Bài hát Bóng cây Kơ nia có giai điệu như thế nào

Còn đó Bóng cây Kơnia

Phương Anh

10:02 11/07/2015

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu - “con chim vàng của nền âm nhạc Việt Nam” đã ra đi ở tuổi 91, để lại một gia tài âm nhạc đồ sộ. Ông sống vui tới cuối đời, và tới khi qua đời, vẫn ngồi ghế ban giám khảo chương trình Tiếng hát mãi xanh. Nhớ đến ông, khán thính giả vẫn thường nhớ đến hàng loạt ca khúc về tình yêu, quê hương, đất nước, trong số đó không thể không nhắc đến bài hát “Bóng cây Kơnia” phổ thơ Ngọc Anh.

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu

11 năm mới phổ nhạc thành công

Nhớ lại một lần gặp nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu ở Hà Nội, tôi có hỏi ông về hoàn cảnh sáng tác một số bài hát, trong đó có “Bóng cây Kơnia”. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cho biết, khoảng năm 1960 ông đã đọc được bài thơ của nhà thơ Ngọc Anh. Nguyên văn bài thơ như sau:

Buổi sáng em lên rẫy
Thấy bóng cây Kơnia
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh, không ngủ…
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơnia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc...
Em hỏi cây Kơnia:
- Gió mày thổi về đâu?
- Về phương mặt trời mọc,
Mẹ hỏi cây Kơnia:
- Rễ mày uống nước đâu?
- Uống nước nguồn miền Bắc.
Con giun sống nhờ đất
Chim phí sống nhờ rừng
Em và mẹ nhớ anh
Uống theo nguồn miền Bắc
Như bóng cây Kơnia
Như gió cây Kơnia.

Ngay lần đầu đọc bài thơ, nhạc sĩ đã cảm thấy thích thú. Ông bắt tay vào phổ nhạc, nhưng rồi kết quả không được như ý nên lặng lẽ cất đi. Tới năm 1964, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vào chiến trường Tây Nguyên sống, lao động, chiến đấu cùng đồng bào dân tộc. Ở đây, ông được hòa mình vào không gian Tây Nguyên, tận mắt nhìn thấy những cây Kơnia sừng sững. Ông vẫn nhớ tới ca khúc phổ thơ của thi sĩ Ngọc Anh còn dang dở, nhưng lúc đó cảm xúc vẫn chưa “tới” nên vẫn còn bỏ đó.

Cho đến năm 1970, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu bị sốt rét rừng và phải ra Bắc điều trị. Thời gian này, bên cạnh vốn sống từ thực tế, ông có dịp suy ngẫm kỹ hơn về những lời thơ thăm thẳm của Ngọc Anh. Sự thật thì nhà thơ Ngọc Anh cũng đã viết bài thơ này theo điệu Kachoi của dân ca Hrê vào khoảng năm 1957-1958. Bài thơ khi đó được in trong tập thơ “Tiếng hát miền Nam” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1959.

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã hoàn thành bài hát “Bóng cây Kơnia” sau 11 năm nghiền ngẫm, viết đi chỉnh lại. Có lẽ, trong rất nhiều ca khúc phổ thơ thành công của mình, bài hát này khiến ông lao tâm khổ tứ nhiều hơn cả, và cũng tốn thời gian dài nhất.

Ít ai còn nhớ, trước đó, bài thơ “Bóng cây Kơnia” của nhà thơ Ngọc Anh đã được nhạc sĩ Phan Thanh Nam phổ nhạc (từng được ca sĩ Tường Vi hát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam), nhưng nhạc sĩ Phan Huỳnh Điều vẫn để lại dấu ấn cá nhân của mình, để tạo nên một ca khúc trữ tình, mãi xanh cùng năm tháng. Nhiều người biết đến ca khúc qua tiếng hát của cô gái Ba Na có tên Măng Thị Hội – một giọng hát trong sáng như suối ngàn, vang sâu và hùng vĩ như núi rừng Tây Nguyên.

