Bài tập lớn học kì môn thảo luận dân sự

BÀI TẬP THẢO LUẬN MÔN LUẬT DÂN SỰ Danh sách nhóm…6…:

  1. 9.

Vũ Hoàng Xuân Hà (nhóm trưởng) - 1055060043 Hoàng Thị Thu Hà - 1055060046 Phạm Thị Yến Ngọc - 1055060098 Phạm Ngọc Hà - 1055060044 Nguyễn Thị Minh Anh - 1055060005 Nguyễn Việt Dũng - 1055060033 Lê Hoàng - 1055060064 Nguyễn Quốc Ân - 1055060003 Võ Hoàng Thiên Lộc - 1055060081

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ 1

Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do việc không thực hiện đúng hợp đồng gây ra Tình huống: Ca sỹ A ký hợp đồng với một công ty tổ chức sự kiện. Để đảm bảo uy tín của mình, ca sỹ này đã nêu rất rõ các yếu tố trong việc dán các áp phích quảng cáo cho sự kiện. Tuy nhiên, công ty tổ chức sự kiện đã không tuân thủ nội dung của hợp đồng và uy tín của ca sỹ này bị ảnh hưởng nghiêm trọng nên ca sỹ A đã thuê luật sự làm thủ tục kiện công ty để đòi bồi thường thiệt hại. 1. Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng không? Vì sao? -

Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng. “Khi hợp đồng không được thực hiện đúng thì có thê phát sinh bồi thường tổn thất về tinh thần. Có thể có 2 loại tổn thất về tinh thần khi hợp đông không được thực hiện đúng. Thứ nhẩt, có nhiều hợp đồng sinh ra để đem lại cho chủ thể tham gia lợi ích về tinh thần như các hợp đồng về giải trí. Trong trường hợp này, khi hợp đồng không được thực hiện đúng không nhận được lợi ích tinh thần mong đợi. Đây là 1 loại tổn thất về tinh thần (mất lợi ích tinh thần đáng ra có nếu hợp đồng được thẻ hiện đúng). Thứ hai, có những tổn thất về tinh thần phát sinh do việc không thực hiện đúng hợp đồng gây ra. Ví dụ, A cam kết tổ chức cho B 1 chuyến du lịch nhưng chuyến du lịch được tổ chức rất tồi tệ nên B rất bực tức, buồn chán..Đây cũng là 1 loại tổn thất tinh thần do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra. Nghiên cứu cho thấy tổn thất tinh thần có được bồi thường trong lĩnh vực hợp đồng hay không không thực sự thống nhất trong các hệ thống luật. Có hệ thống cho phép bồi thường loại thiệt hại này, có hệ thống không cho phép và có hệ thống cho phép bồi thường đối với 1 số trường hợp. Bộ nguyên tắc Unidroit chấp nhận bồi thường tổn thất về tinh thần. 2

Điều 7.4.2 quy định “thiệt hại có thể là phi tiền tệ và bắt nguồn đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần” và trong phần bình luận có ghi “đó có thể là những nỗi đau về thể xác và tinh thần, tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, thiệt hại về hình thể,.. cũng như những xúc phạm đến danh dự và uy tín. Bộ nguyên tắc Châu Âu cũng xác định rất rõ về vấn đề này. Điều 9:501 khoản 2 có quy định: “Thiệt hại có thể được bồi thường bao gồm thiệt hại phi vật chất “ và trong phần bình luận chúng ta thấy có nêu “thiệt hại có thể được bồi thường không giới hạn ở những mất mát tài chính mà có thể là về tinh thần- đau đớn, bất tiện, bất an tấm lý phát sinh từ việc không thực hiện đúng hợp đồng.” Ở đây phần bình luận có nêu ví dụ như sau: A đặt 1 kì nghỉ tại 1 trung tâm tổ chức du lịch với thời gian là 1 tuần trong 1 khách sạn sang trọng, đồ ăn đặc biệt, Tuy nhiên, thực tế thì phòng thuê nhỏ và bẩn, đồ ăn thì tồi tệ. Ở đây, A được yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần mà mình đã gánh chịu (chịu bất tiện và niềm vui bị mất)1”. -

Trong Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam cũng có qui định tại Khoản 1, Điều 3072: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”.

2. Văn bản hiện hành có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. -

Văn bản hiện hành có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng. Được qui định tại Điều 307, Khoản 1 BLDS 2005: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.”

