Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì

Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì

Nhân dân Ba Lan nồng nhiệt đón chào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tháng 7/1957. (Ảnh tư liệu)


NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế chứa đựng nhiều nội dung phong phú, rộng lớn; được thể hiện một cách rõ ràng, nhất quán, kiên định qua nhận thức, quan điểm và hành động của Người. Đáng chú ý một số điểm như sau:

Thứ nhất, đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan, một vấn đề có tính nguyên tắc, là chiến lược xuyên suốt, nhất quán và có vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam.

Tiếp bước con đường đi ra thế giới của các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh; rút kinh nghiệm từ thất bại của những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược đầu thế kỷ XX; nhờ những trải nghiệm trong thời gian sinh sống, lao động ở nước ngoài; qua hoạt động với tư cách đảng viên Đảng Xã hội Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, và nhất là nhận được nguồn cổ vũ lớn từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh là người đầu tiên và duy nhất xác định rõ ràng nền tảng, nhân tố quan trọng cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là đoàn kết, hội nhập với thế giới.

Trong quan điểm của Người, thân phận bất hạnh của đa số “người bị bóc lột”, người lao động nghèo ở các nước là cơ sở chính hình thành nên “tình hữu ái”, sự đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới; đoàn kết quốc tế là yếu tố quan trọng làm nên sức mạnh của cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và cách mạng ở Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan điểm rõ ràng về mục tiêu của đoàn kết quốc tế. Đó là, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước và kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp, vì quốc gia, dân tộc và vì nền hòa bình của khu vực và trên thế giới. Với Hồ Chí Minh, “sức mạnh, sự vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là ở sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới… Sự đoàn kết quốc tế có một ý nghĩa to lớn với chúng tôi”(1).

Thứ ba, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế, để thực sự tạo nên sức mạnh, phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản: 1) không phân biệt, bình đẳng, cùng có lợi; 2) tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; 3) phải phát huy tinh thần “tự lực cánh sinh”, dựa vào sức của mình là chính; 4) có lý, có tình. Trong Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Chính phủ các nước trên thế giới ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”(2). Người khẳng định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và chung sống hòa bình”(3). Đây là thông điệp về hòa bình, hợp tác, hữu nghị, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhau của nhân dân Việt Nam với thế giới. Đây cũng là tư duy, tầm nhìn vượt thời đại của Hồ Chí Minh.

Thứ tư, đoàn kết quốc tế, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề tập hợp lực lượng là rất quan trọng. Lực lượng đoàn kết quốc tế, theo tư tưởng của Người, rất phong phú song tập trung chủ yếu vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ thế giới. Hồ Chủ tịch đã thành công khi gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Đồng thời, trong việc mở rộng lực lượng đoàn kết quốc tế, Người còn xác định rõ vai trò quan trọng của các quốc gia láng giềng, các nước lớn.

Có thể khẳng định, tư tưởng về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những định hướng, nền tảng, cơ sở lý luận quan trọng cho việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam, là ánh sáng soi đường của đối ngoại Việt Nam.

VIỆT NAM THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Những thành công của đối ngoại Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm Đổi mới, là thực tiễn chứng minh rõ ràng và đầy đủ nhất về tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ của con người vĩ đại Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, hợp tác quốc tế luôn là nguyên tắc, chiến lược, có vai trò, vị trí, ý nghĩa quan trọng trong quan điểm, chính sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã và đang triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Sau chiến thắng năm 1975, sau gần 10 năm rơi vào tình thế khó khăn trên trường quốc tế, tới năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra một giai đoạn phát triển mới, một thời kỳ “Đổi mới” toàn diện, tạo nên thế và lực mới cho dân tộc.

Từ quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế… đến nay, Việt Nam đã xác lập mối quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với gần 30 quốc gia, trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, là đối tác toàn diện với tất cả các nước trong cộng đồng ASEAN; lần đầu tiên được bầu vào Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL); lần thứ hai được bầu, trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và tới 2020, là Chủ tịch luân phiên của ASEAN. Là thành viên của WTO, của nhiều thể chế đa phương, đến nay, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do FTA với 59 đối tác trên toàn thế giới.

Việt Nam ngày càng chủ động, sáng tạo hơn trong triển khai hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế, góp phần phục vụ tốt lợi ích quốc gia, dân tộc. Tính đến nay, Việt Nam được 71 nước công nhận là quốc gia có nền kinh tế thị trường và hiện trong top đầu của ASEAN về mức độ hội nhập và độ mở của nền kinh tế. Mối quan hệ với các đối tác kinh tế khiến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tương đương 200% GDP.

Cùng với kinh tế, hợp tác, hội nhập quốc tế đã góp phần không nhỏ trong ổn định chính trị, an ninh trong nước, góp phần đan xen lợi ích với các đối tác, qua đó, tạo cục diện thuận lợi để Việt Nam giữ nước từ xa. Tính đến nay, sau 5 năm bắt đầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, Việt Nam đã cử 90 sĩ quan tham gia sứ mệnh quốc tế cao cả này. Có thể xem đây là sự thể hiện mức độ tham gia ngày càng sâu hơn, đóng góp ngày càng tích cực hơn của Việt Nam với tư cách là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Thứ hai, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, hoạt động đối ngoại của Việt Nam tập trung vào các đối tác ưu tiên, chủ chốt, các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực và các đối tác quan trọng khác.