Cây Kơnia ở Tây Nguyên

Một cuộc đời tận tụy với âm nhạc

Được mệnh danh là ″con chim vàng″ của nền âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu là cánh chim đầu đàn thuộc thế hệ tiêu biểu của nền âm nhạc nước nhà ở thế kỷ XX. Ông đã sống một cuộc đời tận tụy với âm nhạc. Với những đóng góp to lớn, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Chống Mỹ hạng nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sinh ngày 11-11-1924 tại Đà Nẵng, nguyên quán Điện Bàn – Quảng Nam. Ông bắt đầu hoạt động âm nhạc từ những năm 40 của thế kỷ 20, trong nhóm tân nhạc.

Những ca khúc của ông nhiều thế hệ thuộc lòng, nhiều người hát, hát ở nhiều nơi, song như nhạc sĩ Trần Hiếu nhận xét, để thể hiện các ca khúc của Phan Huỳnh Điểu là đều không dễ dàng đối với các ca sĩ. Không đao to búa lớn, rất nhẹ nhàng dung dị, song ca sĩ luôn phải đầu tư và làm việc một cách nghiêm túc để có thể truyền tải hết tinh thần và thông điệp nhạc sĩ đã gửi gắm trong các nhạc khúc của mình.

“Trữ lượng” âm nhạc trong con người Phan Huỳnh Điểu như một vỉa quặng lớn. Ông sáng tác nhiều, đa dạng. Và ở đề tài nào cũng có những bài hát để lại dấu ấn. Công chúng yêu nhạc ngày nay vẫn có thể nhắc đến những sáng tác tiêu biểu của ông, từ những ca khúc viết trong kháng chiến như: “Giải phóng quân”, “Nhớ ơn Hồ Chủ tịch”, “Quê tôi ở miền Nam”...; cho tới những ca khúc được viết ra sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông nối liền một dải như: “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm”, “Những ánh sao đêm”...

Ông cũng còn được biết đến là nhạc sĩ có biệt tài phổ thơ, chấp cánh cho những bài thơ vốn ít người biết đến thành ca khúc có sức lan phổ mạnh mẽ. Sinh thời, ngồi trong căn phòng ở đường Thất Sơn (Quận 10– TP.HCM), nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vẫn dành nhiều thời gian để đọc thơ, những tập thơ do bạn bè gửi tặng và cả thơ được in trên báo. Khi bắt gặp những bài thơ hay, cảm thấy đồng điệu, ông thường chép lại. Đến nay, trong gia tài âm nhạc ông để lại, có rất nhiều ca khúc được phổ từ những áng thơ và vững vàng trước thời gian, như: “Bóng cây Kơnia” (thơ Ngọc Anh), “Anh ở đầu sông em cuối sông” (thơ Hoài Vũ), “Sợi nhớ sợi thương” (thơ Thúy Bắc), “Thuyền và biển” (thơ Xuân Quỳnh)… Ngoài ra, ông còn được thiếu nhi nhớ đến với các ca khúc: “Nhớ ơn Bác”, “Đội kèn tí hon”, “Những em bé ngoan”… Bên cạnh đó, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cũng là một trong những hội viên sáng lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam, và là 1 trong 12 sáng lập viên của NXB Kim Đồng. Ngoài sáng tác âm nhạc, ông còn có viết cuốn sách cho thiếu nhi: “Cá giấy biết bơi” (họa sĩ Mai Văn Hiến minh họa) - đây là 1 trong 8 cuốn đầu tiên được in nhân dịp thành lập NXB Kim Đồng, 6-1957.
Theo di nguyện của nhạc sĩ, khi ông qua đời, tro cốt ông được rải xuống sông Hàn (Đà Nẵng), đó là cách ông muốn được đắm mình với dòng sông quê hương…

Suốt mấy chục năm qua, sau khi nghe bài hát “Bóng cây Kơnia” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu nhiều người muốn biết cây Kơnia có hình dáng như thế nào, nhưng không phải ai cũng có may mắn tận mắt nhìn thấy. Bởi ở Việt Nam, cây này chỉ có từ Quảng Nam đến một số tỉnh Nam Bộ và còn mọc ở các đảo Phú Quốc, Côn Đảo nhưng tập trung ở các tỉnh Tây Nguyên, nhiều nhất là ở Sa Thầy - Kon Tum, Lắk, Bản Đôn - Đăk Lăk...
Theo các tài liệu khoa học, Kơnia là loài thực vật thân gỗ lớn, cao 15–30 m, đường kính 40–60 cm, có nhiều quả. Tán cây thường có hình trứng, sậm rất đặc trưng xanh quanh năm và có sức sống mãnh liệt, chịu hạn tốt, rễ cọc ăn sâu, nhiều rễ tỏa ngang nên ít bị đổ do mưa, bão. Đối với người đồng bào dân tộc thiểu số, cây Kơnia còn mang ý nghĩa tâm linh rất lớn, họ coi đây nơi trú ngụ của thần thánh, của vong linh những người đã khuất, rất ít khi họ chặt phá cây Kơnia; vì vậy trên nương rẫy của đồng bào thường có các cây Kơnia cổ thụ được sử dụng như cây che mát mỗi lúc nghỉ giải lao, nghỉ trưa…