1 TS. Đỗ Văn Đại, Bản án và bình luận bản án luật hợp đồng Việt Nam, Tr.180 - 181 2 Điều 307. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

3

3. Ca sỹ A có được yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do Công ty tổ chức sự kiện không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. -

Ca sĩ được yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần do công ty cổ phần tổ chức sự kiện không thực hiện đúng hợp đồng, theo Điều 307, Khoản 1 BLDS 2005. Hiện nay BLDS chỉ qui định đơn giản và chung nhất về việc có thể phát sinh bồi thường tổn thất về tinh thần khi hợp đồng được thực hiện không đúng. Thiết nghĩ, còn phải tùy vào hoàn cảnh cụ thể, xem tổn thất về tinh thần đó có phải phát sinh từ việc thực hiện không đúng hợp đồng không và phải xem tính hợp lí về việc bồi thường tổn thất về tinh thần.

4. Những trường hợp theo đó văn bản và thực tiễn xét xử ở Việt Nam đã chấp nhận bồi thường chi phí thuê luật sư. -

Những trường hợp theo đó thực tiễn đã xét xử ở Việt Nam đã chấp nhận bồi thưởng chi phí thuê luật sư: “Tháng 11-2009, Công ty TP phát hiện một số siêu thị ở Mỹ có bày bán mặt hàng bánh tráng hiệu K'có màu sắc tương tự, khó phân biệt và gây nhầm lẫn với nhãn hiệu bánh K. của công ty được bảo hộ. Lần theo, công ty biết Công ty TG đã sản xuất bánh tráng hiệu K' trên. Qua đối chất, Công ty TG thừa nhận vào ngày 8-92009 có xuất bánh tráng K' sang Mỹ. Nhãn hiệu này do khách hàng bên Mỹ đặt gắn lên bao bì sản phẩm. Tháng 12-2009, Công ty TP đã nhờ luật sư tại Mỹ gửi công văn khuyến cáo Công ty TG về hành vi xâm phạm nhãn hiệu. Tháng 2-2010, Công ty TP đã kiện Công ty TG ra TAND tỉnh Tiền Giang, yêu cầu chấm dứt hành vi sản xuất và xuất khẩu loại bánh K', thu hồi toàn bộ lượng bánh đã xuất khẩu, bán trên thị trường Mỹ. Công ty TP còn yêu cầu Công ty

4

TG phải thanh toán hơn 153 triệu đồng cho luật sư, gồm 5.000 USD phí luật sư ở Mỹ và 60 triệu đồng phí luật sư tại Việt Nam... Có thể nói đây là lần đầu tiên một tòa án chấp nhận yêu cầu bồi hoàn chi phí thuê luật sư của đương sự. Trước đây, gặp tình huống này, các tòa đều bác, lập luận rằng một khi đương sự đã chủ động quyết định thuê luật sư thì phải tự lo. Tòa chỉ chấp nhận những khoản chi phí hợp lý, hợp lệ và thật sự cần thiết. Theo một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM, Điều 144 3 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định chi phí cho luật sư là khoản tiền phải trả cho luật sư theo thỏa thuận của đương sự với luật sư, trong phạm vi quy định của văn phòng luật sư và quy định của pháp luật. Chi phí cho luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Vì thế, chi phí luật sư không phải là chi phí cần thiết để đeo đuổi một vụ kiện, từ đó bắt phía vi phạm trong vụ án phải gánh chịu. Đồng tình, một thẩm phán TAND quận 11 (TP.HCM) cũng cho rằng kết quả giải quyết một vụ án do tòa quyết định, không phụ thuộc vào yếu tố có hay không có luật sư. Có thể nói rằng dù có hay không có luật sư, tòa vẫn phải giải quyết vụ việc đúng pháp luật4.” -

Công ty Kexim và doanh nghiệp Thắng Lợi kí hợp đồng thuê tài chính nhưng doanh nghiệp Thắng Lợi đã vi hạm nghĩa vụ thanh toán nên Công ty Kexim đã chấm dứt hợp đồng. Về hệ quả pháp lý, theo Hội đồng Thẩm phán, “Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Công y Kexim; buộc Doanh nghiệp Thắng Lợi phải bồi thường cho Công ty Kexim giá trị tổn thất thỏa thuận và chi phí luật sư; thu hồi, phát mãi tài sản thuê để thanh toán tiền cònt hiếu; trong trường hợp sau khi thu hồi, phát mãi tài sản thuê, nếu số tiền thu không đủ thanh toán nợ thì Công ty Kexim

3 Điều 144. Chi phí cho người phiên dịch, luật sư 4 Theo PL TPHCM; trích Vicco Law Firm, Vicco.vn, “Bồi hoàn phí luật sư được không?”

