Top 10 bản độc tấu trống hay nhất năm 2022

Hẹn giờ tắt

...

00:00 00:00

00:00 00:00

Total: {{arr_data.length}}

Chọn folder để thêm '{{firstItemToAdd.name}}'

Cảm thụ âm nhạc theo cảm xúc qua những bình luận hay và ý nghĩa!

Trong tất cả các thể loại nhạc, nhạc Cổ điển là một trong những loại hình nghệ thuật khá kén người nghe. Nhưng một khi bạn đã yêu mến nó bạn sẽ bị ghiền, bởi những giai điệu độc và lạ mà nó mang lại.

Top 10 bản độc tấu trống hay nhất năm 2022

Nhạc Cổ điển là dòng nhạc có nguồn gốc từ phương Tây, nó bao gồm cả nhạc Tôn giáo và nhạc Thế tục.

Trên Thế giới có rất nhiều nhà soạn nhạc thiên tài đến từ nước Đức, Áo, Nga… đã cho ra đời nhiều bản nhạc Cổ điển bất hủ. Có thể nói rằng đó là khối tài sản đồ sộ về âm nhạc cổ điển mà họ để lại cho đời. Trong đó tiêu biểu như Top 20 bản nhạc Cổ điển phổ biến nhất, đó là:

1. Rondo a La Turka (từ Sonata cho Piano trong A Major; K. 331)

Rondo a La Turka (từ Sonata cho Piano trong A Major; K. 331) là một trong số những tác phẩm nổi tiếng của thiên tài Mozart. Tác phẩm này được trích đoạn trong bản Piano Sonata A Major – bản thứ 11. Nó bao gồm 3 chương, cụ thể:

- Chương 1: Andante grazioso - Một chủ để với sáu biến tấu. Đây là chương được mở đầu một cách chậm rãi rồi kết thúc với những tiết tấu nhanh, có thời lượng hơn 14 phút.

- Chương 2: Menuetto-minuet và trio. Đây là chương vẫn mở đầu chậm rãi, nhưng có phần vô tư hơn, thời lượng khoảng 5 đến 6 phút.

- Chương 3: Rondo Alla Turca-Allegretto. Chương này chỉ kéo có hơn 3 phút, nhưng nó khiến người ta không thể nào quên với những tiết tấu vui tươi mang phong cách Thổ Nhĩ Kỳ.

2. The Blue Danube

The Blue Danube - Johann Strauss II là bản nhạc cực kì nổi tiếng của ông vua nhạc waltz Johann Strauss II. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1866. Nó là một trong những bản waltz hay nhất và là khuôn mẫu tiêu biểu cho kiểu waltz của triều đại waltz nhà Strauss.

Tác phẩm ra đời trong một hoàn cảnh vô cũng đặc biệt, đó là sau khi Johann Strauss II nhìn thấy sự cao thượng và đức hi sinh của hai người phụ nữ mà ông yêu. Một người là vợ, còn một người là nhân tình. Mặc dù cả hai người phụ nữ gặp nhau nhưng không hề có một cuộc đánh ghen nào, ngược lại họ đối xử với nhau bằng những hành động cao đẹp.

Trong cảm xúc ấy The Blue Danube - Johann Strauss II xuất hiện giữa dòng ngất ngây của tình yêu.Tác phẩm The Blue Danube đã trở thành nhạc nền cho một số bộ phim hoạt hình của hãng Warner Bros như A Corny Concerto với chú thỏ láu thông minh, tinh quái và Đa-nuýp xanh…

3. Symphony 5

Tác phẩm Symphony 5 của Ludwig van Beethoven đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe. Có thể nói rằng nó là một trong những bản giao hưởng âm nhạc cổ điển nổi tiếng nhất và phổ biến nhất. Đặc biệt nó thường được trình diễn tại các buổi hòa tấu.

Symphony 5 – có mấy ô nhịp mở đầu bản giao hưởng có cùng nhịp điệu với mật mã Morse cho số 5 hoặc chữ “V”. Khúc dạo đầu này đã được sử dụng trong Thế chiến thứ II để gửi các tin nhắn bằng mã Morse.

