Aloe gel tác dụng như một chất ức chế Thromboxane A2, một chất trung gian gây tiến trình hư hại mô tế bào.

Trong trường hợp phỏng thông thường, vấn đề quan trọng nhất là phải chữa ngay, càng sớm càng tốt, và điều tốt nhất là dùng ngay chất gel từ một lá Nha đam tươi làm thuốc thoa ngay vào chỗ bị phỏng và đây là tiến trình cần làm: trước hết làm lạnh ngay vùng bị phỏng bằng cách ngâm trong nước lã hoặc nước đá chừng 1 phút (nước làm nguội, nước lạnh có tác dụng làm tê, làm ngưng cảm giác đau và ngăn chặn sự lan tràn của vết thương). Cắt một lá Aloe tươi, thành từng đoạn và khía một đường sâu, bóc lớp vỏ ngoài và thoa chất nhày (gel trong suốt) ngay vào vết thương, để chất nhày tự khô lại trên vết thương. Có thể lặp lại vài lần nếu cần.

Tác dụng trị nấm nơi bộ phận sinh dục

Tuy những thử nghiệm trong ống nghiệm cho thấy Aloe gel có thể làm Candida albicans (thủ phạm gây bệnh nấm nơi bộ phận sinh dục phụ nữ - yeast infection) ngưng tăng trưởng. Nhưng các kết quả này chưa được FDA chấp nhận.

Khả năng kích thích hệ miễn dịch và trị một vài loại ung thư

Các nhà nghiên cứu tại Đại học y khoa Tokyo đã tìm thấy những lectin trong Aloe gel có khả năng kích thích hệ miễn dịch gia tăng sự sản xuất các đại thực bào có thể tiêu diệt được các vi khuẩn và các tế bào lạ (tế bào ung thư mới phát).

Các nghiên cứu tại Nhật và Hà Lan cho rằng các hợp chất trong Aloe gel có thể giúp gia tăng sự hoạt động của hệ miễn dịch bằng cách trung hòa được các hóa chất độc hại từ các tế bào hư hỏng và nhờ đó giúp bảo vệ được các tế bào khác còn nguyên vẹn.

Một nghiên cứu khác tại Trung tâm y học thuộc Viện ĐH Texas (San Antonio), khi nghiên cứu tác dụng của trích tinh Aloe trên tế bào ung thư cũng cho thấy những kết quả khả quan; tuy nhiên về tác dụng của Aloe-emodin trên tế bào ung thư bạch cầu thì chưa được Viện ung thư quốc gia Hoa Kỳ chấp nhận vì liều sử dụng tương đối cao, có thể gây độc hại cho người bệnh.

Aloe gel và bệnh tiểu đường

Một thử nghiệm tại châu Âu cho thấy Aloe gel có khả năng làm hạ đường huyết nơi thú vật. Và thử nghiệm tại Thái Lan (1996) trên 72 người tiểu đường, tuổi từ 35 đến 60, uống một dung dịch Aloe gel tươi, sau 1 tuần lễ, lượng đường huyết giảm rõ rệt, và tiếp tục giảm đều trong 35 ngày sau đó; nồng độ triglycerid cũng giảm theo với nồng độ đường (Phytomedicine No 3-1996).

Tại nước ta hiện thời có nhiều người dùng lá Nha đam tươi xay sinh tố luôn cả vỏ để trị bệnh là không tốt vì chất nhựa Aloe trong vỏ màu lục có độc. Ngoài ra trên thị trường có nhiều sản phẩm từ gel Aloe được bán với giá rất đắt là không cần thiết vì không đạt yêu cầu bằng ăn gel tươi. Liều dùng có thể từ 100 - 200 g Aloe gel tươi mỗi ngày.

Aloe gel trong mỹ phẩm

Aloe gel được dùng trong nhiều mỹ phẩm, nhất là những loại kem thoa ngoài da. Nữ hoàng Cleopâtre đã từng dùng Aloe gel để thoa da cho bóng, nhưng muốn có một làn da đẹp nên dùng Aloe gel tươi, lấy ngay từ lá, vì đa số các loại gel “ổn định hóa” trong công nghiệp mỹ phẩm dùng trên thị trường như kem thoa mặt, dưỡng da, dưỡng thể và dầu gội đầu lại không hề có tác dụng trị liệu vì các hợp chất thiên nhiên của Aloe gel bị phân hủy do quá trình chế biến, bảo quản. Việc lựa chọn một loại mỹ phẩm cho thật tác dụng cũng là một vấn đề khó khăn; tuy nhiên các thử nghiệm cho thấy, các chất gel ngay sau khi trích khỏi lá cây sẽ thay đổi phẩm chất rất nhanh (do tác động của enzym trong gel), nên người ta phải thêm vào mỹ phẩm những chất chống oxy hóa thích hợp nhưng cũng không duy trì được những tác dụng tốt của Aloe gel tươi. Nhiệt độ nóng cũng gây hư hại gel, nên cần tránh sử dụng nhiệt (nấu chè ăn thì không tốt bằng ăn gel tươi), đồng thời người ta cũng còn phải thêm những chất diệt khuẩn, chống mốc để tránh việc hư hại do vi khuẩn, nấm mốc và chính những chất phụ gia ấy gây hại tế bào da. Thông thường thì một nồng độ 40% gel trở lên mới có thể có tác dụng sinh học. (Theo tiêu chuẩn của WHO thì chỉ có gel ở trạng thái tươi mới có tác dụng, và cách trích gel được làm như sau: Lấy lá tươi, rửa sạch bằng nước máy có đủ độ clor dư. Tách bỏ lớp vỏ ngoài của lá kể cả các tế bào trụ bì. Cần thận trọng đừng đụng đến các khoang vỏ màu lục, vì có thể làm ô nhiễm gel bởi các chất nhựa của lá. Có thể sát trùng gel bằng phương pháp pasteurization ở 75 - 800C trong thời gian ít là hơn 3 phút). Người ta biết chất Aloe gel tươi có tính sát khuẩn và bảo quản tốt cho gel nếu lúc thao tác ta không làm nhiễm trùng miếng gel.