5

có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp là có căn cứ, đúng pháp luật.”5 5. Ca sỹ A có được yêu cầu bồi thường chi phí thuê luật sư không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. -

Theo em, Ca sĩ A không được yêu cầu bồi thường chi phí luật sư. Thực tiễn xét xử án dân sự hiện nay, hầu hết các tòa đều bác yêu cầu đòi bồi hoàn phí thuê luật sư, bởi cho rằng đó không phải là chi phí hợp lý bắt buộc mà bên thua kiện phải trả cho người thắng kiện.

-

Theo nhiều thẩm phán, yêu cầu bồi hoàn phí thuê luật sư là một dạng đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, phải áp dụng Bộ luật Dân sự 2005 và Nghị quyết 03/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao để giải quyết. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố: Phải có thiệt hại xảy ra (thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần); phải có hành vi trái pháp luật; phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật; phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại. Luật cũng quy định các dạng thiệt hại: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Đáng chú ý là phí thuê luật sư không được luật liệt kê cụ thể trong từng dạng thiệt hại nói trên. Vì vậy khi xét xử, các tòa sẽ xem xét đây có phải là chi phí hợp lý, hợp lệ, cần thiết hay không. Thông thường, cũng như lập luận của TAND quận 1, hầu hết các tòa đều cho rằng kết quả giải quyết một vụ án do tòa quyết định, không phụ thuộc vào yếu tố đương sự có hay không có luật sư. Khoản chi phí thuê luật sư không phải là chi phí cần thiết, bắt buộc để đeo đuổi một vụ kiện.

5 Quyết định số 02/2008/KDTM-GĐT ngày 10-01-2008 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

6

Mặt khác, khoản 3 Điều 144 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 cũng quy định: Chi phí cho luật sư do người có yêu cầu chịu, trừ trường hợp các bên đương sự có thỏa thuận khác. Từ đó, hầu hết các tòa đều bác yêu cầu bồi hoàn phí thuê luật sư như đã nói.” Em đồng tình với cách giảii thích trên. -

Ngoài ra còn có luồng ý kiến cho rằng chi phí thuê luật sư là hợp lí: “Theo luật sư Châu Huy Quang (hãng luật LCT Lawyers), khác với pháp luật tố tụng dân sự, hình sự, hành chính và lao động, Luật Sở hữu trí tuệ đã cho phép chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu tòa buộc bên vi phạm phải bồi hoàn chi phí hợp lý để thuê luật sư. Luật sư Quang đánh giá đây là điểm tiến bộ trong quá trình cải cách tư pháp ở chỗ thừa nhận việc luật sư tham gia hỗ trợ pháp lý cho đương sự là một nhu cầu cần thiết. Hơn nữa, việc tòa tuyên buộc bên thua kiện phải bồi hoàn khoản phí này cũng là một cách răn đe các vi phạm tương tự và tránh việc kiện tụng tào lao. Kiểm sát viên cao cấp Võ Văn Thêm (Viện Phúc thẩm 3 VKSND Tối cao) cũng nhận xét chi phí thuê luật sư là chi phí thực tế hợp lý. Tuy nhiên, người yêu cầu phải chứng minh được mình bị tốn kém khoản này là do lỗi của bên kia. Chẳng hạn: Bị kiện nên bị đơn mới phải tốn kém chi phí thuê luật sư, nếu nguyên đơn kiện sai thì bắt buộc phải bồi thường lại cho bị đơn. Đồng tình, TS Nguyễn Văn Tiến, giảng viên Trường ĐH Luật TP.HCM, phân tích thêm: Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong án dân sự là bồi thường toàn bộ. Trong tình hình hiện nay, nhu cầu thuê luật sư để bảo vệ mình trong các quan hệ pháp luật ngày càng lớn. Nên chăng pháp luật cần sửa đổi theo hướng bên thua kiện phải bồi hoàn phí thuê luật sư cho bên thắng kiện. Dĩ nhiên tòa sẽ xem xét khoản phí này chứ không phải đương sự muốn kê lên thế nào cũng được.”6

