Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước

Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nêu rõ: Ba mươi năm đổi mới (1986 - 2016) là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững – Dự thảo khẳng định.

Theo dự thảo, qua 30 năm đổi mới, “đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hoá - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao”.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, dự thảo cho rằng “chúng ta còn nhiều hạn chế, khuyết điểm”.

Cụ thể là, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hoá, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phậnnhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được mục tiêu đề ra.

Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới, nhất là triệt để sử dụng các phương tiện truyền thông mạng Internet để chống phá ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, dự thảo nêu 5 bài học.

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

Những thành tựu mà Việt Nam đạt được sau 36 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới là đã không ngừng mở rộng dân chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, tạo điều kiện giải phóng năng lực con người, khơi dậy và phát huy sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của Nhân dân. Đó cũng là sự khẳng định công tác xây dựng Đảng được từng bước hoàn thiện và đổi mới; ngày càng nâng cao vị thế, vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết nêu khái quát mục tiêu, chiến lược xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, qua đó đưa ra một số giải pháp tiếp tục công tác xây dựng Đảng - nhiệm vụ then chốt trong Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước.

Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước

Ảnh minh họa

Mục tiêu, chiến lược xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay của Đảng ta

Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ mục tiêu phát triển của Việt Nam: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1). Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo về Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(2). Đây là bốn trụ cột chính để phát triển đất nước giai đoạn hiện nay, đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, sánh ngang với các cường quốc năm châu trên thế giới như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong Văn kiện các kỳ Đại hội XI, Đại hội XII và Đại hội XIII, Đảng ta luôn nhấn mạnh và khẳng định rõ hơn, xây dựng Đảng luôn là nội dung then chốt của sự nghiệp phát triển đất nước. Điều này xuất phát bởi các lý do chủ yếu sau:

Thứ nhất, xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò của công tác xây dựng Đảng đối với sự nghiệp cách mạng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức sâu sắc vị thế của Ðảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Kế thừa và phát triển quy định của các Hiến pháp năm 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(3). Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán, là vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng Việt Nam qua mỗi giai đoạn, phù hợp với thể chế chính trị mà Đảng, Nhà nước ta đã lựa chọn.

Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... trong 36 năm đổi mới càng khẳng định uy tín, tầm vóc rất to lớn về vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị và trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(4) và một trong năm bài học lớn được rút ra từ thực tiễn cách mạng đó là: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(5). Đây cũng là lý luận khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới.

Thực tế đã chứng minh, việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập quốc tế càng khẳng định cần phải có sự lãnh đạo của Đảng và coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đây là nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, nền độc lập tự chủ của Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay; Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới”(6).

Thứ hai, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đất nước ta hiện nay đòi hỏi phải không ngừng nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, xác định mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, trong đó: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(7). Vì vậy, phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư tuy, xây dựng và hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển đất nước nhanh, bền vững; tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển nền kinh tế số, xã hội số; xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam.

Đồng thời, tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: “Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(8).

Trong bối cảnh hiện nay, có nhiều vấn đề mới đặt ra, đòi hỏi được giải đáp và giải quyết cả về lý luận và thực tiễn; tình hình thế giới đang có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, do có sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt là các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ lại đứng trước nhiều khó khăn thách thức. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Nhiều vấn đề toàn cầu, như bảo vệ môi trường, an ninh con người, thiên tai, dịch bệnh, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường… tiếp tục diễn biến phức tạp. Tình hình Biển Đông, khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng đang có những diễn biến mới phức tạp. Vì vậy, Việt Nam cần kiên trì, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu, rộng; xử lý các mối quan hệ đối ngoại vừa kiên định về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, linh hoạt về phương pháp, sách lược; vừa giữ vững độc lập chủ quyền của quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng, vừa tạo được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trong quá trình chuyển đổi phương thức quản lý kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, có nhiều việc chúng ta phải vừa làm, vừa học, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm và chịu tác động mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Có không ít vấn đề tác động trực tiếp đến nước ta, vào cả tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta. Tất cả những điều đó đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu đề ra trong Chiến lược tổng thể phát triển đất nước.

Thứ ba, khắc phục một số hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng

Đảng ta luôn khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng”(9). Tuy nhiên, vẫn còn có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng chỉ rõ: “Không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số số cán bộ, đảng viên”(10). Nghị quyết nêu rõ, trong nhiệm kỳ 2015-2020, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý(11).