Chủ đề: PHan Huỳnh Điểu

05/10/2014 20:59

Gần nửa thế kỷ qua, ca khúc “Bóng cây Kơ-nia” luôn làm say mê, rung động bao người. Nhưng thường người nghe chỉ nhớ bài hát là của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, ít ai để ý đến dòng chữ: “Phổ thơ Ngọc Anh”.

Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cho biết khi đọc được bài thơ “Bóng cây Kơ-nia” của Ngọc Anh trong tuyển tập thơ “Tiếng hát Miền Nam” (Nhà xuất bản Văn học, 1960) ông đã bắt tay vào phổ nhạc, nhưng chưa ưng ý lắm. Vừa lúc ấy cũng đã xuất hiện vài ca khúc phổ bài “Bóng cây Kơ-nia”, khiến ông chùn tay, đành xếp lại ý định hoàn thiện ca khúc của mình. Mãi đến năm 1964 Phan Huỳnh Điểu vào chiến trường Tây Nguyên. 6 năm lăn lộn ở đây, cảnh sắc, con người, văn hóa Tây Nguyên thấm đẫm vào tâm hồn và nhận thức của nhạc sĩ, khiến ông trăn trở phải làm một cái gì đó cho vùng đất độc đáo này.

Năm 1970 Phan Huỳnh Điểu ra Bắc điều trị bệnh. Những ngày nằm bệnh, “Bóng cây Kơ-nia” lại ám ảnh ông. Cảm xúc cũ ùa về thôi thúc; những giai điệu ngân nga trở lại trong hồn. Vậy là ngày 12/8/1971, ông hoàn chỉnh ca khúc đã từng ấp ủ, trăn trở bấy lâu. Ca khúc lần đầu tiên được Măng Thị Hội, cô học trò người dân tộc Ba Na ở Bình Định tập kết đang học tại Nhạc viện Hà Nội dùng làm bài thi ra trường và đạt điểm tuyệt đối. Sự thành công ấy khiến ca khúc gây được tiếng vang ngay từ buổi đầu và Măng Thị Hội được gọi vui luôn là… “Măng Kơ-nia”!

Trở lại tác giả “Bóng cây kơ-nia”. Ngọc Anh họ Nguyễn, sinh ngày 3/3/1934 tại xã Đại Hồng, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. 15 tuổi vào Thiếu sinh quân, học Trường Trung học Bình dân Liên khu V, sau đó làm phóng viên các báo: Vệ Quốc Đoàn, Quân đội nhân dân Liên khu V… Năm 1954 tập kết ra Bắc, làm việc ở Ban Dân tộc Trung ương, rồi sang Ban Văn-Sử-Địa (tiền thân Viện Văn học Việt Nam sau này), chuyên nghiên cứu và dịch thuật văn hóa – văn học Tây Nguyên. Một số sáng tác thơ của Ngọc Anh đã ra đời trong khoảng thời gian này. Điều đặc biệt là dưới tất cả các sáng tác của mình Ngọc Anh đều ghi: Dịch, Phỏng dịch hoặc Sưu tầm… nên người đọc ít biết có một nhà thơ Ngọc Anh chuyên sáng tác về chủ đề Tây Nguyên.

