Bảng tổng kết các tác phẩm văn học lớp 12 năm 2024

Nguyễn Minh Châu là nhà văn lớn của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Từng là cây bút xuất sắc của nền văn học sử thi thời kháng chiến chống Mĩ, từ sau 1975, Nguyễn Minh Châu lại là nhà văn tiên phong của sự nghiệp đổi mới, là một trong số nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học Việt Nam (Nguyên Ngọc). Sáng tác của Nguyễn Minh Châu phản ánh khá trung thành quá trình vận động, phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại trong một vài thập kỉ trước và sau 1975. Theo Nguyễn Minh Châu, đó là sự vận động chuyển đổi trong mục đích sáng tác, sau chiến tranh, các nhà văn Việt Nam đã chuyển từ cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc sang cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người. Sự vận động chuyển đổi ấy được thể hiện rõ nét trong hai giai đoạn sáng tác của Nguyễn Minh Châu: Từ những tác phẩm mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn như Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính ca ngợi cái đẹp cái cao cả, thánh thiện như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng của con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại; sau năm 1975, Nguyễn Minh châu đã hướng sự quan tâm của mình tới cuộc sống đời tư – thế sự, thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc với số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan, đau khổ kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thời kỳ đổi mới của Nguyễn Minh Châu, khi nhà văn bắt đầu hướng đến sự quan tâm của mình tới cuộc sống đời tư – thế sự. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987. II. Phân tích tác phẩm. Tình huống về nhận thức chân lý nghệ thuật Phát hiện chiếc thuyền ngoài xa

Tuyệt đỉnh ngoại cảnh

Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh cảnh biển buổi sáng có sương, một tấm ảnh không có con người. Suốt một tuần kiên nhẫn trên một vùng biển miền Trung, nơi có phong cảnh thơ mộng, có sương mù tháng bảy, cũng là chiến trường xưa, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Chi tiết này đã cho thấy những phẩm chất đáng quý trọng của một nghệ sĩ có trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo nghệ thuật, có ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật – một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và công phu. Điều kì diệu của nghệ thuật đã bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng, khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt biển xa: mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Trong cảm nhận của Phùng, đó là cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh; là cảnh đắt trời cho quý giá, hi hữu, kì diệu, là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.

Thăng hoa cảm xúc

Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảnh khắc tràn ngập hạnh phúc cho người nghệ sĩ, anh thấy bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào, đó là sự xúc động vì thấy mình vừa may mắn được tạo hóa ân thưởng, sự may mắn không có nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát được khám phá và sáng tạo cái Đẹp. Trong giây phút thăng hoa của cảm xúc, thậm chí nghệ sĩ còn như phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức, anh như vừa khám phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn – đó là khoảnh khắc con người cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa để trở nên trong sáng, thánh thiện khi đứng trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên.

Những xúc cảm này cho thấy tư chất nghệ sĩ của Phùng, con người có tâm hồn nhạy cảm, có những rung động tinh tế trước cái Đẹp. Đó cũng chính là sự giác ngộ, nhận thức về sức mạnh kì diệu của cái đẹp, của nghệ thuật đối với con người, bởi nói như quan niệm của Dostoiepxki: “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới” – khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến cái xấu, cái ác, cái dung tục, tầm thường của cuộc đời mà để tâm hồn mình bay bổng hướng thiện.

Nhận thức về nghệ thuật (cuộc đời đa sự)

Trong giây lát, người nghệ sĩ còn k hám phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn” Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi.

Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Với tác dụng ấy, cái đẹp chẳng phải là đạo đức hay sao? Nhà văn Thạch Lam từng quan niệm “Văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo thay đổi thế giới giả dối, tàn ác vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn” và truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chi tiết cuối truyện: Ngục quan cảm động, vái lạy người tử tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào ké miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội xin bái lĩnh giúp ta hiểu rõ hơn những tác động thẩm mĩ diệu kì của văn học nói riêng và của nghệ thuật nói chung đối với tâm hồn con người.