4. Spring from The Four Seasons

Spring from The Four Seasons là tác phẩm nổi tiếng nhất của Vivaldi. Tác phẩm là một bộ bốn concerto cho violin của Antonio Vivaldi sáng tác năm 1725. Kết cấu của mỗi khúc nhạc đại diện cho một mùa trong năm.

5. O Fortuna

O Fortuna là một trong số những bản nhạc nổi tiếng của Carl Orff. Bản O Fortuna được ông soạn từ Oratorio Carmina Burana do chính ông sáng tác hồi năm 1937. Tác phẩm  đã trở thành bản nhạc cổ điển được nghe nhiều nhất tại Anh.

Carl Orff thành công nhất với bản nhạc O Fortuna nhờ vận dụng kỹ thuật hòa âm phối khí một cách đầy kịch tính. Tác phẩm này dựa trên tập thơ thế kỷ XIII

Carmina Burana. Đây là một trong những tác phẩm âm nhạc cổ điển được trình tấu nhiều nhất trên thế giới.

6. Here Comes the Bride 

Here Comes the Bride - Một bản nhạc đã trở nên quen thuộc với hàng triệu người nghe trên khắp thế giới do Richard Wagner sáng tác. Nó là một trong những bản nhạc không thể thiếu trong các đám cưới tại nhà thờ. Bản nhạc này ban đầu được nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner viết cho vở opera “Lohengrin” năm 1850. Với giai điệu vui vẻ, nhẹ nhàng của Here Comes The Bride  mang đến cho người nghe sự thích thú.

7. Hallelujah Chorus

Hallelujah Chorus là một trong số những bản nhạc đã tạo nên tên tuổi của George F. Handel (1685-1759). Ông viết toàn bộ bản nhạc này trong vòng 24 ngày. Hallelujah (Hallelujah Chorus) là một thánh ca được trích trong Trường Ca Messiah. Messiah đã đi vào lịch sử âm nhạc cổ điển như một trong những sáng tác vĩ đại nhất – Một trường ca sáng chói về Chúa Cứu Thế. Messiah cũng là vở được biểu diễn thường xuyên ở khắp nơi trên thế giới đặc biệt vào dịp lễ Giáng Sinh.

Hallelujah Chorus là tiểu khúc thứ 44, thuộc màn II, cảnh 7 trong Trường Ca Messiah.  Bài thánh ca này được xem là ca khúc tiêu biểu của Trường Ca Messiah.  Bài thánh ca phổ biến và nổi tiếng đến nỗi không ít người hiểu lầm Hallelujah Chorus chính là Trường Ca Messiah.

8. Danses Des pettis Cycnes

Danses Des pettis Cycnes là một trong những bản nhạc nổi tiếng của Tschaikowsky. Nó hội tụ đầy đủ những yeus tố để trở thành một tác phẩm kinh điển của thời đại.

Danses Des pettis Cycnes ra đời từ một câu chuyện cổ tích kể về nàng công chúa Odette bị một tên phù thủy biến thành con thiên nga trắng. Ban ngày nàng là thiên nga, ban đêm nàng trở lại là người. Lời nguyền của tên phù thủy chỉ có thể được giải bằng tình yêu chân thành của một chàng trai giành cho Odette.

9. Ride of the Valkyries

Ride of the Valkyries là một phần của kiệt tác “The Ring Cycle” do Richard Wagner (1813 – 1883) sáng tác. Nó ra đời dựa trên câu chuyện về con gái của vị thần Odin (thần thoại Bắc Âu). Vở opera này mất 26 năm để hoàn thành và chỉ là phần thứ 2 trong chùm kiệt tác opera gồm 4 phần.

10. Turkish March

Turkish March là chương cuối của bán Sonata số 11 do Mozart sáng tác. Chương này lúc đầu được Mozart gọi tên là Rondo Alla Turca sau đó mọi người còn gọi nó là Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ hay Turkish March.