6 Theo Phan Thương, “Đòi bồi hoàn tiền thuê luật sư được không?”, luatsaithanh.com

7

----Hết Vấn Đề 1----

Vấn đề 2: Bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm Quyết định số 10/2009/HS-GĐT ngày 03/09/2009 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao Tóm tắt bản án: Nguyễn Quốc Sang lái xe ô tô tải do bà Nguyễn Thị Thoại làm chủ lưu thông trên đường, do không làm chủ được tốc độ, xử lý tay lái kém, Sang đã lấn đường của các phương tiện giao thông khác gây ra tai nạn làm nhiều người chết. Trong đó có anh Vũ Hoài Nam cùng hai con là Vũ Thu Hà và Vũ Văn Quảng. Tại bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm TAND đã buộc anh Sang và bà Thoại bồi thường cho gia đình anh Nam. Nay, chánh án TAND đã kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên về phần buộc bà Thoại bồi thường khoản tiền tổn thất tinh thần cho gia đình anh Nam. 1. Trong BLDS, trong trường hợp nào tổn thất về tinh thần được bồi thường? Nêu cơ sở pháp lý. - Trong BLDS, có những trường hợp tổn thất về tinh thần được bồi thường: + Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 609 + Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 610 + Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 611 + Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể: Khoản 3 Điều 628

8

2. Theo pháp luật hiện hành, bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có được bồi thường không? Vì sao? - Theo Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì: “thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người than thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm … và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin … vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền -

bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.” Hơn nữa, theo Điều 608 BLDS về thiệt hại do tài sản bị xâm phạm không có quy định về tổn thất tinh thần khi tài sản thiệt hại do bị xâm

phạm.  Vì vậy có thể khẳng định, trong pháp luật hiện hành tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm không được bồi thường. 3. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng được bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm. Tuy rằng pháp luật hiện hành quy định tổn thất tinh thần khi tài sản bị xâm phạm không được bồi thường. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, có những loại tài sản mang giá trị vật chất nhỏ nhưng lại có giá trị tinh thần rất lớn. Chủ sở hữu của tài sản cũng vô cùng đau xót khi tài sản đó bị thiệt hại và không thể hoàn trả lại được. Nếu chỉ yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường theo giá trị tài sản của tài sản bị xâm phạm thì sẽ không thỏa mãn với những thiệt hại to lớn về tinh thần mà người bị thiệt hại phải chịu đựng. Thiết nghĩ không nên chỉ bồi thường tổn thất tinh thần khi sức khỏe, tính mạng, danh sự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm như hiện nay mà cần công nhận khả 9

năng được bồi thường tổn thất tinh thần khi có sự thiệt hại về tài sản cho phù hợp với thực tế cuộc sống. 4. Theo HĐTP, ai được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? - Theo HĐTP thì những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh Nam gồm mẹ, vợ và con mới sinh cùng được hưởng khoản tiền bù -

đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm. Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy có nêu: “Về xác đinh tư cách người tham gia tố tụng: sau khi anh Vũ Hoài Nam bị chết, ngoài chị Nguyễn Thị Phin là người thân thích gần gũi nhất, thì anh Nam còn có mẹ (bút lục 297) … đồng thời buộc bị đơn dân sự (bà Nguyễn Thị Thoại) bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh Nam là không đúng, vì những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh Nam gồm mẹ, vợ và con mới sinh cùng được hưởng khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do anh Nam bị thiệt hại về tính mạng.”

5. Theo HĐTP, ai được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng cháu Hà và Quảng bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? - Theo HĐT, thì chỉ có mẹ của 2 cháu Hà và Quảng là chị Phin mới được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của 2 cháu bị xâm -

phạm. Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy có nêu: “Riêng khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần do cháu Vũ Thu Hà và cháu Vũ Văn Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có chị Phin (là mẹ của hai cháu) được hưởng.”

6. Việc xác định người được bồi thường tổn thất về tinh thần trên có phù hợp với các quy định hiện hành không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

10

-

Những người mà HĐTP xác định được hưởng bồi thường tổn thất tinh thần đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại. Cách xác định của HĐTP là phù hợp với quy định tại Điểm a tiểu mục 2.4 mục II NQ 03 và Điều 6107 BLDS.

7. Theo HĐTP, anh Đông có được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời. - Theo HĐTP, anh Đông không được hưởng bồi thường tổn thất về tinh -

thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm. Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy có nêu: “Về xác đinh tư cách người tham gia tố tụng: sau khi anh Vũ Hoài Nam bị chết, ngoài chị Nguyễn Thị Phin là người thân thích gần gũi nhất, thì anh Nam còn có mẹ (bút lục 297. Như vậy, người đại diện hợp pháp của anh Nam gồm có mẹ và vợ là chị Phin, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh để đưa mẹ anh Nam tham gia tố tụng mà xác định anh Vũ Quốc Đông là em trai của anh Nam (chỉ được chị Phin ủy quyền) là người đại diện hợp pháp của người bị hại và quyết định buộc bị cáo, bị đơn dân sự bồi thường cho gia đình anh Nam là chưa đầy đủ và chính xác.”