Phát hiện chiếc thuyền gần bờ

Khung cảnh đối lập

Ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những xúc cảm thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra mọi thứ không đơn giản như mình thấy. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi;

Hóa ra đằng sau vẻ đẹp lung linh kia lại là một nỗi đời nhọc nhằn, đầy nghịch lí, đầy bi kịch mà nghệ thuật không phải lúc nào cũng chuyển tải hết được. Liệu bức ảnh chiếc thuyền trong sương sớm kia thực sự là một kiệt tác nghệ thuật như anh mong đợi?

một gã đàn ông to lớn, dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo;... Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát...

Nghệ thuật có giá trị gì khi nó chỉ là một mảng sáng của cuộc đời được nhìn từ viễn cảnh? Có thể chấp nhận một thứ nghệ thuật dù nó đẹp đẽ huyền ảo đến đâu đi chăng nữa nhưng lại dửng dưng và lẩn tránh sự thật cuộc đời?

Cảm xúc ngƣời nghệ sĩ

Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ: “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồn ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như chết lặng, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thất “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là đạo đức là cái toàn thiện của cuộc đời.

Nguyễn Minh Châu đã gặp gỡ tri kỉ tiền nhân Nam Cao, người đã từng hơn một lần để cho các nhân vật thay lời mình phát ngôn những quan điểm đúng đắn về nghệ thuật và người làm nghệ thuật: “Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối càng không phải là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” (Giăng sáng) và người làm nghệ thuật phải “mở lòng ra để đón lấy tất cả những gì vang động ở đời” (Đời thừa).

Chân lý nghệ thuật

Cùng một thời điểm, cùng một người quan sát, nhưng với hai cự li và góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã phát hiện ra hai bức tranh hoàn toàn tương phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối trong cuộc sống con người. Nghịch lí đau đớn này sẽ đưa đến những nhận thức sâu sắc, mới mẻ cho người nghệ sĩ về cách nhìn với hiện thực cuộc đời.

 Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp – xấu, thiện – ác. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời những không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật. Nhà văn khẳng định: đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.

Tình huống về nhận thức về con ngƣời và cuộc sống Trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển vốn đầy chữ nghĩa sách vở “có một cái gì vừa vỡ ra”, “lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”. Cũng như Đẩu, nghệ sĩ Phùng đã lặng im sau câu chuyện của người đàn bà. Có lẽ người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm suy nghĩ về người phụ nữ này, về người bạn mình – chánh án Đẩu và về chính mình?

Phát hiện về ngƣời đàn bà

Người đàn bà hàng chài xuất hiện ở tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà nghèo khổ ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Người đàn bà hàng chài đã từ chối lời đề nghị và sự giúp đỡ của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng. Chị đau đớn đánh đỏi bằng mọi giá để không phải bỏ lão chồng vũ phu: “Quý tòa bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...” Chị chấp nhận tất cả: sự đau đớn thể xác, sự cam chịu nhẫn nhục tinh thần, sự tủi hờn thân phận. Để có một gia đình trọn vẹn, để con thuyền gia đình có người chèo lái, để những đứa con chị có cha, để chúng có những bữa ăn no mà nếu chỉ có một mình chị không thể gánh vác được. Niềm vui nhất của người mẹ nghèo ấy là gì? Là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no. Chỉ vì điều ấy mà chị chấp nhận “phải có một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba, dù hắn có man rợ