Nó thường được tách ra khỏi bản sonata để biểu diễn độc lập. Chương nhạc ngắn nhất của bản sonata này đã trở thành một trong số những khúc nhạc nổi tiếng nhất của Mozart. Hơn nữa, Turkish March còn là điển hình cho một trào lưu ảnh hưởng phong cách thời Mozart - phong cách Thổ Nhĩ Kỳ.

11. Toccata in D minor

Toccata and Fugue in D minor, BWV 565 là tác phẩm lừng danh của J.S.Bach (1685-1750). Bach soạn cho đàn Oocgan, vào khoảng năm 1730 đến 1750. Nó bắt nguồn từ một nỗi đau mạnh mẽ như bão tố của ông - người được hậu thế coi là một thiên tài âm nhạc lớn lao nhất trong thời đại Baroque.

Về độ dài của tác phẩm cũng chia làm nhiều phiên bản (7 phút, 8 phút, 9 phút, 10 phút), do bản gốc J.S.Bach sáng tác bị thất lạc. Người ta dựa vào bản sao do học trò của ông chép lại. Chính vì thế thời điểm tác phẩm được sáng tác cũng không chính xác. Đây có lẽ là một trong những tác phẩm âm nhạc nổi tiếng nhất của mà Johann Sebastian Bach đã từng biên soạn.

12. Fur Elise

Fur Elise (thư gửi Elise) là một trong những bản nhạc dành cho piano nổi tiếng nhất của Ludwig van Beethoven. Bagatelle số 25 thuộc La thứ (WoO 59 và Bia 515) cho đàn piano, thường được biết dưới tên gọi Fur Elise, là một trong những bản nhạc dành cho piano nổi tiếng nhất của Ludwig van Beethoven

Thư gửi Elise như cảm xúc muôn đời của tình yêu, dạt dào tình cảm. Bản nhạc không phức tạp về mặt kỹ thuật, thậm chí có thể chơi bằng một tay trên phím dương cầm. Thư gửi Elise chứa đựng sự chiêm nghiệm của người đàn ông đã trải qua bao thăng trầm, cay đắng nhưng vẫn còn nguyên vẹn một tình yêu mãnh liệt và trong sáng trước một cô gái.

13.  Piano Sonata số 15, trong C K.545

Piano Sonata số 15, trong C K.545 là một trong những bản Sonata nổi tiếng nhất dành cho piano. Sự đơn giản rõ ràng của Sonata này như một lời nhắc nhở nhiều tác phẩm của Mozart có thể lấp lánh với những giai điệu đáng nhớ. Sonata có ba phần Allegro; Andante và Rondo: Allegretto. Andante ở G Major và tìm thấy Mozart ở giai điệu hay nhất.

14. Ode to Joy của Ludwig Van Beethoven

Ode to Joy - Một kiệt tác khác của Ludwig Van Beethoven và là phần nổi tiếng nhất của tác phẩm Symphony 9. Trong bản giao hưởng số 9, lần đầu tiên Beethoven thử nghiệm sử dụng giọng hát con người nên nó còn được gọi là một bản giao hưởng hợp xướng. Những lời ca này được lấy từ “Ode to Joy” (Tạm dịch: Khải hoàn ca), một bài thơ được viết bởi Friedrich Schiller vào năm 1785 và được sửa lại vào năm 1803, với đoạn bổ sung của Beethoven. Trong những năm 2010, bản giao hưởng số 9 là một trong những bản giao hưởng được trình diễn nhiều nhất trên thế giới.

15. William Tell Overture

William Tell Overture do Gioachino Rossini (1792 – 1868) sáng tác. Tác phẩm có thời lượng dài 12 phút này như là phần cuối trong bản overture nhạc kịch gồm 4 phần. Những phần khác cũng được biết đến nhiều, nhưng riêng tác phẩm này trở nên nổi tiếng khi nó được sử dụng trong bộ phim hoạt hình “Looney Tunes” của hãng Warner Brother.

 16. Canon in D Major

Canon in D major – bản luân khúc cung Rê trưởng của nhà soạn nhạc người Đức Johann Pachelbel (1653 – 1706. Tác phẩm được sáng tác ở thế kỷ 17, nhưng mãi tới thế kỷ 20 người ta mới tìm lại được viên ngọc quý này và vĩnh viễn nó đã trở thành bản nhạc bất hủ say mê… Johann Pachelbel làm cả thế giới thán phục với các tác phẩm soạn nhạc đầy kỹ thuật và tinh tế.

