Cách làm các dạng bài nghị luận văn học 9 pdf

"ÔN TẬP, CỦNG CỐ KIẾN THỨC PHÂN MÔN VĂN HỌC LỚP 9"

"ÔN TẬP, CỦNG CỐ KIẾN THỨC PHÂN MÔN VĂN HỌC LỚP 9"

ÔN TẬP CỦNG CỐ KIẾN THỨC PHÂN MÔN VĂN HỌC LỚP 9 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngữ văn là một trong 3 môn học quyết định kết quả kì thi tuyển sinh vào THPT đối với các em học sinh tham dự kì thi này. Trong đó, phân môn Văn học đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi cấu trúc của đề thi môn Ngữ văn vào lớp 10 THPT hiện nay thường có ba phần: Phần I. Tiếng Việt (2 điểm). Phần II. Viết một bài văn thuyết minh ngắn hoặc một văn bản nghị luận xã hội khoảng 300 từ (3điểm). Phần III. Tự luận Văn học (5 điểm). Để hoàn thành bài thi, học sinh chủ yếu phải vận dụng kiến thức phân môn Văn học để làm. Ngay cả câu hỏi phần Tiếng Việt, phần lớn ngữ liệu đều được trích từ các văn bản đã được học trong chương trình, kiến thức về văn bản đó sẽ giúp các em làm tốt hơn những yêu cầu của bài tập. Qua thực tế học sinh thực hành viết các bài văn nghị luận văn học, đặc biệt là qua các kì kiểm tra thi cử, các em thường bộc lộ một số hạn chế cả về kiến thức và kĩ năng làm bài. Ví dụ: 1. Về kiến thức:-Không nhớ chính xác hoàn cảnh sáng tác, nội dung, giá trị của tác phẩm-Lẫn kiến thức giữa các tác giả, đặc điểm các nhân vật …-Không thuộc dẫn chứng-Viết sai tên tác phẩm hay tên đoạn trích Ví dụ câu hỏi: Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước, Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Khổ thơ trên trích trong bài thơ nào? Của ai? (Đề thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2007-2008) Nhiều học sinh đã trả lời: Khổ thơ trích trong bài thơ "Tiểu đội xe không kính'' của Phạm Tiến Duật. 2. Về kĩ năng:-Không đọc kĩ đề để xác định yêu cầu của đề bài trước khi làm dẫn đến bài viết lạc đề, xa đề, thiếu ý hoặc không đúng trọng tâm, thậm chí lạc thể loại … VD: Đề thi vào lớp 10 THPT năm 2009-2010 yêu cầu: Viết một bài văn thuyết minh về Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều. Học sinh làm lạc sang phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều.-Không biết xác định các luận điểm, luận cứ-Chưa biết cách dựng đoạn.-Diễn đạt lủng củng.-Phân bố thời gian làm bài chưa hợp lí: Dành quá nhiều thời gian cho câu ít điểm, đến câu cuối (tự luận Văn học) còn quá ít thời gian.-Lúng túng, mất nhiều thời gian cho việc viết mở bài… Vậy, làm thế nào để giúp học sinh khắc phục được những hạn chế trên?

Cuốn sách “Phân tích 42 bài văn trong chương trình ngữ văn 9” của tác giả Bùi Thức Phước giúp các em hiểu một cách trọn vẹn các nội dung, dàn ý trong các bài văn của chương trình ngữ văn 9, đó là cơ sở để các em đưa cảm xúc của mình vào các bài viết.

Cuốn sách “Những Bài Làm Văn Tiêu Biểu 9” của tác giả Nguyễn Xuân Lạc bám sát chương trình sách giáo khoa hiện hành đồng thời tuyển chọn các bài văn hay của các tác giả là nhà văn, nhà phê bình, của các thầy cô giáo cũng như của chính các em học sinh. Đó là những bài văn tiêu biểu, được đánh giá cao và đã được đăng trên các tạp chí, báo chí, các sách tham khảo khác, để từ đó giúp các em học sinh nâng cao năng lực làm văn của mình.