Người đàn bà hàng chài: Cuộc đời đầy sự bất ngờ không thể lí giải được, cứ tưởng con người ta yếu hèn nhu nhược hóa ra lại vô cùng lớn lao, cao cả; cứ tưởng con người ta dốt nát, kém hiểu biết hóa ra lại vô cùng trải nghiệm. Người phụ nữ ấy đã tỏ ra rất sâu sắc, thấu tỏ lẽ đời, hiểu biết cuộc đời và con người hơn rất nhiều những người vốn tự cho mình thông tỏ mọi sự trên đời, cho dù chị tự nhận những suy nghĩ của mình là cái sự lạc hậu. Chị hiểu việc mình làm và chấp nhận cuộc sống ấy chứ hoàn toàn không phải do dốt nát, lạc hậu như chị tự nhận. Vì một lẽ nào đó, con người có khi phải sống trong bi kịch, buộc phải chấp nhận bi kịch. Với người đàn bà này, cội

tàn bạo”. Biết mình khổ nhưng người phụ nữ ấy vẫn âm thầm nhẫn nhục chịu đựng mà không hề than vãn cho bản thân. Ngược lại chị còn nhận trách nhiệm về mình: “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá” và thanh minh cho chồng “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm không bao giờ đánh đập tôi”

rễ của sự cam chịu ấy chính là tình mẫu tử. Vì chị sống cho những đứa con, vì chị là một người mẹ. Một người mẹ không chỉ biết lo đủ miếng ăn cho con mà còn muốn con lớn lên đúng nghĩa một con người, một người mẹ không muốn làm tổn thương những tâm hồn non nớt nên âm thầm một mình xin chồng lên bờ đánh. Chị biết cách dạy con hơn nhiều người mẹ khác khi cho con lên ở với ông ngoại, chị không giống những người mẹ muốn lôi kéo con làm đồng minh nên sẵn sàng kể tội, nói xấu bố chúng. Người phụ nữ ấy thật vị tha và vô cùng cao thượng. Trước mắt Phùng, chị không còn là nạn nhân để cho công lí và lòng tốt dang tay cứu vớt. Lòng thương hại ở Phùng đã nhường chỗ cho sự kính trọng và niềm khâm phục.

Phát hiện về chính mình

Về ngƣời đồng đội cũ – chánh án Đẩu: anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng với mọi đối tượng.

Về chính mình: Mình đã đơn giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người. Chính vì hiểu đời một cách phiến diện bề ngoài mà anh đã thất bại thảm hại, hành đông cứu người anh chỉ là một phiên bản của người đã từng lao vào đánh nhau với cối xay gió trong trang sách của nhà văn Xecvantec mà thôi. Lẽ đời hoàn toàn không đơn giản, con người lại càng bí ẩn, tưởng xấu lại tốt, tưởng cao cả lại hóa ra thấp hèn, tưởng tội phạm nhưng lại là nạn nhân “lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng rắn rết, thiên thần và ác quỷ” (Bức tranh).

Lão chồng vũ phu kia hiển nhiên là độc ác vừa vi phạm pháp luật vừa vi phạm nghiêm trọng đạo nghĩa phu thê, phải bị người đời lên án, bị pháp luật trừng trị. Phùng đã từng cho là như thế. Nhưng lão chồng đó là kẻ tội đồ hay cũng là một nạn nhân của cuộc sống đói nghèo và lạc hậu. Tẩy chay lão ra khỏi cuộc đời người phụ nữ đó có phải là thượng sách?

Tống lão vào tù là làm điều chính nghĩa, đòi lại sự công bằng, đem lại hạnh phúc cho người phụ nữ hay không? Hay là lại đẩy chị và cuộc sống của những đứa con trên chiếc thuyền mỏng manh kia vào bão tố. Nhưng nếu không trừng trị lão thì bi kịch tinh thần và thể xác người phụ nữ và những đứa con đến khi nào mới có hồi kết? Cuối cùng thì những người cầm cán cân công lí ở cái làng chài hẻo lánh này cũng cố tìm được một giải pháp: triệu tập lão chồng lên để giáo dục. Nhưng xem ra, Phùng cũng không mấy tin tưởng vào tính khả thi của giải pháp này. Trận bão biển và bài học cuộc sống

Không phải ngẫu nhiên mà cuối tác phẩm Phùng bất ngờ chứng kiến “trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét”, lại một cơn bão sắp về mà chiếc thuyền vó bè vẫn chơ vơ trên biển cả mênh mông.