17. Fantasia in D minor K.397

Fantasia in D minor K.397 do Mozart sáng tác vào năm 1782. Tác phẩm này được xem là một trong những tác phẩm phổ biến nhất của nhà soạn nhạc. Đúng như tên gọi cho thấy một tác phẩm giả tưởng; có nghĩa là hình thức âm nhạc của nó chứa đầy những khúc quanh và khúc ngoặt; điều thường không thấy trong các tác phẩm Cổ điển.

18. Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 467

Bản hòa tấu piano số 21 tại C Major K. 46 cho thấy sự đổi mới và tài năng của Mozart. Tác giả đã khai thác triệt để cuộc đối thoại và phát triển chất liệu âm nhạc giữa nghệ sĩ độc tấu và dàn nhạc, với một số phần biểu cảm tuyệt vời cho phần wind. Andante ( phần movement thứ 2), tràn ngập sự đối lập được đặt cẩn thận làm tăng thêm sự kích tính của đoạn. Nó đầy ma thuật và bí ẩn, khác xa với tình cảm mà nó được liên kết.

19. Eine Kleine Nachtmusik 

Eine kleine Nachtmusik (Tiểu dạ khúc), K. 525, là một trong những tác phẩm phổ biến nhất của Wolfgang Amadeus Mozart. Tác phẩm có thời lượng 15 phút và là một trong những serenade tiêu biểu nhất của Mozart

20. Ah vous dirai-je, Maman, K. 265/300e 12 Variations

Ah vous dirai-je, Maman, K. 265/300e 12 Variations được cố nhạc sĩ Amadeus Wolfgang Mozart viết vào năm 25 tuổi, dựa trên một bài dân ca Pháp lưu truyền lúc bấy giờ. Bản nhạc cũng được xem là một khúc ca khúc thể hiện óc sáng tạo của Mozart. Nó cho thấy sự vui tươi trong âm nhạc của nhạc sĩ tài ba này. Ông đã dựa trên giai điệu chủ đề để viết ra 12 biến tấu với âm sắc, giai điệu khác hẳn nhau.

Bài viết được quan tâm:

  • Loa line array
  • Loa âm trần
  • Loa treo tường
  • Loa cột
  • Loa sân khấu

Voice Over: Phoebe de Jeu Những bản nhạc solos này! Đối với danh sách này, chúng tôi sẽ xếp hạng các bản solo trống đáng nhớ nhất mọi thời đại, nhưng không bao gồm các phiên bản trực tiếp mở rộng hoặc điền vào ngắn nhưng đáng nhớ. Đếm ngược của chúng tôi bao gồm Buddy Rich, The Beatles, Led Zeppelin, và nhiều hơn nữa!
These solos rock! For this list, we'll be ranking the most memorable drum solos of all time, but excluding extended live versions or short but memorable fills. Our countdown includes Buddy Rich, The Beatles, Led Zeppelin, and more!

Top 10 trống solo

Chào mừng bạn đến với Watchmojo, và hôm nay chúng tôi đang đếm ngược các lựa chọn của chúng tôi cho 10 bản solo trống hàng đầu.

Đối với danh sách này, chúng tôi sẽ xếp hạng các bản solo trống đáng nhớ nhất mọi thời đại, nhưng không bao gồm các phiên bản trực tiếp mở rộng hoặc điền vào ngắn nhưng đáng nhớ. Các trình tự trống và solo này không nhất thiết phải không có người đi kèm, nhưng họ nên lái xe về nhà kỹ năng và kỹ thuật của người biểu diễn theo cách rõ ràng để thu hút sự chú ý của người nghe.

Những gì mà bạn yêu thích trống solo? Hãy cho chúng tôi trong các ý kiến ​​dưới đây.