Cuốn sách Những bài làm văn tiêu biểu 9, gồm có hai phần:

I. Một số vấn đề về phương pháp làm các kiểu bài ở lớp 9.

II. Tuyển chọn các bài làm văn hay ở lớp 9.

Phần II, được tuyển chọn những bài văn hay thuộc chương trình Tập làm văn lớp 9, bao gồm các kiểu bài:

1. Kiểu bài thuyết minh (có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật, đặc biệt là các yếu tố miêu tả).

2. Kiểu bài tự sự (kết hợp với miêu tả, nghị luận, đối thoại và độc thoại…)

3. Kiểu bài nghị luận (nghị luận về xã hội và nghị luận về văn học)

4. Tập nhận diện thơ tám chữ và tập làm thơ tám chữ.

Những bài làm văn hay được tuyển chọn đều cố gắng đạt được yêu cầu: tiêu biểu, vừa trình độ, dễ tiếp nhận, dễ vận dụng.

Cách làm các dạng đề nghị luận văn học đạt điểm tuyệt đối trong kỳ thi THPT Quốc gia 2021là tài liệu hay nhằm giúp các bạn thí sinh định hướng ôn luyện môn Văn một cách hiệu quả để đạt điểm số cao trong kỳ thi THPT quốc gia 2021.

Bên cạnh đó, thông qua tài liệu này còn giúp các bạn thí sinh định hướng ôn luyện môn Văn và nắm vững những kiến thức cơ bản để chinh phục kỳ thi THPT quốc gia 2021 sắp tới. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu bằng cách chọn tải về.

Các dạng đề nghị nghị luận trong đề thi THPT quốc gia 2021

Thống kê các dạng đề nghị luận văn học, dàn ý của từng kiểu bài.

  • Dạng đề Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ
  • Dạng đề phân tích cảm nhận về đoạn trích văn xuôi
  • Dạng đề nghị luận về tình huống truyện
  • Dạng đề phân tích/ cảm nhận nhân vật trong tác phẩm
  • Dạng đề so sánh, đối chiếu: hai nhân vật, hai chi tiết, hai tư tưởng, hai đoạn thơ, hai hay nhiều bài thơ
  • Dạng đề bình luận một ý kiến bàn về văn học.
  • Dạng đề nghị luận hai ý kiến bàn về văn học.
  • Dạng đề tích hợp nghị luận xã hội : Phân tích, cảm nhận về tác phẩm, sau đó liên hệ thực thế. Đây là kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Dàn ý của từng kiểu bài:

1. Cách làm dạng đề nghị luận về bài thơ, đoạn thơ

Có các kiểu ra đề như:

1/ Phân tích toàn bộ bài thơ.

2/Phân tích một đoạn thơ.

3/ Phân tích một khía cạnh trong đoạn thơ, bài thơ. 4/ Phân tích một hình ảnh, chi tiết trong bài thơ.

5/So sánh giữa hai bài thơ, hai đoạn thơ. 6/Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, đoạn thơ

Dàn ý chung cho dạng đề nghị luận về bài thơ, đoạn thơ.

1. Mở bài:

  • Giới thiệu tác giả và bài thơ, đoạn thơ cần phân tích chép nguyên văn đoạn thơ trong đề bài, nếu là đoạn thơ dài thì chỉ cần chép hai câu đầu, chấm chấm, rồi chép câu cuối).
  • Giới thiệu ý kiến bàn về bài thơ (nếu đề bài yêu cầu nghị luận về ý kiến)
  • Giới thiệu vấn đề nghị luận.
  • Nếu là dạng đề so sánh hai bài thơ, hai đoạn thơ thì mở bài phải giới thiệu cả hai tác giả và hai bài thơ. Phần mở bài chỉ cần nêu ngắn gọn nét chính về tác giả tác phẩm (vài dòng)

2. Thân bài:

+ Khái quát về phong cách tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính, của bài thơ

+ Nêu vị trí đoạn thơ, thể thơ, chú ý âm điệu, giọng điệu

+ Phân tích cụ thể:

Có thể bổ ngang : phân tích từng khổ, từng dòng, nếu là thơ Đường luật thì phân tích theo từng cặp Đề Thực- Luận -Kết .Riêng đối với thơ tứ tuyệt (ví dụ một số bài thơ của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù), cách thức thông thường là chia theo cấu trúc: khai, thừa, chuyển, hợp; hoặc chia thành hai câu đầu và hai câu cuối (tuỳ từng bài cụ thể).