Phải chăng Phùng vẫn canh cánh một nỗi niềm: những lời giáo huấn tốt đẹp có làm giảm được không những gian khó, nhọc nhằn mà hằng ngày gia đình họ phải đối mặt, có đem lại cho những đứa trẻ tội nghiệp kia những bữa ăn no, có chống chọi được với những bão táp trên biển khơi vẫn ngày ngày tiếp diễn?

Đến đây, hiển hiện trước mắt Phùng một thực tế oái ăm nữa của cuộc sống: Không phải con người lúc nào cũng đấu tranh với nhau mà nhiều khi phải chịu đựng lẫn nhau. Những con người lao động và lương thiện hết đời này sang đời khác đã chịu bao nhiêu đau khổ

Con đường đi tìm chân lí nghệ thuật và chân lí cuộc đời của Phùng có thể coi là một quá trình đốn ngộ. Kiểu nhân vật này không phải bây giờ mới xuất hiện. Ở thế kỉ XIX, trong Chiến tranh và Hòa

và bất công để nuôi sống con cái làm cho đời sống bất diệt... Giữa các quốc gia với nhau, trong một gia đình, một cặp vợ chồng, nói chung là giữa con người với con người không phải lúc nào cũng sẵn sàng xé toang ra, mỗi người mỗi ngả, như thế thì còn đâu là cuộc sống” (lời tâm sự của nhà văn về tác phẩm).

bình của nhà văn Nga Ltônxtôi, chàng quý tộc Andrây cũng đã phải trải qua bao nhiêu băn khoăn trăn trở và giằng xé trong tâm hồn mới tìm ra chân lí đích thực của cuộc sống: “cuộc đời ta phản chiếu lên mọi người, sao cho cuộc đời ta trôi qua không chỉ mình ta”.

Có 3 vấn đề về cuộc sống mà Phùng đã ngộ ra:  Cuộc sống không hề giản đơn, một chiều mà có đủ cả trắng đen, tốt xấu, vui buồn;  Con người cũng vô cùng phức tạp, đó là kiểu người đa trị, lưỡng diện;  Cái đẹp hoàn toàn không phụ thuộc vào hình thức bề ngoài, không phải cái đẹp lúc nào cũng phát lộ trên bề mặt mà nó có thể lấp lánh sau lần vỏ ngoài xù sì thô nhám. Đồng thời Phùng cũng nhận ra các vấn đề quan trọng của nghệ thuật:  Nghệ thuật phải gắn bó hữu cơ mật thiết với cuộc đời;  Nghệ thuật khám phá con người ở chiều sâu nhân bản. Đây chính là quan niệm nghệ thuật về con người, về nghệ thuật và người làm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Hệ thống kiến thức bài Đất Nƣớc – Nguyễn Khoa Điềm

ĐẤT NƢỚC CÓ TỪ BAO GIỜ ? Cơ bản Mở rộng – Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Cụm từ ngày xửa ngày xưa chỉ thời gian huyền hồ, hư ảo là nhịp thời gian cổ xưa xa thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước có từ rất xa xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí tức tuổi thơ hồn nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức trong lòng người đọc những hoài niệm đẹp đẽ của một thời thơ dại. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” + Đó là miếng trầu gợi lên từ sự tích vào loại cổ nhất người Việt “Sự tích trầu cau” từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh

Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”: “Như nước Đại Việt ta từ thuở trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương” Ngày xưa, bài thơ Nam quốc sơn hà (Lí Thường Kiệt) phải dùng đến đế cư, thiên thư để thiêng liêng hóa Đất Nước qua hình ảnh vua và sách trời. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc lại mượn “Một khối xa thư đồ sộ” “Hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để trang trọng hóa Đất Nước qua những khái niệm trìu tượng, kì vĩ, cao cả. Thi pháp ước lệ cổ điển có khả năng tạo ra một khoảng cách thiêng để thể hiện niềm ngưỡng vọng vô biên của con người đối với giang sơn Tổ Quốc. Hệ thống ngôn từ mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm lại mang một nỗ lực xóa nhòa khoảng cách để bình dị hóa Đất Nước một cách bất ngờ, để Đất Nước hóa thân vào cổ tích, ca dao, dân ca vào đời sống hàng ngày.

em đằm thắm, sắt son đồng thời đánh thức dậy hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu, lòng thủy chung: miếng trầu của cô Tấm, miếng trầu của Xuân Hương. + Đó còn là truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước: Lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đất nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay: + Đất nước Việt Nam mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. + Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động một nắng

– “Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép làm roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu) Nguyễn Duy đã viết: “Tre xanh, xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh” Ca dao cổ: “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi Để chi dài bối rối lòng anh” Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp: “Tay bưng đĩa muối chén gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Hay: “Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hãy còn cay Đôi ta tình nặng nghĩa đầy Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào: “Cày đồng đang buổi ban trưa

hai sương xay, giã, dần, sàng, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng” nhân dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. + Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã; có khi lấy từ tên những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ của chính mình đang ở “cái kèo, cái cột”... Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, dễ làm lay động trái tim hàng triệu độc giả. àTrong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ. àTrường từ vựng: ông, bà, cha, me gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó cũng là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như chú Năm “con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” (Những đứa con trong gia đình).

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” - Nếu Nguyễn Đình Thi và Chế Lan Viên đã tự tạo một khoảng cách nhất định để chiêm nghiệm về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước ở tầm gần. Có lẽ nhờ xác định được một cự li như thế mà tác giả Mặt đường khát vọng đã phát hiện ra một khuôn mặt mới của đất nước mình: dung dị, đời thường, thậm chí có phần lam lũ nhưng cũng không kém phần cao cả. Trong khi Nguyễn Đình thi cảm nhận đất nước ở những đường nét hoành tráng, Chế Lan Viên nhìn tổ quốc qua những trang sử hào hùng thì Nguyễn Khoa Điềm lại lặng lẽ quan sát đất nước ở muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà, thân thuộc. Đất nước là những gì bình dị nhất gần gũi và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam chúng ta: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, những dãy tre làng, bới tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái tộc, hạt gạo...

ĐẤT NƢỚC LÀ GÌ?

Cơ bản

–Tác giả đã khai thác cách cấu tạo từ tiếng Việt để tách từ Đất Nước thành Đất và Nước rồi lại hợp nhất trong 1 chỉnh thể thống nhất hài hòa. Cứ thế tách ra rồi hợp lại, hợp lại rồi tách ra, Đất nước hiện ra vừa cụ thể, riêng tư, gần gũi vừa lớn lao, cao cả, thiêng liêng: + Nếu tách hai ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là không gian sinh tồn về mặt vật chát của con người cá thể. + Nếu hợp thành một danh từ thì Đất Nước lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà. – Về không gian địa lí: + Đất Nước với Nguyễn Khoa Điềm trước hết chưa phải là núi sông, rừng bể mà là không gian riêng tư, sinh hoạt bình thường của mỗi người: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm + không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thƣơng: Đất nước là nơi ta hò hẹn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm àĐoạn thơ được viết bằng tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca, vừa mang tính huyền thoại vừa thấm đượm một phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, nước tương ứng với em. Một yếu tố thuộc Âm, một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất Nước tách riêng thành 2 chữ. Đất mở ra cho anh chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên, đấy nước trở thành nơi anh và em hò hẹn khi đó anh với em hợp lại để thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy tình yêu đôi lứa đã hòa hợp làm một với tình yêu đất nước, đất nước như người bạn sẻ chia những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Chiếc khăn biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất ... một lần nữa lại khiến lòng người xúc động bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm

hồn say đắm yêu đương. Những câu thơ định nghĩa mà cứ rưng rưng những kỉ niệm, hồi hộp những tâm tình. Sự vỡ tách và nhập ghép hai âm tiết đất và nước gợi lên một chiều sâu suy tưởng: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân, to lớn và nhỏ bé, hiện thực và huyền thoại + Không gian của núi sông rừng bể rộng lớn. Đất nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phƣợng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngƣ ông móng nƣớc biển khơi mang âm hưởng dân ca Bình Trị Thiên thấm đẫm lòng yêu quê hương tổ quốc của tác giả. Đất nước mình bình dị quen thuộc nhưng cũng rộng lớn, tráng lệ và kì vĩ vô cùng. + Đất nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ: Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại ... – Về thời gian lịch sử: Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Hình ảnh đất nước hiện lên ở cả 3 chiều thời gian: từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. + Đó là một đất nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước), giản dị, gần gũi trong hiện tại (Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần đất nước) và triển vọng sáng tươi trong tƣơng lai (Mai này con ta lớn lên – Con sẽ mang đất nước đi xa) + Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ về dòng giống Rồng Tiên của mình +Khi nghĩ về hiện tại, nhà thơ khẳng định một chân lí: Đất Nước phải là sự hài hòa, gắn bó giữa anh và em và mọi người, giữa cái riêng và cái chung. Đất nước hóa thân và kết tinh tự nhiên trong cuộc đời mỗi con người, sự sống của mỗi con người không phải chỉ của riêng cá nhân mà còn thuộc về đất nước vì mỗi cuộc đời, mỗi con người đều thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã bắt nhịp với ý thơ của Thanh Hải:

Ta làm con chim hót Ta làm một nhành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến Như vậy không có gì khó hiểu khi nhà thơ nhìn thấy một phần Đất nước trong mỗi chúng ta hiện tại. Đất nước không tồn tại ở đâu đó xa xôi mà kết tinh, hóa thân ngay trong cuộc sống của mỗi con người. + Hướng về tƣơng lai của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm viết bằng cảm hứng lãng mạn, Đất Nước trong tương lai sẽ đi xa đến mọi chân trời, sẽ là những ngày tháng mơ mộng đẹp đẽ. àTuy là đoạn thơ chính luận nhưng những câu thơ trên không giống những lời giáo huấn mà chỉ là lời tự nhủ của cá nhân nhà thơ và lớn hơn là của cả thế hệ lúc bấy giờ về bổn phận đối với Đất Nước. Giọng thơ chân thành, thiết tha nhẹ nhàng như lời thủ thỉ, tâm tình, nhắn nhủ người yêu mà không cao giọng lên gân. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác bài thơ đó là những lời thơ có giá trị thức tỉnh kêu gọi đấu tranh, kêu gọi hiến dâng 1 phần cuộc đời mình cho Đất Nước. AI ĐÃ LÀM NÊN ĐẤT NƢỚC (TƢ TƢỞNG ĐẤT NƢỚC CỦA NHÂN DÂN) Cơ bản Mở rộng

* NHÂN DÂN LÀ NGƢỜI LÀM RA KHÔNG GIAN ĐỊA LÍ DÂN TỘC: Tư tưởng đất nước của nhân dân khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh “những con người không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ đã làm ra đất nước. + Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong

Nguyễn Khoa Điềm đã không lặp lại một thói quan là nêu lên sự trù phú đẹp tươi của Đất Nước với Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian: Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi + Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đời nay. Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đấy: Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên + Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân: Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép thành roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”

(Tố Hữu) + Cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng: “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Hay với những Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt, bến nước Bình Ca (Ta đi tới – Tố Hữu) Mở đầu bài thơ Quê hương Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết: Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả dập dờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Nhà thơ chú ý đến những miền đất, những địa danh mà tên gọi đều rất nôm na, dân dã. Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam.