#10: "In-a-gadda-da-Vida" (1968)

Bướm sắt

Đó là một trong những bài hát huyền thoại nhất của Psychedelic Rock, và cũng là một trong những bài hát dài nhất. "In-a-gadda-da-vida" bởi Iron Butterfly của chính San Diego là một khoảng 17 phút dài đáng kinh ngạc và 5 giây. Độ dài hoành tráng của bản nhạc là nhờ một số phần solo cho mỗi thành viên của ban nhạc, với guitar, bass và trống mỗi người có được sự chú ý của họ. Đối với phần của tay trống Ron Bushy, người chơi bộ gõ tỏa sáng trên cả một phần trống solo, cũng như một solo kép với người chơi organ và ca sĩ Doug Ingle. Heck, ngay cả tay bass Lee Dorman cũng tham gia vào hành động, độc tấu cùng với Bushy trong hành động cuối cùng của "In-A-Gadda-Da-Vida" và Dirge Proto-Metal mơ hồ của nó.

#9: "Medley Story Story" (1966)

Người bạn giàu có

Bernard "Buddy" Rich là những gì bạn có thể gọi là "một tay trống của tay trống". Người bản địa ở New York từ lâu đã được ca ngợi là một trong những tay trống giỏi nhất từng chọn một cặp gậy, ảnh hưởng đến vô số nhạc sĩ sau thành công của ban nhạc lớn. Trường hợp tại điểm? Công việc đáng kinh ngạc của Rich ghi lại âm nhạc của "West Side Story", đặc biệt là một loạt các lựa chọn tạo nên "Medley Story Story". Những cú đánh bóng điên rồ của Buddy Rich và kỹ thuật nhạc jazz hoàn hảo được thể hiện đầy đủ ở đây, khi anh dẫn dắt ban nhạc đung đưa của mình theo một số hướng âm nhạc ấn tượng và sáng tạo. Nói một cách đơn giản: Đó là một bản nhạc đáng kinh ngạc, và một điều xứng đáng được điều tra nghiêm túc từ bất kỳ ai quan tâm từ xa đến nghệ thuật bộ gõ.

#8: "Bốn mươi sáu & 2" (1996)

Dụng cụ

Họ nói rằng nó không phải lúc nào cũng về đích; Đó là về cuộc hành trình. Dòng suy nghĩ này cũng có thể áp dụng cho cách tiếp cận âm nhạc của Daniel Carey, vì tay trống công cụ đã tạo nên sự nghiệp từ việc hoàn thiện nghệ thuật kiềm chế và chính xác. Điều này có thể được nghe tốt nhất trên các bài hát như "Ticks & Leeches" và "Forty Six & 2", cường độ tối, tăm tối, đã đóng một vai trò chính trong việc xác định âm thanh kim loại tiến bộ của công cụ. Carey thủ công xây dựng bộ gõ với phong cách khó khăn của mình, đi cùng với tay guitar Adam Jones và người chơi bass Justin Chancellor để tạo ra các bản giao hưởng buồn tẻ của Bliss nặng về phần sau, được phát hành vào năm 1998 với tên gọi ænima.

#7: "Painkiller" (1990)

Judas Priest

Sự tinh tế? Không, cám ơn. Các huyền thoại kim loại nặng ở Judas Priest thà đánh vào đầu bạn với ca khúc chủ đề chất đống này đến opus năm 1990 của họ, "Painkiller." Tay trống Scott Travis Pummels người nghe với phần giới thiệu bass đôi không có người đi cùng, và không bao giờ nhìn lại, lái bài hát từ ghi chú đầu tiên để kéo dài với sự gây hấn dữ dội. Judas Priest luôn có một vị trí trống cửa quay vòng trong hàng ngũ của họ và "Painkiller" là album đầu tiên của Travis với ban nhạc. Travis vẫn giữ vị trí đó ngày hôm nay với tư cách là tay trống phục vụ lâu nhất của linh mục, nhưng "Painkiller" có thể là màn trình diễn tốt nhất của người đàn ông với ban nhạc, một chuyến lưu diễn, đóng vai trò là điểm nổi bật trong sự nghiệp đáng ghen tị của Judas Priest.