8. Theo HĐTP, mẹ anh Nam có được hưởng tồn thất về tinh thần do tính mạng của cháu Hà và Quảng bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời. - Theo HĐTP, mẹ của anh Nam không được hưởng tổn thất về tinh thần -

do tính mạng của cháu Hà và Quảng bị xâm phạm. Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy có nêu: “Riêng khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần do cháu Vũ Thu Hà và cháu Vũ Văn Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có chị Phin (là mẹ của hai cháu) được hưởng.”

7 Điều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.

11

9. Suy nghĩ của anh/chị về quy định hiện hành và hướng giải quyết trên của HĐTP liên quan đến tổn thất về tinh thần của anh Đông (đối với cái chết của anh Nam) và của mẹ anh Nam (đối với cái chết của cháu Hà và Quảng). - Hiện nay, pháp luật không công nhận việc yêu cầu người gây thiệt hại về tính mạng phải bồi thường tổn thất tinh thần cho những người thân thuộc hàng thừa kế thứ hai trở đi của người bị hại. Thấy rằng, khi có người bị thiệt hại về tính mạng thì tất cả những người thân đều cảm thấy đau thương và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất thường là những người thân gần nhất của người bị thiệt hại. Nhưng trên thực tế, có những trường hợp người thân thiết gần gũi nhất của người bị thiệt hại không phải là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Ví dụ như người vợ sắp kết hôn (chưa đăng kí kết hôn), anh em kết nghĩa hay ban bè cực kì thân thiết. Mức độ thân thiết với người bị hại của họ có thể còn hơn cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Chắc chắn tổn thất tinh thần của họ cũng rất lớn. Vậy, lý do gì mà họ không được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần khi người thân của họ chết? Chẳng lẽ pháp luật cho rằng những người thân đó họ vô cảm, không thấy đau buồn, không có tổn thất về tinh thần? Hơn nữa, BLDS và NQ 03/2006 còn có quy định người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại chỉ được nhận bồi thường tổn thất tinh thần khi không có người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại về tính mạng. Có trường hợp người bị thiệt hại về tính mạng còn cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và người mà họ đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc cả hai. Khi người thân chết tổn thất về tinh thần của họ là không thể cân đo đong đếm được. Nếu chỉ yêu cầu người gây thiệt hại bồi thường tổn thất cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại thì chưa đủ và cũng không phù hợp với tinh thần mà pháp luật muốn hướng đến. Hoặc nếu người bị thiệt hại không 12

còn những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và cả người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại thì ai là người sẽ nhận được bồi thường tổn thất tinh thần từ người bị hại? Chẳng lẽ những người thuộc hàng thừa kế thứ hai trở đi hoặc những người thân khác mà không nằm trong “danh sách” của Luật và Nghị quyết số 03/2006 cũng không được nhận bồi thường tổn thất về tinh thần? Từ đó cho thấy, những quy định hiện nay của pháp luật về bồi thường tổn thất tinh thần cho người thân thích của người bị thiệt hại về tính mạng vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn xét xử. -

Quay trở lại vụ án, HĐTP không công nhận quyền được hưởng bồi thường tổn thất tinh thần của anh Đông đối với cái chết của anh Nam và của mẹ anh Nam đối với cái chết của hai cháu Hà và Quảng. Cách giải quyết của HĐTP phù hợp với những quy định hiện hành nhưng trên thực tế có lẽ không khả thi. Có người em nào không thấy đau buồn khi anh ruột mình chết? Có người bà nào lại không thấy đau xót khi nhận cảnh “lá xanh” rụng trước “lá vàng”? Rõ ràng, ít nhất họ cũng phải thấy đau lòng khi nhận được thông tin về cái chết của những người thân của mình. Vậy có thể thấy việc pháp luật không công nhận quyền hưởng bồi thường tổn thất tinh thần của họ có vẻ không được khả thi và phù hợp với thực tiễn.