Thời gian ở Bắc, Ngọc Anh gặp gỡ cô gái tên Nguyễn Thị Xoa ở Hải Phòng, yêu nhau rồi lấy nhau và có hai con trai. Hà Nội – Hải Phòng xa nhau cả trăm cây số, lại bận bịu công tác, nên thời gian vợ chồng gần gũi nhau cũng không bao nhiêu. Đến năm 1964 Ngọc Anh được điều về lại chiến trường Khu V, công tác tại Ban Tuyên huấn, rồi Đoàn Văn công tỉnh Kon Tum, hoạt động quanh khu vực núi Ngọc Linh (vùng Tu Mơ Rông ngày nay). Ở Bắc đã ít gặp nhau, bây giờ lại cảnh người Nam kẻ Bắc, nỗi nhớ vợ con ngày càng lặng sâu vào tâm hồn nhà thơ trẻ. 

Thời gian hoạt động ở Kon Tum, Ngọc Anh rất năng nổ đi về các buôn làng, gần gũi bà con, ghi chép, tìm hiểu về cảnh sắc, con người, truyền thống văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, luôn nung nấu ý nguyện sẽ “làm một cái gì đó” về vùng đất huyền thoại này. Có lần Ngọc Anh tâm sự với bác sĩ Ksor Krơn (tức Nguyễn Văn Sĩ - sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum): Em sẽ cố gắng đi sâu sát, viết nhiều gương chiến đấu, lao động của đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên, đọc thơ, ca hát cho mọi người nghe để bà con biết văn nghệ cách mạng.

Và, đã không có được cái ngày đoàn viên dành cho gia đình nhà thơ trẻ tài hoa này, bởi ngày 15/10/1965, dưới bóng núi Ngọc Linh, Ngọc Anh đã lặng lẽ hy sinh khi mới vừa qua tuổi ba mươi. Về cái chết của Ngọc Anh, nghe nhà văn Nguyên Ngọc kể lại: Lúc ấy vì thiếu thốn, bộ đội ở rừng muốn có ánh sáng phải đào lỗ xuống đất, lót đồ chống thấm, rót dầu vào rồi lấp kín, chỉ chừa chỗ đưa bấc (tim) đèn lên trên để thắp. Vào một đêm văn nghệ (hay họp hành gì đó), “đèn” hết dầu, thay vì để tắt hẳn mới rót dầu vào, vì nóng lòng phục vụ, Ngọc Anh chêm dầu khi bấc còn leo lét cháy. Dầu bắt lửa bùng lên, Ngọc Anh bị bỏng nặng. Bác sĩ Ksor Krơn là người trực tiếp chữa trị cho Ngọc Anh, nhưng không qua được!

Năm 1988, bà Xoa quyết tâm đi tìm hài cốt của chồng hy sinh 23 năm về trước. Sau nhiều ngày mày mò thăm hỏi, bà Xoa cũng tìm tới vùng chân núi Ngọc Linh và được bà con Xê Đăng ở đây giúp đỡ tìm nơi chôn cất Ngọc Anh. Do lâu ngày, mộ phần đã khuất đâu trong cây cỏ không còn dấu tích, tìm mãi mới thấy, bà Xoa và hai con trai cải táng phần mộ nhà thơ Ngọc Anh về Nghĩa trang liệt sĩ huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cách quê nhà Đại Lộc không xa.

Ngày nay, ở làng Đăk Viêng, xã Tê Xăng, huyện Tu Mơ Rông, nơi Ngọc Anh thường xuyên đi về hoạt động và được chôn cất khi hy sinh, còn rất nhiều người biết và nhớ Ngọc Anh.

Bà Y Bình kể: Cuối năm 1964 có đoàn Văn công về tuyển diễn viên tại làng Đăk Viêng. Chỉ mỗi mình Y Đồng (sau đổi là Y Mai) được chọn. Y Bình cũng xin đi nhưng vì đang theo học lớp cứu thương, lại đang mang thai nên không được chọn. Đầu năm 1965, Y Bình đến trạm xá dã chiến sinh con, bất ngờ gặp lúc người ta đưa ông Đinh Ngà bị thương vào cấp cứu. Đinh Ngà (người dân tộc H’rê ở H29 – huyện Kon Plông) cho biết Ngọc Anh đã hy sinh. Tin như sét đánh, Y Bình vô cùng thương tiếc anh cán bộ cao to, đẹp trai, đàn giỏi hát hay, thường về làng Đăk Viêng dạy bà con hát những bài ca cách mạng. Quanh vùng ai ai cũng yêu mến Ngọc Anh, nhất là cánh phụ nữ, nhưng lúc ấy kỷ luật nghiêm ngặt lắm, không ai dám để lộ tâm tình. Có lần Y Bình bảo Ngọc Anh làm riêng cho mình một bài hát, Ngọc Anh hứa sẽ có. Nhưng bây giờ thì...!