Dùng một khúc lá Nha đam tươi, gọt bỏ vỏ xanh, cầm miếng gel thoa lên mặt và da để làm “kem” chống nắng, dưỡng da, giữ ẩm, chống nhăn, ngừa, trị nám là tốt hơn hết. Một số người có thể bị dị ứng, ngứa ngáy thì không dùng.

Một số nhà sản xuất mỹ phẩm còn quảng cáo là Nha đam có thể ngăn chặn sự lão hóa của da, nhưng thật ra Aloe gel có khả năng thấm ướt, làm ẩm da (moisturizing) nên tạm thời làm da bớt bị nhăn mà thôi. Aloe gel có thể có tác dụng kích thích sự tổng hợp các chất collagen và sợi elastin, nên có thể ngăn chặn sự hủy hoại của da trong tiến trình của sự lão suy khi ta bôi gel tươi cho da (International Journal of Dermatology No 30-1991).

TÁC DỤNG TRỊ LIỆU CỦA NHỰA ALOE

Tác dụng trị liệu chính thức của nhựa Aloe khô (đông y gọi là Nha đam hay Lư hội) được y học phương Tây chấp nhận là gây xổ, trị táo bón hay nhuận trường nếu dùng liều thấp. Tác dụng làm xổ của nhựa Aloe do hoạt chất 1,8-dihydroanthracen glycosid, aloin A và B. Sau khi uống aloin A và B, không bị hấp thu nơi phần trên của ruột, sẽ bị thủy phân nơi ruột bởi các vi khuẩn để trở thành các chất biến dưỡng có hoạt tính (chất chính là aloe-emodin-9-anthron). Tác dụng xổ của nhựa Aloe thường xảy ra 6 giờ sau khi uống, và có khi chậm đến 24 giờ sau. Cơ chế hoạt động của nhựa Aloe gồm 2 phần:

Kích thích nhu động ruột, gia tăng sự tống xuất và thu ngắn thời gian thực phẩm chuyển qua ruột, và làm giảm bớt sự hấp thu chất lỏng từ khối lượng phân.

Gia tăng sự thẩm thấu tế bào qua màng nhày ruột có lẽ  nhờ ở ức chế các ion Na+, K+, adenosin triphosphatase hoặc ức chế các kênh clorur đưa đến sự gia tăng lượng nước trong ruột già.

Việc dùng nhựa Aloe làm thuốc nhuận trường, trị táo bón cũng là một vấn đề bàn cãi giữa y học Hoa Kỳ và các nước châu Âu: Các nước châu Âu, nhất là Đức, cho phép dùng nhựa Lư hội làm thuốc xổ (ghi trong German Commission E Mono graph), với cách dùng là sử dụng trích tinh khô đã được tiêu chuẩn hóa (Standardized dry extract, theo Dược điển châu Âu 2 hoặc Dược điển Anh (BP 1988) phải chứa từ 19 đến 21% các chất hydro-anthracen. Trích tinh này có lợi điểm là loại được các chất nhựa tạp thường gây ra các phản ứng phụ không tốt. Liều đề nghị dùng để xổ là 0,05 đến 0,1 g (50 - 100 centigram) trích tinh khô. Tại châu Âu, Lư hội là thành phần của các dược phẩm như Compound Benzoin Tincture, Opobyl… trong khi đó aloin là thành phần của các dược phẩm Alophen, Purgoids…

Các nhà dược học Hoa Kỳ nói không nên dùng nhựa Aloe, nếu không thật cần thiết để trị táo bón; vì ngoài vị đắng, nhựa Nha đam do chứa các hợp chất anthraquinon là những chất gây xổ bằng cách kích thích nhu động ruột, còn gây ra những phản ứng đau quặn bụng và gây khó chịu cho ruột. Nếu dùng quá liều có thể đưa đến xuất huyết đường ruột và cả sạn thận. Phụ nữ có thai và cho con bú không nên dùng thuốc xổ có nhựa Aloe vì tác dụng kích thích tử cung có thể gây ra trụy thai và vì nhựa Aloe đi qua sữa mẹ có thể gây hại cho trẻ bú mẹ. Với các trường hợp táo bón, cơ quan FDA khuyến cáo nên dùng các loại dược thảo khác như Muồng (Senna) hoặc Cascara là những dược phẩm có tính xổ nhẹ hơn và an toàn hơn.

DS. PHAN ĐỨC BÌNH

DS. TRẦN VIỆT HƯNG