10. Theo pháp luật hiện hành, mức bồi thường tổn thất về tinh thần là bao nhiêu khi tính mạng bị xâm phạm? Nêu cơ sở pháp lý. - Theo Điều 610 BLDS và Điểm d tiểu mục 2.4 mục II NQ 03/2006/HĐTP mức bồi thường tổn thất về tinh thần là do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì mức bồi thường tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

13

11. Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm đã quyết định cho gia đình chị Phin được hưởng mức bồi thường là bao nhiêu? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? - Tại bản án sơ thẩm, Tòa sơ thẩm đã quyết định: “buộc bà Nguyễn Thị Thoại tiếp tục bồi thường số tiền 12.600.000 đồng và bị cáo Nguyễn Quốc Sang bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho gia đình anh Vũ Hoài Nam (do anh Vũ Quốc Đông đại diện); bà Nguyễn Thị Thoại cấp dưỡng, nuôi con anh Vũ Hoài Nam (theo giấy khai sinh) mỗi tháng 200.000 -

đồng đến khi cháu tròn 18 tuổi.” Tại bản án phúc thẩm, Tòa phúc thẩm đã quyết định: “buộc bà Nguyễn Thị Thoại bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh Nam số tiền 63.000.000 đồng (350.000 đồng/01 tháng x 180 tháng) và tiền mất thu nhập của anh Nam 1.500.000 đồng/01 tháng x 6 tháng là 9.000.000 đồng; tổng cộng là 72.000.000 đồng (bảy mươi hai triệu đồng); ghi nhận sự tự nguyện của bà Thoại trợ cấp để nuôi con của anh Nam là cháu Vũ Anh Tuyết sinh tháng 9/2005 mỗi tháng 200.000 đồng, thời gian từ tháng 9/2005 cho đến khi cháu Tuyết đến tuổi trưởng thành.”

12. Hướng giải quyết của HĐTP liên quan đến mức tối đa gia đình chị Phin được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần. - Hướng giải quyết của HĐTP chưa thực sự rõ ràng về mức bồi thường tối -

đa trong trường hợp này. Đoạn 3, phần Xét thấy: “khoản tiền bù đắp về tinh thần tòa án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà Thoại bồi thường là quá thấp, tòa án cấp phúc thẩm buộc bà Thoại bồi thường cho cả 3 người chết là 180 tháng lương là mức cao nhất cho mỗi người cũng chưa phù hợp với thực tế. mặc dù tổn thất về tinh thần đối với người thân thích của anh Vũ Hoài Nam rất lớn, nhưng bị đơn dân sự không có lỗi trong việc gây tai nạn, mặt khác ngoài việc bồi thường chi phí mai táng cho gia đình anh Nam thì bị đơn dân sự còn bồi thường cho nhiều người bị hại khác, do đó khi giải quyết khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần đối với gia đình anh Nam ngoài việc xác 14

định vị thế của người bị hại trong gia đình, thì tòa án cần xem xét quyết định cho phù hợp với thực tế để đảm bảo khả năng thi hành án.” 13. Suy nghĩ của anh/chị về mức bồi thưởng tổn thất về tinh thần trong pháp luật hiện hành và hướng giải quyết của các Tòa trong vụ việc trên. - Theo pháp luật hiện hành thì mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần là do các bên thỏa thuận nếu không thỏa thuận được thì không quá 60 tháng lương tối thiểu (Điều 610 BLDS và 2.4 NQ 03)  hướng xác định mức bồi thường tối đa khi tính mạng bị thiệt hại là 60 tháng lương tối thiểu, thiết nghĩ là quá thấp so với thực tế, nhất là với trường hợp tính mạng bị xâm phạm. Chỉ với sáu mươi tháng lương tối thiểu thì không thể đủ để bù đắp lại những tổn thất tinh thần mà những người thân thích của -

người chết phải chịu đựng. Hơn nữa pháp luật cũng không rõ ràng về việc hiểu cụm từ “không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định” như thế nào? (Chỉ phân tích với trường hợp tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm, còn với những trường hợp còn lại, chúng ta hiểu tương tự). + Thứ nhất, không quá sáu mươi tối thiểu là chỉ tính với trường hợp một người bị thiệt mạng hay nhiều người bị thiệt hại trong một gia đình? Thực tế có nhiều luồng quan điểm xung quanh vấn đề này. Thiết nghĩ trong trường hợp này nếu không thương lượng hai bên được thì tòa nên tuyên theo hướng nhân tiền bồi thường lên theo số người thiệt mạng trong một gia đình. Bởi chỉ cần một người thân chết đã là mất mát, đằng này nhiều người thân mất thì nỗi đau ấy tăng gấp bội, không tiền bạc nào so sánh được. + Thứ hai, với trường hợp người bị thiệt mạng có nhiều người thân thuộc hàng thừa kế thứ nhất thì không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu giành cho một người thuộc hàng thừa kế thứ nhất hay là tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất? Nếu là giành cho nhiều người thuộc hàng thừa kế thứ nhất,với trường hợp họ không tự thỏa thuận được thì sẽ phân chia khoản tiền được bồi thường đó như thế nào? 15