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương” + Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”. Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi “những người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành dáng hình xứ sở. àTính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi, chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Biết bao nhiêu thế hệ con người Việt Nam biết sống, biết yêu thương và bỏng cháy khát vọng đã tạc vào hình sông thế núi những nét đẹp tâm hồn. Những danh lam thắng cảnh đã trở thành chứng tích tâm hồn của nhân dân bao đời Hình tượng thơ càng được nâng dần lên và chốt vào một câu đầy trí tuệ: Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sống ta...

*NHÂN DÂN LÀ NGƢỜI LÀM NÊN LỊCH SỬ DÂN TỘC: Đoạn thơ mở đầu bằng hình thức đối thoại, thực chất đây là dạng phân thân của chủ thể trữ tình: Em ơi em Hãy nhìn rất xa

Chính những nét đẹp tâm hồn đã góp phần hình thành nên vẻ đẹp tài hoa, khí phách, sự giản

Vào bốn nghìn năm Đất Nước – Lời lẽ nhắn nhủ nhẹ nhàng dẫn dắt người đọc vào bốn nghìn năm lịch sử, bốn nghìn năm văn hiến dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Nhà thơ không tái hiện lịch sử của dân tộc bằng việc điểm lại triều đại (Đinh, Lí, Trần, Lê) như trong Bình Ngô Đại cáo hay các anh hùng lưu danh sử sách mà nối kết quá khứ và hiện tại bằng những ngôn từ người người lớp lớp, bốn nghìn lớp người, biết bao người con gái con trai . Qua đó, cảm nhận lịch sử bằng sự nối tiếp các thế hệ nhân dân. Chính nhân dân đã tạo ra truyền thống lịch sử quý báu của dân tộc + Cụm từ người người lớp lớp biểu trưng cho sức mạnh của nhân dân, sự hóa thân của nhân dân. Trong đó, nhà thơ đặc biệt chú ý đến hình ảnhCon gái-con trai bằng tuổi chúng ta . Đó là tuổi trẻ, là thế hệ Gánh vác phần người đi trước để lại- Dặn dò con cháu chuyện mai sau, là những con người cần cù trong lao động, anh dũng trong chiến đấu. + Nhà thơ ca ngợi sự hóa thân của nhân dân để làm nên bốn nghìn năm Đất Nước bằng việc nhắc đến những tấm gương anh hùng cả anh và em đều nhớ . Nhưng nhà thơ quan tâm nhiều hơn đến. Biết bao người con gái con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/ Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm .Đó là sự hi sinh thầm lặng của biết bao con người bình dị vô danh. + Những con người vô danh và bình dị ấy dành cả cuộc đời để chiến đấu cho độc lập tự do : có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại + Hi sinh lớn lao là vậy, nhưng những từ ngữ đối lập Sống – chết , Giản dị – Bình tâm đặt trong hai câu thơ ngắn gọn, nhẹ tênh, hoàn toàn khác so với nhưng dòng thơ dài gợi nhớ công lao của họ đã khẳng định sự hiến dâng ấy hoàn toàn vì lí tưởng chung của

dị mà hiên ngang, bất khuất của cả núi sông, dân tộc: Sống vững chãi bốn nghìn năm lịch sử Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa Trong và thực sáng hai bờ tư tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa (Huy Cận) Chế Lan Viên nhìn đất nước qua những trang sử hào hùng: “Hỡisông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn Khi Nguyễn Huệ cỡi voi vào cửa Bắc Hưng Đạo diệt quân Nguyên trong sóng Bạch Đằng”. (“Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”)