Chúng ta đã tiến hành công tác xây dựng Đảng thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp, nhiều cuộc vận động, làm cho Đảng ta ngày càng tiến bộ, trưởng thành; song vẫn còn những hạn chế. Các mặt khuyết điểm, yếu kém chưa được khắc phục, có mặt còn phức tạp, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và người dân, tác động tiêu cực vào sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng.

Thứ tư, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động.

Âm mưu của các thế lực thù địch là muốn xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Để thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch sử dụng “diễn biến hòa bình” như một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng. Họ tấn công trên mặt trận tư tưởng, lý luận hòng làm tan rã niềm tin, gây rối loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra những khoảng trống để dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và người dân. Nội dung các luận điểm của các thế lực thù địch là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận thành tựu của cách mạng; thổi phồng khuyết điểm, hạn chế của chúng ta, quy kết là do đường lối sai, sự lãnh đạo, quản lý yếu kém của Đảng và Nhà nước; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thắng lợi lịch sử có tính quốc tế của Nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ; vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số… Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy không mới, nhưng truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ cán bộ, đảng viên của ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Trong tình hình đó, nếu Đảng ta không giữ được bản chất cách mạng, không vững vàng về chính trị, tư tưởng; không thống nhất cao về ý chí, hành động; không trong sạch về đạo đức; không chặt chẽ về tổ chức, không xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, trình độ, năng lực; không được Nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước phát triển. Vì vậy, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta.

Một số giải pháp đối với công các xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam

Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn; giữ vững bản chất giai cấp công nhân; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nhận thức đúng đắn, sâu sắc quan điểm, chủ trương lớn về xây dựng Đảng. Đồng thời, Đảng ta phải không ngừng đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, đặc biệt là năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần bám sát tình hình, nhiệm vụ để cụ thể hóa và lãnh đạo tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ những nội dung về xây dựng Đảng đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ chế phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức để Nhân dân tham gia xây dựng Đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, thường xuyên bám sát sự phát triển của thực tiễn, phát hiện, ủng hộ và nhân rộng nhân tố mới, góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối của Đảng.

Hai là, coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng.

Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(12); luôn bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những vướng mắc về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân để giải đáp kịp thời. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng; tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và lịch sử cách mạng, vẻ vang của Đảng, sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện mới. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chủ động phòng, chống diễn biến hòa bình, những thông tin xấu, độc xuyên tạc trên mạng xã hội, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Thực hiện có nền nếp công tác bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương, theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.

Ba là, tập trung xây dựng Đảng về đạo đức.

Thực tế hiện nay cho thấy, càng đi vào đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng, lại càng phải xây dựng Đảng về đạo đức. Đây là một trong bốn mục tiêu bảo đảm thành công đối với công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu. Mỗi cán bộ, đảng viên, dù làm bất cứ việc gì, ở đâu cũng cần phấn đấu thực hiện tốt lời căn dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(13).

Do đó, phải tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho phù hợp với điều kiện và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước gắn với tăng cường giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên, trong đó tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, tính chiến đấu và kỹ năng nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy; xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, gần dân, sát dân, trọng dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước những khó khăn, thách thức; xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, bảo đảm dân chủ, tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tính thiết thực, hiệu quả và có sức lan tỏa rộng. Tăng cường công tác quản lý, phát triển, sàng lọc đảng viên; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật của Nhà nước.

Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn thấm nhuần quan điểm: “Công tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”(14). Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thách thức, vì lợi ích chung. Thực hiện tốt cơ chế tuyển chọn, quản lý, giám sát, bổ nhiệm, bồi dưỡng cán bộ, kiên quyết không bổ nhiệm những cán bộ có uy tín thấp, tham vọng quyền lực; khắc phục tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp trong đội ngũ cán bộ. Việc nhận xét, đánh giá cán bộ công tâm, khách quan, trên cơ sở lấy tiêu chuẩn và tín nhiệm của quần chúng là thước đo chủ yếu; tránh mọi biểu hiện tiêu cực, động cơ thiếu trong sáng khi đánh giá, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ. Hoàn thiện quy định về bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Sáu là, đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.

Cần kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát chuyên đề, kiểm tra đột xuất và kiểm tra dấu hiệu vi phạm, đặc biệt là coi trọng tự giám sát, kiểm tra; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động phòng ngừa với phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, không có vùng cấm; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động, tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng./.

---------------------

Ghi chú:

(1),(2),(4),(7) (8),(12),(14) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.36, tr.33-34, tr.25, tr.206, tr.39, tr.181, tr.226.

(3) Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CTQG-ST, H.2013.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.66.

(6),(11) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.221, tr.200.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.54.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.195.

(13) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.516.

PGS.TS Hoàng Phúc Lâm, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo: https://tcnn.vn/