+ Thứ ba, việc xác định mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định là như thế nào? Xác định với đối tượng nào, với người bị xâm phạm tính mạng, hay của người thân thích nào, hay của người nuôi dưỡng? Vì theo quy định của pháp luật, với mỗi đối tượng nhất định sẽ có mức lương tối thiểu khác nhau nên sẽ có những mức bồi thường tối đa khác nhau. Pháp luật nên có những hướng dẫn cụ thể cách thức áp dụng mức lương tối -

thiểu để xác định rõ ràng được mức bồi thường. Hai cấp tòa án đã không thống nhất trong việc áp dụng luật mà luật lại không rõ ràng. Thiết nghĩ, nạn nhân của những tổn thất như vậy nên được bảo vệ ở mức tối đa nếu có thể, không có gì có thể bù đắp được những đau thương khi người thân của mình bị xâm phạm đến tính mạng. Pháp luật hiện hành nên lựa chọn giải pháp có lợi nhất cho gia đình nạn nhân nói cách khác tức là “đứng về phía gia đình nạn nhân chứ không

-

đứng về phía người có trách nhiệm bồi thường”. Quay lại vụ việc trên, theo tòa sơ thẩm là 36 tháng x 350.000đ là quá thấp bởi vì theo cách giải quyết của tòa thì quá bất công bằng đối với gia đình nạn nhân, một người mất cũng như mười người mất khi tính mạng bị xâm phạm. Còn tòa phúc thẩm, thì theo hướng khi một người bị xâm phạm tính mạng thì những người thân được hưởng tối đa là 60 tháng lương tối thiểu, vì vậy nếu có 3 người bị xâm phạm thì những người thân được hưởng tối đa là 180 tháng lương tối thiểu. Cách giải quyết này là giải pháp tốt nhất cho gia đình người bị thiệt hại.

----Hết Vấn Đề 2----

Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

16

Quyết định số 307/2011/DS-GĐT ngày 25/04/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao Tóm tắt bản án: Hệ thống dây điện dân sinh do Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu quản lý, kinh doanh, do thiếu trách nhiệm quản lý không kiểm tra, không đôn đốc các hộ gia đình thực hiện an toàn khi sử dụng điện, nên đường dây điện không đảm bảo kĩ thuật an toàn đã gây ra cái chết cho chồng chị là anh Hoàng Đức Thuận vào tối ngày 01/3/2007 gia đình phải chịu nhiều tổn thất. Nay chị khởi kiện Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu phải bồi thường thiệt hại cho gia đình chị. 1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra? - Tại bản án số 08/2007/DSST ngày 23-8-2007 Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng quyết định: + “Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Thơm, buộc Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp xã Hồng Châu phải bồi thường thiệt hại cho gia đình chị Thơm.” Ở đây khi vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, Tòa Sơ thẩm đã xác định HTX Hồng Châu là một chủ thể vi phạm trong việc quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, và như vậy buộc HTX Hồng Châu bồi thường mức thiệt hại do mình gây ra. -

Tại bản án phúc thẩm số 41/2007/DSPT ngày 25-10-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình quết định: … “Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu phải là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là lưới điện nông thôn nên phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cả khi không có

-

lỗi.” Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với nội dung kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. 17

+“Như vậy, HTX Dịch vụ nông nghiệp xã Hồng Châu là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng lại để cho một số hộ dùng điện không đúng quy chế HTX; HTX lại thiếu kiểm tra để cho việc đấu móc điện sử dụng không đúng quy định; do đó, HTX cũng có phần lỗi theo quy định tại Khoản 1 Điều 6238 Bộ luật dân sự năm 2005 ... do đó, hộ anh Thực, hộ ông Hưởng và hộ anh Độ cũng phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Khoản 4 Điều 623 BLDS 2005. Như vậy, cả Hợp tác xã và hộ anh Thực, hộ ông Hưởng và hộ anh Độ đều có lỗi và phải liên đới bồi thường theo quy định của pháp luật.” 2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. - Theo quy định tại Khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 thì nguồn nguy hiểm cao độ là các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ thứ dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác theo quy định của pháp luật. Như vậy các nhà làm luật vẫn chưa nói rõ là thế nào là một nguồn nguy hiểm cao độ. Nhưng ta có thể hiểu được là ở đây: nguồn nguy hiểm cao độ là những vật, tài sản tồn tại một cách khách quan, trong quá trình hoạt động của chúng có khả năng gây nguy hiểm hay gây thiệt hại cho con người xung quanh chúng, tất nhiên là việc gây thiệt hại này nằm ngoài ý chí chủ quan của người quản lý, sử dụng chúng. Và việc khắc phục hậu quả được pháp luật ấn định là chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, đây là nguyên tắc buộc chịu -

trách nhiệm khách quan.9 Và vì vậy mà Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là hoàn toàn hợp lý vì điện là một nguồn nguy hiểm