cả cộng đồng. Đó là một sự hi sinh nhẹ nhàng thanh thản và giản đơn vô ngần. àNguyễn Khoa Điềm đã tổng kết lịch sử bằng vai trò của vô càn những con người bình dị, vô danh. Bằng cách đó nhà thơ đã trả lại cho Đất Nước người chủ nhân chân chính. Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của Nhân dân, bắt nguồn từ hệ tư tưởng mới quan niệm Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử: Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước NHÂN DÂN LÀ NGƢỜI LÀM NÊN CHIỀU SÂU VĂN HÓA DÂN TỘC: – Nhân dân còn giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã tên làng... Như vậy, hình tượng nhân dân ở đoạn thơ này được xây dựng theo lối khái quát hóa, tập hợp hóa. Để biểu đạt ý thơ này, tác giả sử dụng đại từ nhân xưng “Họ” để chỉ chung cho nhiều người, chỉ tập thể, cả dân tộc. Đại từ „Họ‟ ở đây có thêm sắc thái biểu cảm mới. Đó là sự hiện diện của nhân dân qua tất cả các thời kì lịch sử, thế hệ này nối tiếp thể hệ kia, cầm trong tay ngọn đuốc sức sốngViệt Nam và khi hết vai trò, họ truyền lại cho thế hệ kế tiếp: + Truyền hạt lúa: truyền lại thành tựu của nền văn minh lúa nước, gieo mần sức sống cho con cháu mai sau. + Chuyền lửa: chuyền ánh sáng, hơi ấm và sức sống. Khởi nguồn của sức sông con người chính là lửa ấm. Lửa giúp con người thắp sáng, nấu chín thức ăn và đặc biệt là xua tan không gian lạnh lẽo, giúp con người xích lại gần nhau, thêm yêu thương và chan hòa với nhau hơn.

Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh vai trò của 4000 lớp người vô danh và bình dị: Đó có thể là: Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân (Dáng đứng Việt Nam) Trái tim em trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi Không phải cho em. Cho lẽ phải trên đời Cho quê hương em. Cho Tổ quốc, loài người! (Người con gái Việt Nam)

+·Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc chính là ngôn ngữ của dân tộc đó. Chính vì thế Cha anh đi trước truyền giọng điệu, tiếng nói cho con cháu mai sau. ·+ Họ sáng tạo ra những địa danh, tên xã, tên làng đã đi vào lịch sử. Họ dắp đập, ke bờ chính là xây dựng nền tảng vật chất và tinh thần để đời sau kế thừa thành quả. ·+ Khi giặc đến họ vùng lên đấu tranh anh dũng , có nội thù thì đánh bại và bảo vệ cuộc sống bình yên. Đó là lòng yêu nước, tình thần quả cảm mà thế hệ đi trước đã truyền lại cho chúng ta. àSự tiến hóa của lịch sử giống như 1 cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân dân để lưu truyền mãi ngọn lửa văn hóa của các thế hệ. Nhân dân đem cả cuộc đời mình ra để xây dựng, phát triển và lưu truyền mọi giá trị vật chất, tinh thần cho con cháu nghìn đời. Cứ thế lịch sử dân tộc được nối dài, sức sống đất nước được duy trì và phát triển bới bao thế hệ, những con người vô danh, bình dị , không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ làm nên đất nước muôn đời... Âm hưởng của đoạn thơ trang trọng hào hùng như những lời âm vang của lịch sử để ngợi ca truyền thống dân tộc. Đặt trong bối cảnh đất nước có giặc ngoại xâm thì tự hào về truyền thống dân tộc là biểu hiện sâu sắc tình yêu nước. Từ những mạch suy tưởng trên dẫn đến tư tưởng trung tâm của đoạn trích và cũng là của cả bản trường ca “Đất nước này là Đất nước của Nhân dân”. Và khi nói đến Đất nước của Nhân dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích: Đất nước của ca dao thần thoại”. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống dân tộc:

Đứng trước thác lũ của dòng chảy thời đại , trước ngưỡng định mệnh của dân tộc những năm 1974-1975, ta thấy chưa bao giờ như bây giờ, vai trò của nhân dân lại to lớn đến thế, chưa bao giờ như bây giờ những sự hi sinh lại lớn lao