Các văn bản nghị luận trung đại lớp 8

Bên cạnh đó, Trần Quốc Tuấn còn đưa ra những thú vui khoái lạc của các tướng sĩ cần phê phán. Vừa chân tình mà nghiêm khăc, răn dạy binh sĩ phải nghe theo. Bởi khi giặc ồ ạt kéo vào kinh đô, thì “cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp giặc, mẹo cờ bạc không thể làm mưu lược nhà binh, chén rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm giặc điếc tai”… để đến nỗi “ta cùng các ngươi khi ấy sẽ bị bắt, đau xót biết nhường nào”. Khi ấy, nước mất nhà tan, trăm dân trăm họ sống trong cảnh lầm than cơ cực; không những thế “thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu…”.

Dù trong loạn lạc, trước tình thế sắp mất, nhà sắp tan, tinh thần yêu nước vẫn không hề nguôi ngoai trước sức mạnh của quân địch, không hề làm tinh thần suy sụp, chán nản trước trận đánh sắp sửa xảy ra. Bằng niềm tin và lòng kiên định của bậc trung quân ái quốc, Trần Quốc Tuấn đã đứng lên, dập tắt nhưng suy nghĩ thất bại tỏng lòng các tướng lĩnh, vực họ dậy bằng lời lẽ đanh thép, mạnh mẽ, đầy sự răn đe nhưng cũng chan chưa một nỗi niềm cảm xúc. Tất cả đã tạo nên một bài hịch đầy sức truyền cảm mãnh liệt, tác động đến tinh thần tướng sĩ, gắn kết tướng sĩ và chủ soái trong nhiệm vụ vì dân vì nước, vì nền độc lập tự do.

“Hịch tướng sĩ” là bài ca yêu nước và niềm tự hào dân tộc, Nó là áng văn chính luận hùng hồn, sục sôi nhiệt huyết và tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng của muôn vạn hùng binh. (Bạn đọc có thể viết thêm phần nghệ thuật bài Hịch để phân tích được cách thể hiện).

Mặc dù vậy ở “Hịch tướng sĩ” vẫn có những mặt hạn chế. Tinh thần yêu nước và kháng chiến của các tướng sĩ là quan trọng, nhưng:

“Dễ trăm lần không dân cũng chịu, Khó vạn lần dân liệu cũng xong”

Dân mới là điều quan trọng hơn cả để xây dựng một khối lực lượng đoàn kết vững chắc. Tuy nhiên, trải qua nhiều năm cùng muôn vàn triều đại thịnh trị, đất nước phát triển, tầm vóc tư tưởng cao hơn; đất nước, vua quan đã biết lấy dân làm gốc. Ở một vi trí hưởng thái bình tự do sau khi dánh thắng giặc Minh hung tàn ngang ngược, bài cáo “Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi đã cho thấy tầm vóc quan trọng của nhân dân, đồng thời khám phá chủ nghĩa, tinh thần yêu nước ở một thời đại hoàn toàn khác.

Đầu xuân năm 1428, hưởng nền thái bình cực thịnh trị, Nguyễn Trãi đã thay mặt Lê Lợi tổng kết 10 năm kháng chiến luôn song hành với tinh thần yêu nước và tuyên bố nước Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của “muôn thuở thái bình vững chắc”.

Tự hào đất Việt vón có nền văn hiến đã lâu, có lãnh thổ núi sông bờ cõi, có thuần phong mĩ tục, có nền độc lập tự chủ riêng và trong mọi thời đại luôn có nhân tài hào kiệt, Nguyễn Trãi viết bài cáo với niềm vui sướng hân hoan, tự hào vì “Việt Nam là một dân tộc anh hùng”.Trước tiên, nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa mà tác giả đang nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp: đánh giặc để cứu dân cứu nước, vì độc lập dân tộc và vì tự do, hòa bình, hạnh phúc của nhân dân. Qua đó ta mới biết nhân nghĩa là cái gốc của đạo lí, là nguồn gốc sức mạnh Việt Nam. Khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền dân tộc Đại Việt, Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xây dựng độc lập, chủ quyền dân tộc:

“Như nước Đại Việt ra từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương, Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”

Quan niệm của Nguyễn Trãi luôn từng bước phát triển cao hơn, toàn diện và sâu sắc hơn trong học thuyết quốc gia, dân tộc trung đại. Trong bài thơ “Nam quốc sơn hà”, ý thức về quốc gia dân tộc được xác định trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền nhưng chỉ mới là chủ quyền của triều đình vua quan. Đến với “Nước Đại Việt ta”, Nguyễn Trãi đã có thêm những yếu tố khác như văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Nguyễn Trãi đã thể hiện một ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc sâu sắc khi nói về chủ quyền độc lập dân tộc: “Như nước Đại Việt ta từ trước…” Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách rõ ràng: các triều đại của Đại Việt luôn sánh ngang hàng với các triều đại phương Bắc, mỗi bên xưng đế một phương”.

“Nước Đại Việt ta” như là một bản tuyên ngôn độc lập. Để làm sáng tỏ nguyên lí nhân nghĩa, Nguyễn Trãi cũng đã đưa ra các dẫn chứng:

“Lưu Cung tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”

Kẻ xâm lược là kẻ đi ngược lại nhân nghĩa. Nói về thất bại của kẻ thù là ca ngợi thắng lợi hào hùng của dân tộc ta. Lời văn Nguyễn Trãi âm vang niềm tự hào dân tộc, sáng ngời chính nghĩa bằng lối nghệ thuật chính luận cao cường, giàu sức thuyết phục, cách viết sóng đôi, đề cao mọi thứ của nước Nam như là của tạo vật hiển nhiên, đời nào cũng có, có từ trước và lúc nào cũng khác.

Cả ba tác phẩm “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Nước Đại Việt ta” đều là những áng văn chương hào hùng của dân tộc. Mỗi tác phẩm đều được viết ở mỗi thời kì, mỗi triều đại khác nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nhưng đều chung một lòng, một tinh thần yêu nước. Trải qua nhiều năm văn hiến lịch sử, cách khám phá và thể hiện lòng yêu nước ở từng thời kì khác nhau song đều chung một lòng mong muốn xây dựng đất nước vững mạnh, độc lập tự chủ ỏ cả giai đoạn dựng nước và giữ nước của dân tộc. Xây dựng đất nước ở những buổi đầu còn dựa vào “ý trời”, dựa vào người cầm gươm giáo đánh giặc nhưng ở thời kì thịnh trị, tự hào dân tộc, cái nhân nghĩa là giá trị lâu dài của lòng yêu nước. Đó chính là cách khám phá và thể hiện của mỗi tác giả, thông qua tác phẩm về tinh thần “nồng nàn yêu nước” của Đại Việt ta.

Nguồn ST