#6: "Lau sạch" (1963)

Surfaris

Điều gì xuất hiện trong tâm trí khi bạn nghĩ về thể loại âm nhạc được gọi là "Surf Rock?" Bãi biển cát? Bikini? Trống đập? Nếu bạn là một fan hâm mộ của Surfaris, thì đó chắc chắn là cái sau. Điều này được chứng minh là đặc biệt đúng khi kiểm tra bản hit lớn nhất của Tập đoàn Surf Rock, "Wipe Out". Phần lớn là một công cụ, ngoài phần giới thiệu ngắn gọn, "xóa sạch" những chiếc rock 'n cuộn với cây đàn guitar ướt đẫm, hồi âm và tiếng trống điên cuồng của Ron Wilson. Wilson đặc biệt có thể tự mình phá sản, xen kẽ, những bản trống tràn đầy năng lượng chống lại sự riff và solo của các nghệ sĩ guitar Jim Fuller và Bob Berryhill. Đó là một con số nhỏ, truyền nhiễm đã vượt qua thể loại để trở thành một trong những bài hát dễ nhận biết nhất thế giới.

#5: "Kết thúc" (1969)

Ban nhạc The Beatles

Không phải mọi tay trống nhất thiết đều thích đứng dưới ánh đèn sân khấu để thực hiện một bản trống hào nhoáng, tự phục vụ. Huyền thoại Beatles Ringo Starr là một nghệ sĩ biểu diễn nổi tiếng, nhưng anh vẫn biểu diễn một người để khởi động "The End", ca khúc cuối cùng về album thứ hai đến cuối cùng của ban nhạc rock. Bỏ qua bản nhạc ẩn giấu của Hoàng thượng Trộn trước khi phát hành album, cho phép Tom làm việc khó khăn của Starr để tỏa sáng trên chiếc Beatles yêu thích của người hâm mộ này.

#4: "Salad chuột" (1970)

Sabbath đen

Bốn thành viên sáng lập của Black Sabbath đều là những nhạc sĩ hoành tráng theo cách riêng của họ. Nhưng tay trống Bill Ward được cho là bay dưới radar là người được đánh giá thấp nhất trong nhóm. Tài năng ấn tượng và có tác động của Ward như một tay trống luôn được ban nhạc sử dụng tốt, nhưng có lẽ không nhận được sự chú ý mà họ xứng đáng. Trường hợp điển hình: "Salad chuột", nhạc cụ đôi khi bị lãng quên nằm ở bên hai bên trong album "Paranoid" của Sabbath năm 1970 ". Vào lúc gần hai phút rưỡi, bản nhạc này vẫn có thể để lại dấu ấn, nhờ sự tương tác nặng nề giữa lạm dụng Kit Octopus-esque của Ward và guitarist Tony Iommi của Blues Mesace. Chúng tôi sẽ có "salad chuột", xin vui lòng!

#3: "Sẽ không bị lừa nữa" (1971)

WHO

Trong thời gian của mình với WHO, Keith Moon đã kết hợp hành vi tự hủy hoại bản thân với các kỹ năng đánh trống nghiêm túc. "Thế hệ của tôi" là một chương trình giới thiệu tuyệt vời về những chiếc áo choàng của anh ấy, nhưng đối với lựa chọn này, chúng tôi phải đi với sử thi "sẽ không bị lừa nữa." Bản nhạc này không chỉ từ album thứ năm của Who, "Who's Next?" Keith bắt đầu tăng tốc chơi của mình vào khoảng sáu phút trước khi đến 'vòng gần trận chung kết của bài hát cho một trận chung kết, Rush về đích. Đó là phép thuật âm nhạc thuần túy.

