Ưu, nhược điểm của phương pháp luyện theo mẫu

  • BGcaukienxd MÁY SẢN XUẤT VẬT.LIỆU VÀ CẤU KIỆN. XÂY DỰNG.. Những vấn đề cơ bản của việc làm. nhỏ

  • Phương pháp định lượng Ưu điểm Cấy được thể tích mẫu lớn (1ml). Xác định được các VSV cần dinh dưỡng tiếp xúc từ nhiều

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH BÙI THỊ LIỄU TRANG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN THEO MẪU TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THUỘC QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC NGHỆ AN - 2014BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH BÙI THỊ LIỄU TRANG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN THEO MẪU TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THUỘC QUẬN 6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn Văn và Tiếng Việt Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG LƯU NGHỆ AN - 2014MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 3. Mục đích nghiên cứu 6 4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 7 5. Phương pháp nghiên cứu 7 6. Cấu trúc luận văn 7 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 8 1.1. Cơ sở lý luận của phương pháp rèn luyện theo mẫu 8 1.1.1. Khái niệm mẫu và mẫu ngôn ngữ 8 1.1.2. Vấn đề mô phỏng, bắt chước trong hoạt động ngôn ngữ của con người 9 1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở với vấn đề mô phỏng, bắt chước ngôn ngữ 11 1.1.4. Rèn luyện theo mẫu với tư cách là một phương pháp dạy học tiếng 13 1.1.5. Rèn luyện theo mẫu và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt ở nhà trường THCS hiện nay 15 1.2. Cơ sở thực tiễn của phương pháp rèn luyện theo mẫu 18 1.2.1. Yêu cầu hình thành tri thức từ chương trình phân môn Tiếng Việt THCS 18 1.2.2. Đòi hỏi của việc rèn luyện các kỹ năng tiếng Việt cho học sinh THCS 20 1.2.3. Thực trạng sử dụng tiếng Việt của học sinh THCS 22 1.2.4. Thực trạng của việc áp dụng các phương pháp dạy học tiếng Việt của giáo viên ở THCS 26 Tiểu kết chương 1 32Chương 2. NGUYÊN TẮC, NỘI DUNG VÀ CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH RÈN LUYỆN THEO MẪU CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 33 2.1. Các nguyên tắc cần tuân thủ khi áp dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu 33 2.1.1. Nguyên tắc bám sát chương trình, sách giáo khoa 34 2.1.2. Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp 36 2.1.3. Nguyên tắc vừa sức 39 2.1.4. Nguyên tắc hướng tới cả dạng nói và dạng viết 41 2.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh 43 2.2. Các nội dung cần rèn luyện theo mẫu trong dạy học tiếng Việt ở trung học cơ sở 45 2.2.1. Rèn luyện cách sử dụng từ ngữ trong ngữ cảnh cụ thể 45 2.2.2. Rèn luyện cách tạo câu theo các yêu cầu biểu đạt 51 2.2.3. Rèn luyện cách tổ chức đoạn văn theo yêu cầu lập luận 58 2.3. Các bước tiến hành hoạt động rèn luyện theo mẫu cho học sinh 64 2.3.1. Chọn mẫu 64 2.3.2. Phân tích mẫu 65 2.3.3. Hướng dẫn học sinh tạo lập sản phẩm ngôn ngữ theo mẫu 67 2.3.4. Đánh giá sản phẩm ngôn ngữ của học sinh 68 2.4. Một số trường hợp minh họa cho các bước tiến hành rèn luyện theo mẫu 70 2.4.1. Rèn luyện cách dùng từ ngữ trong các ngữ cảnh khác nhau qua dạy bài từ “Từ đồng nghĩa” (Ngữ văn 7, tập một) 70 2.4.2. Rèn luyện cách tạo câu theo yêu cầu biểu đạt qua dạy bài “Câu nghi vấn” và bài “Lựa chọn trật từ trong câu” (Ngữ văn 8, tập hai) 73 Tiểu kết chương 2 84 Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 85 3.1. Mục đích, yêu cầu, nội dung và cách thức thực nghiệm 85 3.1.1. Mục đích thực nghiệm 85 3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm 85 3.1.3. Nội dung thực nghiệm 85 3.1.4. Cách thức thực nghiệm 86 3.2. Tổ chức thực nghiệm 86 3.2.1. Chọn lớp thực nghiệm và lớp đối chứng 86 3.2.2. Thiết kế bài tập thực nghiệm (giờ ngoại khóa, 90 phút) 87 3.2.3. Dạy thực nghiệm và dạy đối chứng 110 3.3. Đánh giá thực nghiệm 111 3.3.1. Nhận xét quá trình và kết quả học tập của lớp thực nghiệm 111 3.3.2. Xử lý số liệu thực nghiệm 112 3.4. Kết luận chung về thực nghiệm 114 Tiểu kết chương 3 115 KẾT LUẬN 116 TÀI LIỆU THAM KHẢO 119 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐC : Đối chứng GV : Giáo viên HS : Học sinh Nxb : Nhà xuất bản PPDH : Phương pháp dạy học SGK : Sách giáo khoa SL : Số lượng THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông TL : Tỉ lệ TN : Thực nghiệm 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người" (Lê-nin). Con người hiểu và truyền đạt tri thức đều thông qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để chúng ta giao tiếp, biểu lộ tình cảm, suy nghĩ của mình mà còn có vai trò trong việc phát triển khả năng tư duy cũng như ảnh hưởng lớn đến việc hình thành nhân cách con người. Quá trình hình thành và phát triển ngôn ngữ của con người gắn liền với quá trình “bắt chước”, mô phỏng, học tập các mẫu lời nói của người khác trong hoạt động giao tiếp. Theo Aristote, "mô phỏng" được xem như là một thuộc tính bản chất của con người, đã dần dần thúc đẩy con người đi đến hoạt động sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật. Sự "mô phỏng" ở đây chính là hoạt động nhận thức. Con người khác giống vật chính là ở chỗ, có tài mô phỏng, nhờ có sự mô phỏng đó mà con người thu được những kiến thức đầu tiên. 1.2. Phân môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng ở trường phổ thông. Nó cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học, tri thức về tiếng Việt. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã được làm quen, hình thành những tri thức sơ giản, cần thiết về tiếng Việt, bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Trên cơ sở đó, giáo viên rèn luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc viết cho học sinh nhằm giúp các em bước đầu sử dụng tiếng Việt để suy nghĩ và giao tiếp có hiệu quả. Giáo viên dần dần hình thành cho học sinh ý thức về chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn mực văn hóa thể hiện qua lời nói. Tiếp nối chương trình bậc tiểu học, lên trung học cơ sở, học sinh tiếp tục được cung cấp những tri thức tiếng Việt mang tính hệ thống hơn. Hầu như những vấn đề cốt lõi về lý thuyết cũng như thực hành luyện tập tiếng Việt đều được đề cập khá đầy đủ. Học sinh đã có ý thức, nền tảng tri thức quan sát 2 ngôn ngữ của người khác và của chính mình để điều chỉnh, phát triển lời ăn tiếng nói. Dạy học tiếng Việt cũng đồng thời rèn luyện cho học sinh những mẫu lời nói trong học tập, giao tiếp, hướng đến chuẩn mực, phù hợp với lứa tuổi, tâm sinh lý của học sinh, giúp các em tích cực chủ động tham gia vào hoạt động giao tiếp một cách hiệu quả. 1.3. Hiện nay, với sự phát triển chóng mặt của khoa học công nghệ, việc sử dụng internet đã mở đường cho kết nối toàn cầu, các loại hình giao tiếp qua mạng trở nên phổ biến, và kéo theo nó là lối sử dụng ngôn ngữ với nhiều tên gọi khác nhau: ngôn ngữ chát, ngôn ngữ tuổi teen Đây là một hiện tượng ngôn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến giới trẻ, không chỉ xuất hiện trong những văn bản chát, những dòng tin nhắn qua điện thoại di động, mà nó còn được một bộ phận học sinh đưa cả vào trong bài viết, bài thi của mình. Ngôn ngữ chát xâm nhập vào học đường, một mặt, tạo nên nét vui tươi, dí dỏm trong giao tiếp, nhưng mặt khác, dẫn đến sự phức tạp, lộn xộn trong tư duy và sử dụng ngôn ngữ của học sinh. Vì vậy, để nâng cao ý thức, trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, điều chỉnh những cải biến ngôn ngữ do chính các em tạo ra, hướng các em vào các chuẩn mực, trong việc dạy phân môn tiếng Việt, giáo viên cần quan tâm đến phương pháp rèn luyện theo mẫu. Đây là một trong những phương pháp đặc thù trong dạy tiếng Việt, giúp cho học sinh có thói quen rèn luyện, sử dụng ngôn ngữ lành mạnh, đúng chuẩn tiếng Việt văn hóa. Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề: Vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu trong dạy học tiếng Việt ở các trường Trung học cơ sở thuộc quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh làm đề tài nghiên cứu. Bên cạnh những vấn đề lý thuyết, chúng tôi sẽ khảo sát thực trạng dạy học và thực nghiệm phương pháp này ở một số trường THCS ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hy vọng những kiến giải khoa học và kết quả thực nghiệm 3 sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn tiếng Việt ở bậc Trung học cơ sở. 2. Lịch sử vấn đề Từ năm 1986, khi Tiếng Việt được xem là một môn học độc lập trong nhà trường và qua nhiều lần đổi mới chương trình và sách giáo khoa, nhất là khi chương trình Ngữ văn mới được áp dụng trong cả nước từ năm 2006 đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo, bài tham luận khoa học trong các cuộc hội thảo quan tâm đến vấn đề phương pháp dạy học tiếng Việt. Các giáo trình vừa bàn về phương pháp dạy học đối với một hợp phần cụ thể, vừa nêu một số phương pháp có thể áp dụng chung cho các hợp phần. Đáng kể như các công trình nghiên cứu: Phương pháp dạy học tiếng Việt (Lê A chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, Phương pháp dạy học tiếng Việt nhìn từ tiểu học của Hoàng Hòa Bình - Nguyễn Minh Thuyết, Phương pháp dạy học tiếng Việt (2 tập) do nhóm tác giả Lê A, Thành Thị Yên Mĩ, Lê Phương Nga biên soạn dành cho GV bậc Tiểu học, Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới (Nguyễn Trí). Các tài liệu này đã trình bày một hệ thống phương pháp xác định nhằm tổ chức hoạt động của thầy và trò. Các tác giả đã cung cấp cho chúng ta những vấn đề cơ bản của lí luận dạy học: đối tượng, nhiệm vụ của PPDH tiếng Việt, các nguyên tắc dạy học tiếng Việt, cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng PPDH tiếng Việt, việc sử dụng thiết bị và đồ dùng để dạy học tiếng Việt, hoạt động ngoại khoá môn tiếng Việt… Đối với phương pháp rèn luyện theo mẫu, các giáo trình nghiên cứu về phương pháp dạy học tiếng Việt đã xem đó là một trong những phương pháp đặc thù trong dạy học tiếng. Đáng chú ý là trong giáo trình Phương