Có thể bổ dọc bài thơ : Phân tích theo hình tượng, theo nội dung xuyên suốt bài thơ.Đưa các nội dung chính của bài thơ, đoạn thơ thành các luận điểm lớn, nếu đề yêu cầu cảm nhận đoạn thơ, câu thơ, thì các em chia nhỏ các nội dung có trong đoạn, trong câu, biến chúng thành các luận điểm lớn để đi sâu cảm nhận.

Chú ý những hình ảnh biểu tượng, những lối nói ví von so sánh, những biện pháp nghệ thuật tiêu biểu . Khi phân tích thì thao tác giảng giải, cắt nghĩa là quan trọng nhất, nhằm giúp cho người đọc hiểu được ý nghĩa của các hình ảnh biểu tượng, ý nghĩa của từ ngữ, câu thơ, đoạn thơ.

Trong quá trình phân tích, luôn luôn hướng đến sự tổng hợp, khái quát ở từng cấp độ sao cho thích hợp để rồi tiến tới những khái quát lớn của toàn bài. Phân tích phải đi kèm với đánh giá và bình luận, tránh diễn nôm bài thơ.Mỗi đoạn văn các em nên viết theo cách diễn dịch hoặc quy nạp, nhớ trình bày rõ câu chốt, câu diễn giải, câu dẫn chứng, câu khái quát nội dung đoạn, câu chuyển đoạn linh hoạt.

Kết bài: Đánh giá khái quát về bài thơ, đóng góp riêng của tác giả

Những đoạn thơ trọng tâm trong chương trình thi THPT Quốc Gia

- Tây Tiến Quang Dũng: Đoạn 1-2-3

- Việt Bắc Tố Hữu:

  • 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc
  • Đoạn: Nhớ gì như nhớ người yêu
  • Chày đêm nện cối đều đều suối xa
  • Đoạn Bức tranh tứ bình : Ta về mình có nhớ ta. Thuỷ chung
  • Đoạn Việt Bắc trong kháng chiến : Những đường Việt Bắc của taĐèo De núi Hồng

- Đất nước Nguyễn Khoa Điềm (Trích trường ca Mặt đường khát vọng)

Bài này dài, các em cần chú ý những đoạn tiêu biểu sau:

  • Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi.Đất nước có từ ngày đó
  • Đất là nơi anh đến trườngCũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ
  • Trong anh và em hôm naylàm nên đất nước muôn đời
  • Em ơi em hãy nhìn rất xa.đất nước của ca dao thần thoại

- Sóng Xuân Quỳnh: Bài này khổ nào cũng quan trọng, có thể phân tích từng khổ, hoặc phân tích cả bài để chứng minh nhận định.

- Đàn ghi ta của Lor-Ca Thanh Thảo: Cả bài, chú ý hình tượng nhân vật Lor- ca

Ví dụ minh họa: Phân tích bức tranh tứ bình - Việt Bắc

Ta về, mình có nhớ ta ?
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

- Các ý chính cần đạt:

- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.

- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người hoa cùng người: Đoạn thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.

- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:

+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian

+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man, tinh khiết, đẹp đến nao lòng.

+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.

+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.

- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm lặng trong những công việc của đời thường:

+ Mùa đông trở nên ấm áp với ánh nắng dao giài thắt lưng.

+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của người đan nón

+ Bức tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình

+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.

- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại

+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả

+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức tranh.

Bài làm:

Việt Bắc là một trong những tập thơ hay nhất của Tố Hữu. Tập thơ này chủ yếu viết về thời kỳ kháng chiến chống Pháp, trong đó Việt Bắc được xem là đỉnh cao của thơ Tố Hữu. Bài thơ là một bức tranh trữ tình mà hoành tráng, bao quát cả một diện lớn vé thời gian suốt 15 năm Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh, trên một không gian là toàn bộ Việt Bắc, kéo tràn sang Tây Bắc. Bút cảa Tố Hữu ở bài thơ này tỏ ra rất dồi dào. Việt Bắc là một bài thơ dài, không phải đoạn nào viết cũng đểu tay. Nhưng có những đoạn quả thật là đặc sắc mà ở đó người đọc thấy được vẻ đẹp của ngòi bút Tố Hữu:

Ta về, mình có nhớ ta ?
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu được xem là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng. Nói đến Tố Hữu là nói đến một tiếng thơ trữ tình chính trị. Suốt cả đời mình, Tố Hữu đã viết về lý tưởng lớn, lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn của người cách mạng. Người ta vẫn nói ở Tố Hữu có sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố cổ điển, dân gian và yếu tố cách mạng hiện đại. Có lẽ vì thế mà thơ Tố Hữu có khả năng thấm sâu vào tâm hồn quần chúng nhân dân. Cho đến nay, Tố Hữu đã cho xuất bản 6 tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, và gần đây nhất là Một tiếng đờn. Những tập thơ ấy đều gắn liền, tương ứng với những chặng đường lớn của cách mạng Việt Nam. Có lẽ vì thế mà có người đã gọi thơ Tố Hữu là cuốn biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Nghĩa là là cho đến nay, Tố Hữu đã hoàn chỉnh một phong cách thơ của mình, một cuộc đời thơ của mình.

Đoạn thơ trên là một trong những đoạn tiêu biểu của bài VB. Tất cả chỉ có 10 câu, tập trung nói đến một chủ đề nhưng nó đã đạt đến sự toàn bích. Đoạn thơ này cđ thể chia làm hai phần: phần đầu gồm hai câu. Nó như lời mở đầu đưa đẩy trong các cuộc hát giao duyên. Trong đó người con trai (người về xuôi) vừa ướm hỏi lòng người ở lại, vừa khẳng định những tình cảm trong lòng mình. Phần sau gồm 8 câu chia thành 4 cặp lục bát. ở mỗi cặp, cứ câu lục tả hoa thì câu bát tả người. Nó là một bức tranh tứ bình diễn tả hoa và người Việt Bắc trong bốn mùa bằng những nét đặc trưng nhất của miền đất này. Có thể nói, cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc tuy được mô tả rải rác trong cả bài thơ nhưng dường như nó được kết tinh vào đoạn này một cách hàm súc, cô đúc nhất.

Chúng ta biết bài thơ được viết theo hình thức hát đối đáp của dân gian. Hai câu thơ đầu, về chức năng đối đáp, là hai

câu đưa đẩy để nối liền các mảng đề tài trong một cuộc hát. Đó là người con trai ướm hỏi người con gái:

Ta về mình có nhớ ta

Lời hỏi vẫn có cái giọng tình tứ, với cách xưng hô ta mình mình ta. Nhưng quan trọng hơn vẫn là ở sự cao nhã trong tình cảm. Ta về chẳng biết mình có nhớ ta không, nhưng ngay cả khi mình không nhớ ta thì ta vẫn cứ nhớ mình. Mà nỗi nhớ mới duyên dáng và tế nhị làm sao:

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Như vậy là người ra đi khẳng định tình cảm của mình bằng nỗi nhớ mà là nhớ về những gì đẹp nhất của Việt Bắc. Đó là hoa và người. Trong nỗi nhớ của người đi hai hình ảnh này là đồng hiện, soi chiếu vào nhau. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên, còn người ta lại là hoa của đất. Vi vậy, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiển hiện hình người. Hoa và người không thể tách rời. Mà nói với một người con gái, lại nói hoa cùng người thì đó chẳng phải là một lời đánh giá kín đáo hay sao?

Và như thế, chủ đề của đoạn thơ đã được giới thiệu. Đó là hoa cùng người Việt Bắc.

Tranh tứ bình là một trong những loại hình rất phổ biến trong nghệ thuật trung đại. Nó thường là một bộ tranh gồm bốn bức mô tả bốn mặt của một đối tượng nào đấy. Vỉ vậy, tự nó đã cố tính hoàn chỉnh riêng. Thậm chí tự nó là một cách khái quát riêng, một thế giới riêng. Ta đã từng gặp những bộ tứ bình như: tùng trúc cúc mai, xuân hạ thu đông (tứ quý), ngư tiều canh mục, long li quy phượng, cầm kỳ thi hoạ Trong thơ ca chúng ta cũng từng gặp rất nhiều, đó là cảnh Trông bốn bể trong Chinh phụ ngâm, đoạn buồn trông khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, đoạn thơ mô tả bốn cảnh thuộc thời oanh liệt của con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ Những bức tranh tứ bình này giúp cho nhà thơ mô tả được một cách toàn diện và thâu tóm những gì là đặc trưng nhất. Tố Hữu đã sử dụng lối vẽ tranh tứ bình khá nhuần nhuyễn trong nhiều bài, đoạn thơ này có thể xem là bộ tranh tứ bình tứ quý về hoa và người của 4 mùa Việt Bắc.