8 Điều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 9 Tập bài giảng “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Khoa luật dân sự ĐH Luật HCM, Tr. 428.

18

cao độ - loại tài sản đặc biệt - mà thông qua nó con người có thể kinh doanh và thu lợi nhuận, cho dù không cầm, giữ như một loại tài sản thông thường được nhưng lại có thể quản lý được mặc dầu có những trường hợp nó có thể vượt qua những biện pháp quản lý của con người và gây thiệt hại cho những đối tượng khác. Vậy thì những thiệt hại do nó gây nên thì chủ sở hữu, người chiếm giữ, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường những thiệt hại đó cho dù họ không có lỗi đi chăng nữa. Và, nhà lập pháp gọi đó là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tất nhiên là Tòa án cũng có cùng quan điểm như thế. 3. Đoạn nào của Quyết định cho thấy, theo Tòa án, HTX Hồng Châu là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại? - Theo Quyết định số 307/2011/DS-GĐT có nêu: “Xét thấy, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu được Ủy ban nhân dân xã Hồng Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình giao trách nhiệm quản lý, vận hành, hướng dẫn việc sử dụng điện trong địa bàn xã … Như vậy, Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu là chủ sở hữu của nguồn điện cao độ này.” 4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định HTX Hồng Châu là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại. - Việc Toà án xác định hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu là chủ sở hữu của nguồn gây hiểm cao độ là hợp lý. Theo khoản 1 điều 623 BLDS 2005 xác định hệ thống tải điện là nguồn gây nguy hiểm cao độ. Trong bản bản án đã có chứng cứ cho việc hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu được UBND xã Hồng Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình giao cho trách nhiệm quản lý việc sử dụng điện trên địa bàn là văn bản ký ngay 19-9-2003. Hơn nữa, bản thân Hợp tác xã Hồng Châu cũng đã ra quy chế về việc đăng và sử dụng nguồn điện do mình quản lý. Vì vậy có thể kết luận Hợp tác xã Hồng Châu là chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ này. 19

5. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án xác đinh nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật? - Theo Quyết định số 307/2011/DS-GĐT có nêu: “Đối với ba hộ gia đình anh Nguyễn Đình Thực, ông Nguyễn Đức Hưởng, anh Nguyễn Đình Độ do không chấp hành quy định của Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ Hồng Châu; không có đơn xin dùng điện. Anh Thực và ông Hưởng tự cho anh Độ đấu móc vào đường dây điện kéo về nhà anh Độ.” 6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác đinh nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật. - Việc Toà án xác định nguồn gây nguy hiểm cao độ gây thiệt hại bị chiếm -

hữu, sử dụng trái pháp luật là hợp lý. Vì ba hộ gia đình anh Nguyễn Đình Thực, ông Nguyễn Đức Hưởng, anh Nguyễn Đình Độ không chấp hành quy định của Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Hồng Châu về việc đăng ký và sử dụng điện. Ba hộ này không có đơn xin sử dụng điện, việc sử dụng điện chỉ là thỏa thuận miệng giữa họ với anh Dương không có chứng cứ để chứng minh. Trong quá trình sử dụng việc thu tiền điện cũng không có hoá đơn chứng từ, chỉ thu tiền dựa vào số ký điện trên công tơ. Xét theo khoản 4 điều 623 BLDS 2005 ông Thực, anh Độ và ông Hưởng đã chiếm hữu sử dụng nguồn gây nguy hiểm cao độ trái pháp luật.

7. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án xác định anh Thực, ông Hưởng, anh Độ chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại bị chiếm hữu, sử dụng trái phép. - Theo Quyết định số 307/2011/DS-GĐT có nêu: “Đối với ba hộ gia đình anh Nguyễn Đình Thực, ông Nguyễn Đức Hưởng, anh Nguyễn Đình Độ do không chấp hành quy định của Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ Hồng Châu … hộ anh Thực, ông Hưởng và anh Độ là người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.”

20