pháp dạy học tiếng Việt của Lê A (chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán. Nhóm tác giả đã trình bày về một số phương pháp mang tính đặc thù cho việc 4 dạy học tiếng Việt trong nhà trường như phương pháp thông báo - giải thích, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp rèn luyện theo mẫu, phương pháp giao tiếp [3, tr. 64-71]. Mỗi phương pháp đều được trình bày cụ thể về bản chất, đặc trưng, các thao tác, quy trình thực hiện, phạm vi có thể áp dụng. Về bản chất của phương pháp rèn luyện theo mẫu, theo các tác giả, “đó là phương pháp mà thầy giáo chọn và giới thiệu các mẫu hoạt động ngôn ngữ rồi hướng dẫn học sinh phân tích để hiểu và nắm vững cơ chế của chúng và bắt chước mẫu đó một cách sáng tạo vào lời nói của mình” [3, tr. 69]. Các bước cụ thể thực hiện phương pháp này mà giáo trình đã nêu gồm: cung cấp mẫu lời nói hoặc hành động lời nói; giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu theo một số yêu cầu; học sinh mô phỏng mẫu để tạo ra lời nói của mình; kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Giáo trình cũng cũng nhấn mạnh đến tính khả thi của các phương pháp trong thực tế dạy học. Mỗi phương pháp có đặc thù và chỗ mạnh riêng, giáo viên phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo mới thu được kết quả mong muốn. Với công trình nghiên cứu Phương pháp dạy học tiếng Việt nhìn từ tiểu học, tác giả Hoàng Hòa Bình - Nguyễn Minh Thuyết đã trình bày khá rõ về phương pháp rèn luyện theo mẫu. Theo tác giả: “Rèn luyện theo mẫu là vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học hoặc mô hình đã biết vào thực hành nhằm củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng” [9, tr. 102]. Các tác giả cũng hướng dẫn biện pháp phân tích theo mẫu và xây dựng hai loại bài tập theo mẫu: bài tập nhận diện đơn vị, hiện tượng ngôn ngữ và bài tập tạo lập văn bản. Do mục đích và giới hạn của giáo trình, những vấn đề về rèn luyện theo mẫu ở đây chỉ dừng lại ở giới hạn dạy học cho HS tiểu học. Tuy nhiên, người quan tâm vẫn có thể tìm thấy ở đây những định hướng, những gợi ý cho việc dạy học các đơn vị ngôn ngữ theo phương pháp rèn luyện theo mẫu cho HS trung học. 5 Ngoài ra, để làm cơ sở tìm hiểu, sử dụng đạt hiệu quả phương pháp rèn luyện theo mẫu, chúng ta cần chú ý đến các công trình nghiên cứu về sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy tiếng Việt cũng như đánh giá về chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn, những áp lực đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình Ngữ văn mới như: Vấn đề lựa chọn phương pháp và phát triển kỹ năng trong dạy tiếng (Vũ Văn Thi), Một số xu hướng lý thuyết của việc dạy học tiếng mẹ đẻ trong nhà trường (Nguyễn Thị Thanh Bình), Áp lực đổi mới việc dạy học tiếng Việt từ chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông (Đặng Lưu), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông (Đỗ Ngọc Thống) Đề cập đến việc dạy tiếng, Vũ Văn Thi nêu vấn đề lựa chọn phương pháp và phát triển kĩ năng. Trong dạy tiếng hiện nay, người ta chủ yếu áp dụng một số phương pháp: phương pháp ngữ pháp - dịch; phương pháp trực tiếp; phương pháp nghe nói; phương pháp nghe nhìn; phương pháp thực hành có ý thức; phương pháp ám thị; phương pháp giao tiếp. Tuy nhiên, theo tác giả: "các nhà giáo học pháp đều nhận thấy rằng, không thể có một phương pháp chung, hoàn hảo nào cho việc dạy tiếng, mà mỗi phương pháp ra đời là một sự nghiên cứu, tìm tòi, khám phá để có thể đạt đến ưu việt hơn, có thể ứng dụng rộng rãi và hiệu quả hơn" [37, tr. 191]. Mặc dù bài viết bàn chung về vấn đề dạy tiếng, liên quan đến nhiều đối tượng, song một số ý kiến trong đó có thể vận dụng vào dạy học tiếng Việt trong nhà trường. Trao đổi về sự cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt theo quan điểm tích hợp, tác giả Đỗ Ngọc Thống trong tài liệu Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông đã giúp giáo viên thấy được những yêu cầu của việc đổi mới chương trình Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn và sự cần thiết của việc đổi mới PPDH Tiếng Việt theo quan điểm “tích hợp” và “tích cực”. Theo tác giả, mục đích chính của việc dạy 6 tiếng Việt ở THPT là “hành dụng”, “tức là hình thành và rèn luyện cho HS khả năng vận dụng các đơn vị ngôn ngữ trong tiếng Việt một cách tổng hợp và thành thạo trong nói cũng như viết theo một kiểu văn bản nào đó” [38, tr. 139]. Tác giả nhấn mạnh nguyên tắc tích hợp trong giờ dạy học Tiếng Việt thể hiện ở chỗ “khi cung cấp tri thức về một đơn vị ngôn ngữ nào đó, người GV luôn hướng HS liên hệ với các tác phẩm văn học đã và đang học, đặt đơn vị đó, yếu tố tiếng Việt đó trong văn cảnh cụ thể của tác phẩm, vận dụng một cách thành thạo để nghe hiểu, đọc hiểu, nói đúng và viết đúng” [38, tr. 141]. Tóm lại, các tài liệu nghiên cứu về phương pháp dạy học tiếng Việt và định hướng dạy học theo quan điểm tích hợp trong chương trình Tiếng Việt khá nhiều. Tuy nhiên, các tài liệu chỉ mới dừng lại