Quan hệ giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và các nước ASEAN tiếp tục có những bước tiến mới, quan trọng. Những nỗ lực lớn của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế ngày càng nhiều. Kết quả năm 2018, Việt Nam xuất khẩu đạt 243,5 tỷ USD và xuất siêu 6,8 tỷ USD một phần quan trọng nhờ quan hệ tốt với các đối tác lớn.

Thứ ba, đoàn kết, hợp tác quốc tế, với Hồ Chí Minh, gắn với nguyên tắc bất di bất dịch và mục tiêu quan trọng là góp phần đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; hợp tác tìm giải pháp ổn định, lâu dài, cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế và tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau. Đây là một đóng góp lớn của đối ngoại Việt Nam thời gian qua.

Nguy cơ lớn nhất đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam hiện nay, là vấn đề Biển Đông. Tình hình Biển Đông trong vòng hơn 10 năm qua diễn biến ngày càng phức tạp, không chỉ là vấn đề tranh chấp chủ quyền, mà còn là tâm điểm cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, Việt Nam đã, đang và luôn sẵn sàng giải quyết những tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đồng thời coi trọng việc giữ gìn mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Nhờ lập trường chính nghĩa, nhờ những bằng chứng pháp lý và căn cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của cộng đồng quốc tế./.

TS. Đỗ Phương Thảo, Vụ Thông tin đối ngoại và Hợp tác quốc tế Ban Tuyên giáo Trung ương

___________________________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.15, tr.675.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr. 311.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 12.





Nguồn: tuyengiao.vn

Người đã vượt qua tầm nhìn hạn hẹp của các nhà yêu nước tiền bối để hướng ra bên ngoài, gắn kết giữa sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc với công cuộc cách mạng của toàn thể các dân tộc đang bị áp bức.

Đồng cảm với nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ

Ra đi từ bến Nhà Rồng tháng 6-1911, 10 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành đã tới nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản chủ nghĩa, ở cả châu Âu, châu Phi, châu Mỹ. Qua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu nước ở Người có những biến chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã được nâng lên thành sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng cảnh ngộ bị áp bức như dân tộc mình. Người đã đưa ra kết luận quan trọng: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tìnhhữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản"(1). Kết luận trên vô cùng quan trọng, là khởi đầu của tư tưởng đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới.

Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc cũng rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập... họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”(2). Vì vậy, Người chỉ ra sự cần thiết của việc xây dựng khối đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc bị đọa đày, đau khổ. Người kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa Pháp rằng: "Chúng tôi yêu cầu các bạn giúp đỡ chúng tôi trong nhiệm vụ đó, vì các bạn và chúng tôi, chúng ta cùng chung một lợi ích… Mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn sẽ là những mối quan hệ đoàn kết và liên minh"(3).

Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì

Thẻ căn cước của Nguyễn Ái Quốc ở Paris (Pháp) năm 1919. Ảnh: Tư liệu/TTXVN


Sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa

Là người dân từ một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thấy được khả năng tiềm tàng của sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi của cuộc đấu tranh của họ. Vì vậy, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, một mặt Người nhấn mạnh tư tưởng phải "lấy sức ta mà giải phóng cho ta", mặt khác Người kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết, giúp đỡ và phối hợp nhịp nhàng cuộc đấu tranh của vô sản ở chính quốc với vô sản ở thuộc địa, như hai cái cánh của một con chim. Trong lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, Người luôn luôn nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính quốc. Người viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi"(4).

Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và nhân dân lao động thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân ở chính quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự giúp đỡ thiết thực đối với những người anh em thuộc địa. Trên tinh thần đó, Người đã nghiêm khắc phê phán một số Đảng Cộng sản chưa có chính sách và hành động tích cực giúp đỡ các thuộc địa. Trong thời gian ở nước ngoài, Người đã tham gia tích cực phong trào cách mạng của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước xây dựng nhiều tổ chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông (1925)... là nhà cách mạng hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế III, các Quốc tế Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ... thường xuyên mở rộng với nhiều chính khách, các nhà hoạt động xã hội... Tất cả hoạt động nói trên của Người đều hướng vào mục tiêu tăng cường thêm bạn bè, đồng chí cho cách mạng Việt Nam.

Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Truyền thống đoàn kết quốc tế là gì
Ngày 5-6-1911, từ Bến Nhà Rồng (ảnh), Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc, bắt đầu cuộc hành trình tìm con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước. (Nguồn: Tư liệu/TTXVN)

Qua những phân tích trên ta có thể thấy, một trong những đóng góp quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là quan điểm về đoàn kết quốc tế, mà trước hết là sự cần thiết phải liên minh các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chung vì sự nghiệp giải phóng của chính dân tộc mình. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế. Kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, trong suốt 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng, giữ gìn và phát triển tình đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác; với nhân dân và các dân tộc Á, Phi, Mỹ La-tinh… Người chủ trương tăng cường đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, “giúp bạn là tự giúp mình”; coi trọng thắt chặt tình đoàn kết, giúp đỡ của nhân dân thế giới và các tổ chức quốc tế đối với Việt Nam; gắn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thế kỷ XXI với những thời cơ và thách thức đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc và quá trình hội nhập với thế giới.

Hơn lúc nào hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

VŨ THỊ KIM YẾN (Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch)

-------------

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.287

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.284

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.484-485

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.130