Mở đầu là một hình ảnh có tính khái quát, trong đó Việt Bắc hiện lên như một miền quê thật lặng lẽ:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Gam màu cơ bản của bức tranh này là màu xanh. Đó là một màu xanh mênh mông và trầm tĩnh của rừng già. Nó gợi ra hình ảnh một xứ sở êm đềm, lặng lẽ, tĩnh. Nhưng trên cái nền xanh ấy, chúng ta nhìn thấy hình ảnh hoa chuối rừng bập bùng cháy như những bó đuốc. Ai đã biết hoa chuối nở, sẽ thấy rằng tuy tác giả chỉ viết hai chữ đỏ tươi nhưng cũng đủ gợi cho chúng ta biết hoa chuối đã làm sáng lên cả một góc rừng. Thế là hoa chuối làm cho cảnh rừng trở nên sống động hơn. Đồng thời hình ảnh hoa chuối lại được tô điểm thêm những tia nắng ở câu thứ hai càng làm cho không khí vốn trầm mặc ở nơi này trở nên tươi sáng và linh động. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh con người xuất hiện: Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Người đứng trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào lưỡi dao trên thắt lưng, loé sáng. Nó gợi được một tư thế vững chãi, tự tin của người làm chủ núi rừng. Tố Hữu thường mô tả con người trong tư thế ấy. Trong bài Lên Tây Bắc tác giả có viết:

Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều

Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo.

Cũng là một hình ảnh ấy nhưng ở đoạn thơ trên, Tố Hữu phải viết bằng 4 câu thơ 28 chữ. Còn ở bài Việt Bâc này dường như nhà thơ đâ cô đúc vào 8 chữ. Nhà thơ không vẽ kỹ mà chỉ chấm phá vài nét song cũng đủ cho ta hình dung khá rõ vê hình tượng. Vậy là, tương ứng với một cảnh hoa là một dáng điệu người, mỗi dáng điệu toát lên một phẩm chất của người Việt Bắc.

Bức tranh thứ hai:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Đến đây nên xanh trầm tĩnh đã nhường chỗ cho nền trắng tinh khiết của hoa mơ rừng. Hai chữ trắng rừng khiến cảnh rừng như bừng sáng. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu. Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này. Về sau, trong bài Theo chân Bác, Tố Hữu sẽ viết:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41 Trắng rừng biên giói nở hoa mơ Bác về. Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

Trên nễn cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng: Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gịang. Hai chữ chuốt từng gợi ra được dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi giang nỗi niềm gì, ước mơ gì?

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Trong những bức tranh trên, chúng ta mới chỉ thấy màu sác, đường nét và ánh sáng. Đến đây chúng ta còn nghe thấy được âm thanh của rừng, đó là tiếng nhạc ve. Nhạc ve làm cho không khí trở nên xao động. Phải nói rằng trong các bức tranh ở đây thi Việt Bắc mùa hè là đặc sắc hơn cả. Trong câu thơ, chúng ta thấy dường như có một phản ứng dây chuyền chạy từ đầu đến cuối câu thơ. Ve kêu gọi hè đến, hè đến làm cho những rừng phách ngả sang màu vàng. Ai đã lên Việt Bắc, dễ thấy hình ảnh kỳ lạ của những cánh rừng phách. Trong những ngày cuối cùng của mùa xuân, những cây phách vẫn là màu xanh, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá «, Nhưng khi những tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Chi cổ vài ba ngày mà những rừng phách đã lênh láng sắc vàng. Chữ đổ là một

chữ tinh tế. Nó nhấn mạnh vào khía cạnh mau lẹ trong việc biến đổi màu sắc, đồng thời diễn tả những trận mưa hoa vàng rừng phách mỗi khi có một luổng gió ào qua. Bõ ràng, gam màu đến đây đã thay đổi hằn, sấc trắng đã nhường chỗ hẳn cho sác vàng. Dường như âm thanh đã làm đổi thay màu sắc. Trên nền cảnh ấy xuất hiện một hình ảnh lao động đấy kiên nhẫn của một cô gái Việt Bắc: Nhớ cô em gái hái măng một mình. Hình ảnh này làm toát lên dáng điệu chịu thương, chịu khó, hay lam hay làm, giàu đức hy sinh. Bao bọc lên hình ảnh này dường như chúng ta thấy sự cảm thương kín đáo của người viết.