ở việc hướng dẫn khái quát về đổi mới PPDH Tiếng Việt theo hướng “tích hợp” và “tích cực” chứ chưa nghiên cứu về các PPDH cụ thể của từng bộ phận trong môn Tiếng Việt ở bậc THCS. Đặc biệt, với phương pháp rèn luyện theo mẫu - một phương pháp đã được sử dụng khá phổ biến trong dạy học tiếng Việt, nhất là ở bậc tiểu học - nhưng vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, chưa được bàn nhiều như các phương pháp khác. Các công trình nghiên cứu về phương pháp rèn luyện theo mẫu chỉ mới dừng lại ở phạm vi khái quát về các bước thực hiện, cách vận dụng, chưa đi sâu vào việc dạy học tiếng Việt theo phương pháp rèn luyện theo mẫu ở một khối lớp cụ thể nói riêng và toàn bộ bậc trung học cơ sở nói chung. Vì thế, việc triển khai đề tài: Vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu trong dạy học tiếng Việt ở các trường trung học cơ sở thuộc quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh, theo chúng tôi, vẫn là vấn đề cấp thiết. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở yêu cầu của chương trình và sách giáo khoa, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy học phân môn, làm rõ hơn vấn đề sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu vào dạy học tiếng Việt, góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Việt ở trung học cơ sở. 7 4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu trong dạy học tiếng Việt ở các trường THCS 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng hợp một số vấn đề lý thuyết liên quan đến phương pháp rèn luyện theo mẫu. Đề xuất một số nguyên tắc, nội dung, hình thức vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu vào dạy học tiếng Việt ở trung học cơ sở. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp thuộc cả hai nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Cụ thể là: phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết, phương pháp mô hình hóa, phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp thực nghiệm. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được triển khai trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. Chương 2: Nguyên tắc, nội dung và các bước tiến hành rèn luyện theo mẫu cho học sinh trung học cơ sở. Chương 3. Thực nghiệm sư phạm. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận của phương pháp rèn luyện theo mẫu 1.1.1. Khái niệm mẫu và mẫu ngôn ngữ 1.1.1.1. Khái niệm mẫu Trong một số lĩnh vực lao động, học tập, giao tiếp chúng ta thường được hướng dẫn, thực hiện theo mẫu. Vậy mẫu là gì? Mẫu được hiểu là: 1 “Cái được nêu lên để người ta bắt chước (mẫu biểu kế toán); 2 “Vật trình bày cho người ta biết những đặc điểm, thành phần, công dụng của những vật đồng nhất với nó, sản xuất hay tồn tại trong tự nhiên trên qui mô lớn (mẫu áo, mẫu quặng)”; 3 “Vật có cùng hình dạng với vật khác nhưng có kích thước nhỏ hơn (mẫu máy bay); 4 “Người có tới mức hoàn chỉnh những tính chất, đặc điểm của cả loại và đáng được nêu lên làm tiêu biểu (nhà giáo kiểu mẫu); 5 “Người mà nghệ sĩ vẽ hay tạc lại hình dạng (ngồi làm mẫu) [49, tr. 381]. Mẫu cũng được giải thích ngắn gọn theo hai nghĩa sau: 1 “Cái theo đó có thể tạo ra hàng loạt những cái khác cùng một kiểu (mẫu đồ chơi cho trẻ em)”; 2 “Cái có thể cho người ta hiểu biết về hàng loạt những cái khác cùng một kiểu (hàng bày mẫu) [50, tr. 492]. 1.1.1.2. Khái niệm mẫu ngôn ngữ Trong cuộc sống, để giao tiếp với nhau, con người luôn cần ngôn ngữ. Nhưng làm thế nào để sử dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả, phù hợp với mục đính giao tiếp? Trả lời câu hỏi này, chúng ta phải quan tâm đến tính chuẩn mực của các sản phẩm ngôn ngữ, tức là các mẫu ngôn ngữ. Vậy thế nào là mẫu ngôn ngữ ? Mẫu ngôn ngữ là những sản phẩm ngôn ngữ đạt đến trình độ chuẩn mực có thể làm mẫu cho người khác học tập, mô phỏng, bắt chước nói theo, viết theo. 9 Để sản phẩm ngôn ngữ có thể được chọn làm mẫu, yêu cầu trước hết là mẫu đó phải đảm bảo tính chuẩn mực. Tính chuẩn mực là một đặc điểm quan trọng, quyết định hiệu quả của việc sử dụng ngôn ngữ. Theo tác giả Đinh Trọng Lạc “Chuẩn mực là căn cứ của cái đúng và mẫu mực, nó bảo đảm tính thống nhất và tính ổn định của ngôn ngữ văn hóa. Chuẩn mực ngôn ngữ là toàn bộ các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng, đã được mọi người thừa nhận và đã được coi là đúng và mẫu mực trong xã hội nhất định và trong thời đại nhất định cũng như toàn bộ các qui tắc sử dụng của xã hội đối với ngôn ngữ đó” [22, tr. 24]. Còn theo Cù Đình Tú, “chuẩn mực ngôn ngữ là hệ thống các phương tiện ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp tốt hơn cả, hợp lí hơn cả được mọi người trong xã hội thừa nhận, sử dụng để phục vụ nhu cầu giao tiếp xã hội trong một thời kỳ nhất định [48, tr. 254]. Có nhiều cách tạo mẫu, chọn mẫu ngôn ngữ, nhưng mẫu chủ lực đạt chuẩn nhất thường là mẫu được trích dẫn từ các ngôn bản nghệ thuật của các bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ. 