Bà Y Hoa, chị ruột Y Đồng (tức Y Mai, người duy nhất của làng Đăk Viêng được tuyển làm văn công) bảo: Chỉ có Y Mai là biết rõ hơn về Ngọc Anh thôi, vì nó được đi hoạt động cùng với đoàn Văn công mà. Nhưng bây giờ nó cũng chết rồi.

Y Hoa nhớ hôm tuyển diễn viên, thấy hai chị em bà đều còn trẻ, xinh gái lại hát hay, định tuyển cả, nhưng lúc đó bà đang là y tá thuộc một đơn vị của Tỉnh đội Kon Tum nên không được đi. Bà nhớ nhóm tuyển chọn có hai người, một người tên Ba cao to đẹp trai và một người dân tộc Jẻ-Triêng ở Đăk Glei tên A Hoa. Sau này mới biết người tên Ba là Ngọc Anh. Y Hoa nhiều lần nhờ Ngọc Anh dạy cho nhiều bài hát. Bà hát được chừng 20 bài, nay già yếu nên quên nhiều rồi... Xúc động khi nghe nhắc đến và hỏi chuyện về “anh Ba”, Y Hoa móm mém hát vài câu còn nhớ lõm bõm trong bài “Ai xui là…”

Bà Y Xuân thì kể: Lúc Ngọc Anh hoạt động ở đây Y Xuân đã là cán bộ phụ nữ xã nên rất thường gặp gỡ liên hệ công tác. Y Xuân bảo Ngọc Anh cao to đẹp trai, đàn giỏi hát hay, ăn ở tốt với mọi người, bà con dân làng ai cũng quý mến, cánh phụ nữ rất có “cảm tình” nhưng Ngọc Anh… “nghiêm” lắm (“Nghiêm”, có thể hiểu là do tính cách trầm lặng “giấu mình” cố hữu, và cũng có lẽ lúc nào trong tâm trí nhà thơ cũng đau đáu hình ảnh người vợ xa ở tít Hải Phòng một mình một bóng nuôi dạy hai con trai nhỏ dại thay mình). Như nhiều người khác, Y Xuân cũng được Ngọc Anh dạy cho một số bài hát mới, nay vì tuổi tác đã quên bớt nhiều rồi, chỉ nhớ Ngọc Anh là người rất dễ thương và tiếc là chết còn trẻ quá...

Mỗi người một chuyện về “cái anh” đẹp người tốt nết, đàn giỏi hát hay, ánh mắt lúc nào cũng buồn buồn nghiêm nghị ấy… Đến khi nhắc bài thơ – bài hát “Bóng cây kơ-nia”, ông A Nghin, chồng bà Y Hoa, góp lời: Lớp trẻ bây giờ chỉ hát “Bóng cây kơ-nia” mới mà thôi (ý nói ca khúc của Phan Huỳnh Điểu), các người già ở đây thì vẫn nhớ ngày xưa mình hát theo điệu Kachoi do Ngọc Anh bày cho. Mỗi lần hát lên càng thấy yêu cái cây thân thuộc trên núi rừng mình, càng thấy nhớ bộ đội quê xa về chiến đấu ở quê mình. Ngọc Anh nó tốt lắm!

Vậy là đã rõ, dẫu cứ tự khiêm cung giấu mình, nhưng hình ảnh nhà thơ - chiến sĩ Ngọc Anh vẫn như một bóng kơ-nia lừng lững trong niềm thương nỗi nhớ của bà con Xê Đăng bên bóng núi Ngọc Linh.

Chắc chắn sẽ còn nhiều người nhớ về Ngọc Anh, như cô gái trong lời thơ – lời hát: “Buổi sáng em lên rẫy/ Thấy bóng cây kơ-nia/ Bóng ngả che ngực em/ Về nhớ anh không ngủ/ Buổi chiều mẹ lên rẫy/ Thấy bóng cây kơ-nia/ Bóng tròn che lưng mẹ/ Về nhớ anh mẹ khóc…/ Em và mẹ nhớ anh/ Như bóng cây kơ-nia…”!

Tạ Văn Sỹ