Bộ tranh này kết thúc bằng bức tranh thu. Ba bức tranh trên là cảnh ngày, riêng bức này là cảnh đêm. Bức tranh vẽ ra những ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành một khung cảnh huyển ảo: Rừng thu trăng rọi hoà bình. Nó xui khiến ta nhớ đến một câu thơ cũng viết vể đêm rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh: Trăng lồng cồ thụ bóng lồng hoa. Đây đúng là khung cảnh trữ tình dành cho những cuộc hát giao duyên. Cho nên nó là cảnh cuối cùng: Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Chữ ai là cách nói bóng gió, ám chỉ người đang hát cùng với mình, làm cho lời lẽ trở nên tình tứ hơn. Và qua tiếng hát chúng ta thấy được phẩm chất ân tình, chung thuỷ của người Việt Bắc.

Tóm lại, bốn bức tranh, bốn cảnh sắc, bốn dáng điệu. Tố Hữu đã thâu tóm được những gì là đặc trưng nhất của quê hương cách mạng. Điều thú vị là tất cả đều hiện lên trong điệp khúc nhớ thương. Những chữ nhớ đứng ở đầu câu tạo nên âm hưởng rất mặn mà, da diết của nỗi nhớ. Trong nỗi nhớ tất cả đều hiện lên lung linh hơn, huyền ảo hơn.

2. Cách làm bài nghị luận về đoạn trích văn xuôi

Đối tượng của kiểu bài này rất đa dạng: Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói chung, có thể chỉ là một phương diện, thậm chí một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật của đoạn trích đó.

Yêu cầu của bài văn nghị luận về một đoạn trích văn xuôi:

Ngoài yêu cầu chung của một bài văn nghị luận: bố cục bài viết rõ ràng; trình bày ý khoa học; hành văn có cảm xúc, linh hoạt; dẫn chứng phải chính xácBài văn nghị luận về một đoạn trích văn xuôi cũng có những yêu cầu riêng :

Phải phân biệt được nghị luận về một đoạn trích và nghị luận về một tác phẩm. Nghĩa là tránh việc đề cập tới tất cả các nội dung của tác phẩm còn nội dung của đoạn trích lại sơ lược.

Tập trung vào đoạn trích nhưng phải biết vận dụng kiến thức của toàn tác phẩm như nội dung tư tưởng, cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết, cách xây dựng nhân vật, các biện pháp tu từ. Nhất thiết phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể của tác phẩm mới có cách đánh giá chính xác.

Các bước làm bài :

a) Bước 1: Phân tích đề xác định các yêu cầu của đề:

Xác định dạng đề;

Yêu cầu nội dung (đối tượng);

Yêu cầu vê phương pháp;

Yêu cầu phạm vi tư liệu, dẫn chứng.

Học sinh cần đọc kĩ đoạn trích; xác định được yêu cầu của đề; triển khai luận điểm, luận cứ phù hợp; biết vận dụng các thao tác nghị luận để viết bài văn.

b) Bước 2: Lập dàn ý tìm ý, sắp xếp ý: Theo bố cục ba phần

Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích văn xuôi cần nghị luận.

Giới thiệu vấn đề nghị luận

Thân bài: Phân tích những giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đoạn trích để làm rõ vấn đề cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của đoạn trích.

Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.

c) Bước 3: Viết bài.

Dựa theo dàn bài đã xây dựng, viết thành bài văn hoàn chỉnh.

Chú ý viết đoạn văn phải thể hiện được nổi bật luận điểm và chứng minh bằng những luận cứ rõ ràng. Các đoạn phải có liên kết, chuyển tiếp nhau.

d) Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa.

Ví dụ minh hoạ:

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi Mị bị A Sử trói vào cột, Tô Hoài viết:

Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

(Vợ chồng A Phủ Tô Hoài)

Từ đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm rõ hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.

Đề bài đặt ra hai yêu cầu: hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.

Ví dụ cụ thể:

A. Mở bài:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm: có thể chọn lọc cá ý sau đây để đưa vào mở bài:

Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống găn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số (Thái, Mường, Mông, Dao..) nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi Thôi thúc Tô Hoài viết Truyện Tây Bắc trong đó có Vợ chồng A Phủ

Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập truyện Tây Bắc. Truyện được giải nhất Truyện và kí VN năm 1954- 1955. Tác phẩm gồm hai phần , đoạn trích trong sách giáo khoa là phần một.