1.1.2. Vấn đề mô phỏng, bắt chước trong hoạt động ngôn ngữ của con người Trong quá trình phát triển tâm lý, con người luôn có khả năng mô phỏng bắt chước - đó là một quy luật tất yếu của cuộc sống. Có nhiều dạng mô phỏng: mô phỏng tư duy, mô phỏng năng lực - kiến thức và kỹ năng, mô phỏng hành vi, mô phỏng trong hoạt động ngôn ngữ. Xuất phát từ bản năng sinh tồn, nhu cầu khám phá cuộc sống, con người tiếp xúc với thế giới xung quanh sẽ dần bộc lộ khả năng học hỏi, bắt chước. Cuộc sống có bao nhiêu bình diện là có bấy nhiêu cách mô phỏng, bắt chước làm theo. Đặc biệt, con người luôn có nhu cầu giao tiếp với nhau. Người ta có thể giao tiếp bằng nhiều phương tiện, song ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất. Để sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp đạt hiệu quả, con người phải trải qua quá trình học hỏi, rèn luyện, bắt chước mô phỏng những 10 thói quen ngôn ngữ xã hội có tính chất truyền thống, những tập quán lựa chọn và kết hợp đã hình thành trong cộng đồng, đã tạo nên những chuẩn mực cho toàn xã hội. Hầu hết trẻ em đều có khả năng bắt chước từ khi mới sinh ra, và điều này rất quan trọng, bởi vì, bắt chước là công cụ sơ đẳng để học những kỹ năng mới. “Thỏ thẻ như trẻ lên ba”, “Trẻ lên ba cả nhà học nói” là những thành ngữ nói đến việc dạy trẻ học nói, từ những năm đầu tiên của cuộc đời. Nói và hiểu được là phương tiện giao tiếp quan trọng giúp cho sự phát triển các khả năng tư duy, nhận thức và hoà nhập vào xã hội của trẻ. Quá trình trẻ học nói luôn cần có sự tương tác của một đối tượng như đồ vật, sự việc, tình huống Qua quá trình tiếp xúc, trẻ chú ý đến cách phát âm của mọi người xung quanh, nghe rồi bắt chước và nhìn nhận đồ vật, chú ý “từ’’ và hiểu nghĩa của nó, để rồi phát âm gọi tên đồ vật. Vì vậy, để nói và hiểu được ‘từ’, trẻ phải được nhiều lần tiếp xúc, được dạy phát âm. Đây là giai đoạn ban đầu ngôn ngữ dần được hình thành trong tư duy của trẻ ở dạng ngôn ngữ nói. Hành động, lới nói của người lớn có ảnh hưởng rất nhiều đến trẻ con. Trẻ có thể cảm nhận vô số chuyện xung quanh, trẻ có thể mô phỏng được y hệt thái độ, lời nói, giọng điệu của người lớn. Khoa học tâm lý đã chỉ ra rằng trẻ có thể bắt chước, mô phỏng và học rất nhanh các nghi thức xã hội, tác phong cư xử, nhất là lời ăn tiếng nói của người lớn. Qua từng giai đoạn phát triển, con người sẽ tích lũy vốn từ trong giao tiếp. Chất lượng, vốn từ nhiều hay ít còn phụ thuộc vào môi trường sống, yếu tố giáo dục của gia đình, khả năng phát triển trí tuệ trong mô phỏng bắt chước ngôn ngữ của từng người. Từ sau 5 tuổi, trẻ bắt đầu đến tuổi đến trường, đây là giai đoạn học hỏi, bắt chước để trẻ phát triển cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Trường học là môi trường tiếp xúc mới, đóng vai trò khá quan trọng trong việc dạy cho trẻ phát triển vốn ngôn ngữ, dần hoàn thiện 11 khả năng thông hiểu lời nói trong giao tiếp, tiến đến vận dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả, chuẩn mực. Ngoài ra, ngôn ngữ được hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa phương. Mỗi địa phương có những phương ngữ, hệ thống ngôn từ rất đa dạng và khác biệt nhau. Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở ngữ âm, rồi đến từ vựng, cuối cùng là một chút khác biệt về ngữ pháp. Người dân sống ở từng vùng miền sẽ ảnh hưởng lời ăn tiếng nói của vùng đó. Sự ảnh hưởng này là do trong hoạt động ngôn ngữ luôn có tính bắt chước, mô phỏng. 1.1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở với vấn đề mô phỏng, bắt chước ngôn ngữ Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THCS có nhiều điểm khác với học sinh Tiểu học. Nó biểu hiện bước phát triển mới về đời sống tâm lý. Học sinh THCS (từ lớp 6 đến lớp 9) là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi. Đây là giai đoạn phát triển của tuổi thiếu niên. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Lứa tuổi này có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn, tạo nên sự khác biệt trong mọi mặt phát triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… Việc chuyển tiếp từ bậc tiểu học lên bậc THCS được coi là bước ngoặt trong cuộc đời. Các em bắt đầu môi trường học tập mới với nhiều mối quan hệ mới. Các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, với nhiều thầy cô giảng dạy. Mỗi thầy, cô có cách trình bày, phương pháp dạy học, cách giao tiếp riêng của mình. Học sinh có thể học hỏi, bắt chước, mô phỏng từ chính cách dạy, ứng xử, giao tiếp của thầy cô. Nhân cách của người thầy sẽ tác động vào việc hình thành và phát triển trí tuệ, nhân cách của học sinh. 12 Do sự mở rộng các quan hệ xã hội, do sự phát triển của tự ý thức, đạo đức của các em được phát triển mạnh, học sinh THCS đã biết sử dụng các nguyên tắc riêng, các quan điểm, sáng kiến riêng để chỉ đạo hành vi. Ở lứa tuổi này, giao tiếp là hoạt động chủ đạo. Lứa tuổi thiếu niên có những thay đổi rất cơ bản trong giao tiếp với người lớn và với bạn ngang hàng. Qua giao tiếp, các em thực hiện ý muốn làm người lớn để lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức - xã hội. Với ý thức muốn làm người lớn, học sinh sẽ dễ dàng bắt chước, mô phỏng hoạt động, suy nghĩ của người lớn, nhất là bắt chước ngôn ngữ của người lớn trong giao tiếp. Học sinh trung học cơ sở thường ở độ tuổi đang hoàn thiện thể chất và đang hình thành những năng lực trí tuệ, trong đó có năng lực hoạt động ngôn ngữ. Bên cạnh các mặt khác, phát triển vốn ngôn ngữ cũng là điều cần được chú ý. Ở lứa tuổi này, việc tiếp thu ngôn ngữ từ hai nguồn (sinh hoạt và học tập) đều rất quan trọng. Ngôn ngữ của các em đã được phát triển mạnh, vốn từ tăng lên rõ rệt, khả năng tưởng tượng khá phong phú nhưng còn bay bổng, thiếu thực tiễn, trình độ logic chặt chẽ hơn so với học sinh tiểu học, các em có thể đã biết cách lập luận theo suy nghĩ riêng của mình, nhưng phảng phất trong đó vẫn có nét mô phỏng, bắt chước cách nói, lý lẽ của những người lớn. Một số hành động, lời nói của các em có thể được thực hiện theo thói quen, làm theo sự hướng dẫn, mô phỏng từ người lớn và ngay cả bắt chước từ bạn bè. Quá trình bắt chước đôi khi các em vẫn còn làm theo cảm tính hay bản năng, chưa có khả năng biết chọn lọc những sản phẩm ngôn ngữ chuẩn mực. Các em có thể rất nhạy bén trong tiếp thu, song cũng chưa chín chắn để có thể gạt bỏ những ảnh hưởng tiêu cực. Ngoài ra, trong quá trình giao tiếp với người lớn, các em luôn đòi hỏi được bình đẳng, tôn trọng, được đối xử như người lớn, có khát vọng được được khẳng định mình, không thích sự quan tâm can thiệp, kiểm tra, giám sát quá chặt chẽ từ người lớn. Vì vậy, trong quá 13 trình giáo dục lứa tuổi này, người lớn phải thực sự khéo léo, nắm bắt tâm sinh lý của các em. Cha mẹ, thầy cô phải là những người sát cánh dẫn dắt, quan tâm, định hướng các em trong hoạt động học tập, điều chỉnh, uốn nắn các em trong việc sử dụng lời ăn tiếng nói phù hợp với chuẩn mực trong giao tiếp. Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi thiếu niên có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp nhất và cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước trưởng thành sau này. Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên, giúp chúng ta hiểu hơn tâm lý, khả năng mô phỏng, bắt chước của các em cũng như áp dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp để giáo dục các em đạt hiệu quả hơn. 1.1.4. Rèn luyện theo mẫu với tư cách là một phương pháp dạy học tiếng Trong lĩnh vực dạy học tiếng, kể cả trong dạy học ngoại ngữ lẫn dạy tiếng mẹ đẻ, phương pháp rèn luyện theo mẫu đã được áp dụng rộng rãi ở các nền giáo dục và thu được những kết quả tích cực. Rèn luyện theo mẫu là một trong những phương pháp dạy tiếng quan trọng, là phương pháp giáo viên hướng dẫn cho học sinh dựa theo mẫu lời nói đã được sách giáo khoa xây dựng hoặc mẫu của giáo viên để giải quyết các bài tập, rèn kĩ năng hoặc tạo ra mẫu lời nói của chính mình hướng đến giao tiếp đạt hiệu quả, đúng chuẩn mực. Tuy nhiên việc học tập, bắt chước các mẫu lời nói trong hoạt động giao tiếp không phải là sự bắt chước vô thức mà là sự học tập mẫu có ý thức, thể hiện tính sáng tạo. Phương pháp rèn luyện theo mẫu chỉ là một trong những phương pháp dạy học, tồn tại bên cạnh một số phương pháp khác như phương pháp thông báo - giải thích, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp giao tiếp Trong thực tế ứng dụng, một tiết học có thể là một tiến trình tiếp cận mục đích bằng nhiều phương pháp, biện pháp phối hợp với nhau. Bước dạy kiến 14 thức mới thường thiên về sử dụng phương pháp giao tiếp và thông báo - giải thích. Bước dạy bài ôn tập, thực hành củng cố thường sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu, phân tích ngôn ngữ. Trong nhà trường, mục đích của việc vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu là nhằm hình thành ở học sinh ý thức về chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn văn hóa lời nói. Khi sử dụng ngôn ngữ, học sinh phải ý thức rằng không phải ai muốn nói thế nào cũng được mà phải phân biệt cái gì là có thể, cái gì là không thể. Các em cần biết rằng mọi người trong xã hội đã thỏa thuận, quy ước nói thế này được mà nói cách khác thì không được dẫu cho điều đó là hợp logic. Ngay từ bậc tiểu học, phương pháp rèn luyện theo mẫu đã được giáo viên sử dụng khá phổ biến và có thể nói đây là phương pháp đặc thù, chủ đạo trong dạy học tiếng Việt. Từ những bài học đầu tiên về dạy học đọc, học viết, định hướng việc học nghe, học nói đến việc từng bước cung cấp những khái niệm sơ giản, cơ bản ban đầu về một số đơn vị ngôn ngữ và quy tắc sử dụng tiếng Việt, giáo viên hầu như đều có thể sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu. Lên bậc trung học cơ sở, học sinh tiếp tục được cung cấp những tri thức tiếng việt mang tính hệ thống, hoàn chỉnh hơn. Học sinh đã có ý thức quan sát ngôn ngữ của người khác, quan sát ngôn ngữ của chính mình để phát triển ngôn ngữ và có ý thức điều chỉnh lời ăn tiếng nói của mình. Do đó, giáo viên tiếp