#2: "YYZ" (1981)

Cây bấc

Đó là một nhạc cụ yêu thích của người hâm mộ cho người hâm mộ Rush kể từ khi bản nhạc được phát hành lần đầu tiên vào năm 1981. "YYZ" là tiêu đề, và nó là một phần của một thẻ gọi âm nhạc cho các thành viên của Rock Rock Rocky - phần lớn cảm ơn một phần của Kỹ năng gõ không thể tin được của một Neil Peart. Mặc dù các bản tái hiện trực tiếp của "Yyz" có thể có tiếng trống trống rõ rệt hơn, không có người đi cùng từ Peart, bản thân ca khúc này là một tour du lịch của nhạc sĩ tài năng từ bất kỳ quan điểm nào của tay trống, không đề cập đến tác phẩm đặc biệt từ guitarist Alex Lifeson và tay bass Geddy Lee. "Yyz" đánh mạnh và thường xuyên đánh, nhắc nhở chúng tôi rằng có rất ít hành vi ngoài kia có thể làm đá tiến bộ khá giống Rush.

Trước khi chúng tôi đánh bạn với trống số một của chúng tôi, đây là một vài đề cập danh dự nặng nề!

"Radar Love" (1973) Bông tai vàng
Golden Earring

"Frankenstein" (1972) Tập đoàn mùa đông Edgar
Edgar Winter Group

"Con cóc” (1966) Kem
Cream

"T.N.U.C." (1969) Đường sắt Grand Funk
Grand Funk Railroad

"Lửa xông (1971) Trải nghiệm Jimi Hendrix
The Jimi Hendrix Experience

#1: "Moby Dick" (1969)

Led Zeppelin

Những người hâm mộ nhạc rock cổ điển thường tranh luận về tay trống nào là người lớn nhất mọi thời đại. Cuộc trò chuyện luôn thay đổi, nhưng thường xuyên hơn không, John Bonham của Led Zeppelin ngồi trên đỉnh các danh sách này như một người khổng lồ không thể chạm tới của nhạc cụ. Không khó để tưởng tượng tại sao, ít nhất là khi nghe tiếng cắt cổ điển này từ LP thứ hai của ban nhạc. Đây là một bài hát áp chót trong album, nhưng nó tạo ấn tượng rất lớn không chỉ với việc Bonham trừng phạt bộ trống của anh ấy, mà cả Badass Riff Jimmy Page đã đưa tất cả lại với nhau. Thật khó khăn, thật là hung hăng, đó là huyền thoại: "Moby Dick" có tất cả là một trong những ví dụ điển hình nhất của bản nhạc rock cổ điển như nghệ thuật.

Nhịp trống tốt nhất bao giờ hết?

Nhiều video hơn trên YouTube..
Đi bộ theo cách này - Aerosmith. ....
Chủ nhật Chủ nhật Chủ nhật - Chủ nhật - U2. ....
Mùi có mùi giống như tinh thần tuổi teen - Nirvana. ....
50 Cách để rời khỏi người yêu của bạn - Paul Simon. ....
Càng lau sạch ra - Surfaris. ....
Hãy đến với nhau - The Beatles. ....
Mùi Rosanna - Toto. ....
Chúng tôi sẽ khuấy động bạn - Nữ hoàng. Stomp-stomp blap ..

Top 10 tay trống hàng đầu của mọi thời đại là ai?

Những người đánh trống giỏi nhất mọi thời đại: 20 nhạc sĩ mang tính biểu tượng không thể đánh bại..
8: Stewart Copeland. ....
7: Clyde Stubblefield. ....
6: Phil Collins. ....
5: Người bạn giàu có. ....
4: Neil Peart. ....
3: Ginger Baker. ....
2: Keith Moon. ....
1: John Bonham ..

Phần trống nhanh nhất là gì?

Pritish A R (Úc) 11 tuổi chính thức là tay trống nhanh nhất thế giới!Anh ấy đã phá vỡ kỷ lục cho nhiều tiếng trống nhất trong một phút bằng cách sử dụng trống, với tổng số 2.370 - đó là 39,5 nhịp mỗi giây.Pritish A R (Australia) is officially the world's fastest drummer! He has broken the record for the most drumbeats in a minute using drumsticks, with a total of 2,370 – that's 39.5 beats per second.

Ai có trống dài nhất?

CD Triple Live của Led Zeppelin, "How the West was Won" có phiên bản "Moby Dick" trực tiếp 19:20 mà John Bonham chơi một mình trong hơn 17 phút.John Bonham played solo for over 17 minutes.