- Giới thiệu đọan trích cần nghị luận (Không cần chép hết đoạn trích vào bài thi nhé)

- Vấn đề nghị luận: hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.

B. Thân bài:

Luận điểm 1: Khái quát về tác phẩm và vị trí đoạn trích (ngắn gọn) Luận điểm 2: Phân tích đoạn trích để làm nổi bật vấn đề

Học sinh phải tách tách thành hai ý theo yêu cầu của đề bài. Trong mỗi ý lớn, học sinh phải xác định được các ý nhỏ.

1. Hình ảnh nhân vật Mị

Mị có khát vọng sống mãnh liệt (Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào).

+ Mị vốn là một cô gái yêu đời, có khát vọng sống mãnh liệt. Dù bị trà đạp nghiệt ngã nhưng khát vọng ấy đã trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân.

+ Nếu ban đầu, tiếng sáo còn là yếu tố ngoại cảnh, giờ đây tiếng sáo đã nhập hẳn vào tâm hồn Mị. Mị đang sống trọn với nó. Tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu, tình đời; tiếng sáo vẫn tha thiết, giục giã; tiếng sáo đã đánh thức khát vọng sống nơi Mị.

Số phận của Mị (Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa).

+ Mị bừng tỉnh, dây trói của A Sử làm Mị nhận ra hiện thực nghiệt ngã. Khát vọng sống của Mị đã bị chặn đứng.

+ Mị nghĩ mình không bằng con ngựa và thực tế cuộc đời Mị không bằng con ngựa (Mị là con dâu gạt nợ, là thân phận nô lệ, bị giam hãm)

-> Tấm lòng của nhà văn.

2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn

Nhà văn như đã nhập thân vào nhân vật Mị và miêu tả diễn biến tâm lí theo một trình tự hợp lí :

+ Để đánh thức sức sống đang tiềm tàng trong Mị, nhà văn trả lại cho Mị kí ức đẹp.

+ Đang sống trong quá khứ mà quên cả hiện tại đang bị trói nên Mị vùng bước đi.

+ Khi nỗi đau thể xác ập đến, thế giới mông tưởng bị dập tắt, Mị không nghe tiếng sáo nữa mà nghe tiếng chân ngựa.

Sử dụng yếu tố ngoại cảnh có hiệu quả : hơi rượu, tiếng sáo, bài hát quen thuộc.

-> Tài năng của nhà văn

C. Kết bài: đánh giá chung

Những đoạn trích văn xuôi cần lưu ý trong kì thi THPT quốc gia

Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh

Đoạn mở đầu : Hỡi đồng bào cả nước.Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được

Vợ chồng A Phủ Tô Hoài

- Cảm nhận đoạn trích: Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi [.] Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.

- Cảm nhận đoạn trích: Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ[] không biết sáng tự bao giờ.

- Cảm nhận đoạn trích: Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn[] Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi.

- Cảm nhận đoạn trích: Lần lần mấy năm qua, mấy năm sau[] Đến bao giờ chết thì thôi.

Vợ nhặt Kim Lân

- Cảm nhận đoạn trích: Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào[] Thị có vẻ rón rén, e thẹn.

- Cảm nhận đoạn trích: Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà [] ấy thế mà thành vợ thành chồng.

- Cảm nhận tâm trạng bà cụ Tứ qua đoạn trích: Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho[]nước mắt chảy xuống ròng ròng.

- Cảm nhận đoạn trích: Sáng hôm sau mặt trời lên bằng con sào [] tu sửa lại căn nhà.

- Cảm nhận đoạn trích: Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại [] lá cờ đỏ bay phấp phới.

- Cảm nhận đoạn trích: Bà lão cúi đầu nín lặng. chúng mày về sau

Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành.

- Cảm nhận đoạn trích: Làng ở trong tầm đại bác [] đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.

- Cảm nhận đoạn trích: Tnú không cứu sống được Mai [] chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo.

- Cảm nhận đoạn trích: Một ngón tay Tnú bốc cháy [] mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về.

- Giải thích và bình luận câu nói của cụ Mết: Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo.

- Giải thích và bình luận câu nói của cụ Mết: Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã cây con mọc lên. Đố chúng nó giết hết được cả rừng xà nu này.

Mời các bạn tải về để xem nội dung chi tiết tài liệu