tục sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu ở yêu cầu, tri thức cao hơn, đặc biệt quan tâm, rèn luyện cho học sinh những mô hình, mẫu lời nói trong lao động học tập, giao tiếp của học sinh hướng đến chuẩn trong lời nói, phù hợp với lứa tuổi, phát triển tâm sinh lý. Trong quá trình dạy tiếng, rèn luyện theo mẫu là một trong những phương pháp quan trọng được áp dụng và phối hợp với các phương pháp khác. Khi dạy bất kỳ một ngôn ngữ nào, người dạy và cả người học đều thông qua các ngữ liệu ngôn ngữ, mẫu lời nói để bước đầu hiểu được các 15 hiện tượng ngôn ngữ nhất định, phát hiện ra những đặc trưng của chúng, vận dụng được các quy tắc đó vào trong thực tế giao tiếp. Ví dụ trong một giờ học ngoại ngữ hoặc một giờ dạy tiếng Việt, để giúp học sinh nắm được cách phát âm, quy tắc cấu tạo từ, biến đổi từ, kết hợp từ thành cụm từ, câu thầy giáo không thể không sử dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu. Đầu tiên, thầy giáo phải phát âm mẫu, phân tích mẫu, đọc toàn bộ câu mẫu, hướng dẫn vận dụng câu mẫu trong hoàn cảnh giao tiếp phù hợp… sau đó, học sinh sẽ đọc theo, nhớ nghĩa, biết câu mẫu và dần biết cách vận dụng theo mẫu trong giao tiếp. Phương pháp rèn luyện theo mẫu được xem là một phương pháp có khả năng áp dụng rất rộng, được ứng dụng trong dạy học ở tất cả các hợp phần của Tiếng Việt, trong dạy học Đọc hiểu và Làm văn. Học sinh có thể dựa theo các mẫu của sách giáo khoa, của giáo viên để rèn luyện về chữ viết, luyện về phát âm, luyện đọc, giải nghĩa từ, đặt câu, viết đoạn văn, tạo lập văn bản. 1.1.5. Rèn luyện theo mẫu và vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt ở nhà trường THCS hiện nay Trong xu thế hội nhập và phát triển đòi hỏi con người phải luôn năng động, sáng tạo. Nhằm đáp ứng yêu cầu này, ngành giáo dục và đào tạo đã thực hiện đổi mới giáo dục nói chung, trong đó yêu cầu giáo viên đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học được các cấp quản lý giáo dục quan tâm nhiều, coi đó như một nỗ lực của ngành. Vì vậy, điều 28.2 của Luật giáo dục đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. 16 Từ năm 2000, chúng ta đã cải cách chương trình và sách giáo khoa. Bắt đầu từ tháng 9 năm 2002, chương trình Ngữ văn THCS được áp dụng đại trà. Việc biên soạn sách được xây dựng theo quan điểm “tích hợp” và “tích cực”. Ba môn Văn học - Tiếng Việt - Làm văn, trước đây được biên soạn độc lập, nay được tích hợp lại trong một môn có tên gọi mới là Ngữ văn Khi SGK Văn học, Tiếng Việt, Làm văn được tích hợp trong một quyển sách Ngữ văn thì phương pháp dạy học môn Tiếng Việt cũng cần được đổi mới. Việc vận dụng quan điểm “tích hợp” và “tích cực” trong dạy học tiếng Việt đặt ra yêu cầu cần phải có những đổi mới về phương pháp dạy học. Việc lựa chọn phương pháp dạy học để phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, giúp học sinh hoàn chỉnh khả năng sử dụng tiếng Việt là một thách thức đối với giáo viên. Khi nghiên cứu việc vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu trong dạy tiếng Việt, một số câu hỏi tất yếu phải được đặt ra: phương pháp này có còn hiệu lực trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học tiếng Việt hiện nay? Hay nó góp phần làm triệt tiêu sự năng động, sáng tạo của học sinh? Trong các phương pháp giảng dạy học tiếng Việt, phương pháp rèn luyện theo mẫu là một phương pháp mang tính truyền thống, đã được giáo viên sử dụng khá phổ biến. Ngày nay bên cạnh các phương pháp mang tính đặc thù được nhiều giáo viên áp dụng phù hợp với xu thế đổi mới như: phương pháp giao tiếp, phương pháp trực quan, phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp thảo luận nhóm… phương pháp rèn luyện theo mẫu vẫn được duy trì và đạt hiệu quả, nhất là đối với những loại bài phù hợp. Chúng ta biết rằng, việc lĩnh hội lời nói của người khác, tạo ra lời nói đạt chuẩn ngôn ngữ, đó vừa là phương tiện đồng thời lại vừa là mục đích của bộ môn Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu, để tránh sự mô phỏng máy móc, cần cho học sinh 17 mô phỏng với yêu cầu bổ sung, đòi hỏi có sự thay đổi sáng tạo, khơi gợi óc tưởng tượng ở học sinh. Đó chính là tinh thần đổi mới khi áp dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu trong dạy học tiếng Việt. Việc đổi mới chương trình - sách giáo khoa đi kèm với đổi mới phương pháp dạy học đã làm cho vai trò của người dạy và người học đã có sự chuyển biến hơn trước. Từ chỗ là người truyền thụ kiến thức, GV trở thành người hướng dẫn HS chiếm lĩnh tri thức. Với học sinh, trong giờ học, thay vì thụ động tiếp nhận bài giảng một chiều của thầy, HS trở thành chủ thể của quá trình tìm hiểu và chiếm lĩnh tri thức. Quá trình tiếp thu tri thức của HS đồng hành với quá trình sáng tạo. Với phương pháp rèn luyện theo mẫu, giáo viên phải đặc biệt chú ý điều này. Trong dạy học tiếng Việt, để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, chúng ta cần linh động phối hợp PP rèn luyện theo mẫu với các PP thường được dùng như PP phân tích ngôn ngữ, PP thực hành… và PP gần đây mới được giới thiệu hoặc nói đến nhiều như PP nêu vấn đề, PP thảo luận nhóm, PP sử dụng trò chơi. Việc giáo viên lựa chọn và giới thiệu mẫu lời nói có ảnh hưởng tương đối lớn đến quá trình hình thành tri thức mới cho học sinh. Do đó, tùy theo tính chất của tri thức mà giáo viên có thể lựa chọn con đường tạo mẫu cho phù hợp. Với những tri thức không quá trừu tượng, khó tiếp thu đối với học sinh, giáo viên có thể động viên, định hướng cho học sinh tự huy động vốn từ ngữ của mình để tìm ra mẫu. Giáo viên có thể tổ chức cho từng nhóm học sinh cùng thảo luận và trình bày mẫu hoặc có thể đặt ra các tình huống giao tiếp để học sinh tự chọn được những mẫu lời nói nào là phù hợp nhất trong ngữ cảnh bởi mỗi mẫu lời nói chỉ phù hợp với một ngữ cảnh nhất định. Cách làm này đã phát huy được năng lực từ ngữ vốn có của học sinh và cũng đã phát huy được tính tích cực chủ động của các em trong học tập, để các em cảm thấy phấn khởi tự tin khi mình đã khám phá ra vấn đề, nhất là biết cách vận dụng, lựa chọn mẫu phù hợp trong hoàn cảnh giao tiếp. 18 Đối với PP rèn luyện theo mẫu, việc đánh giá mức độ đổi mới PP dạy học là vấn đề không dễ bởi so với các PP đặc thù khác trong dạy học tiếng Việt vì đây là một PP truyền thống mà bất cứ giờ học tiếng Việt nào đều có thể sử dụng (các ví dụ, các mẫu ngôn ngữ). Bước đột phá, tính hiện đại của PP còn khó thể hiện rõ, nhưng nếu giáo viên biết cách phối hợp linh hoạt với các phương pháp khác thì PP này vẫn phù hợp với xu thế đổi mới trong PP dạy học tiếng hiện nay. 1.2. Cơ sở thực tiễn của phương pháp rèn luyện theo mẫu 1.2.1. Yêu cầu hình thành tri thức từ chương trình phân môn Tiếng Việt THCS Phân môn tiếng Việt ở trường phổ thông có một vị trí khá quan trọng. Nó vừa là phân môn của Ngữ văn lại vừa là công cụ hỗ trợ cho khả năng diễn đạt và tư duy tất cả các môn khác. Do đó, trong dạy học tiếng Việt, yêu cầu hình thành tri thức được xem là bước cơ bản khởi đầu cho việc đạt được ba mức độ: dạy tri thức, dạy kỹ năng, dạy tư duy. Phân môn Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những tri thức ngôn ngữ học, hệ thống tiếng Việt, quy tắc hoạt động và những sản phẩm của nó trong hoạt động giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã được làm quen, hình thành những tri thức sơ giản, cần thiết về tiếng Việt, bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Lên bậc trung học cơ sở, học sinh tiếp tục được cung cấp những tri thức tiếng Việt mang tính hệ thống hơn. Hầu như những vấn đề cốt lõi về lý thuyết cũng như thực hành luyện tập tiếng Việt đều được đề cập khá đầy đủ. Về mức độ tri thức, chương trình Tiếng Việt bậc trung học cơ sở dành thời lượng khá lớn cho việc nâng cao và hoàn chỉnh dần những kiến thức mà học sinh đã được học ở bậc Tiểu học. Nội dung tiếng Việt ở bậc Trung học cơ sở có phần đổi mới và nâng cao hơn so với nội dung ở Tiểu học, chia làm 3 học phần: Từ ngữ, ngữ pháp 19 và phong cách. Phần từ ngữ nhằm cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về hệ thống từ vựng Tiếng Việt như: cấu tạo từ, nghĩa của từ, các lớp từ xét về mặt ngữ nghĩa (đồng nghĩa, trái nghĩa, nhiều nghĩa), các biện pháp tu từ từ vựng và các lớp từ xét về mặt nguồn gốc (từ thuần Việt, từ vay mượn). Phần ngữ pháp nhằm trang bị cho học các quy tắc cấu tạo và sử dụng các đơn vị ngữ pháp (quy tắc cấu tạo các thành phần câu, cấu tạo câu, lựa chọn các biến thể, liên kết các câu trong văn bản, các kiểu câu để tiến hành giao tiếp, cách tổ chức các loại hình văn bản). Các em cũng bước đầu được làm quen với ngữ pháp văn bản để nắm được cách tổ chức các loại hình văn bản. Phần phong cách học tuy chưa đề cập nhiều nhưng bước đầu cũng đã cho học sinh làm quen với các dạng văn bản như báo cáo, thông báo, đơn từ, điện tín. Nhìn chung, chương trình Tiếng Việt trong sách giáo khoa bậc trung học cơ sở dành thời lượng khá lớn cho việc nâng cao và hoàn chỉnh dần những kiến thức mà học sinh đã được học ở bậc Tiểu học. Yêu cầu hình thành tri thức trong các bài học tiếng Việt ở trung học cơ sở cũng đã được các nhà biên soạn chú trọng theo hướng thực hành, có sự tích hợp với phần Làm văn và Đọc văn trong chương trình. Giáo dục hiện đại xác định, dạy học hiện nay có ba mức độ: dạy tri thức, dạy kỹ năng, dạy tư duy. Trong ba mức độ ấy, dạy tri thức được xem là bước khởi đầu. Và từ tri thức chúng ta sẽ hướng tới kỹ năng và tư duy. Mỗi môn học, tùy vào đặc trưng của mình, hướng tới rèn luyện những kỹ năng và tư duy khác nhau cho học sinh. Với phân môn tiếng Việt ở bậc THCS, từ yêu cầu hình thành tri thức chúng ta hướng đến hai mức độ tiếp thêm là rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh (các em có thể đọc thông, viết thạo, đúng chính tả, đúng ngữ pháp) và rèn luyện, phát triển tư duy cho học sinh. Môn Tiếng Việt có nhiều lợi thế trong việc rèn luyện và phát triển tư duy cho học sinh. Dạy học Tiếng Việt phải bảo đảm mối liên hệ giữa lời nói và tư duy;