Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Quang cảnh đô thị TPHCM. (Long Hồ)

(Thanhuytphcm.vn) - Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam lần thứ IV diễn ra sau hơn một năm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi hoàn toàn, đất nước được thống nhất, đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn có tính chất thời đại sâu sắc”[1].

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, của Nhân dân hai miền Nam Bắc, kết hợp với sức mạnh thời đại dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với đường lối chiến lược, chiến thuật, phương pháp cách mạng đúng đắn.

Đó là kết quả của đường lối xây dựng lực lượng cách mạng toàn diện bao gồm đội quân chính trị và lực lượng vũ trang nhân dân, đã luôn kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị), bằng ba mũi tiến công (quân sự - chính trị và binh vận)… Với sức mạnh tổng lực đó, quân ta đã lần lượt đánh thắng các chiến lược của địch trong suốt hai thập kỷ. Cuộc tiến công và nổi dậy Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trong trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam, là kết quả tất yếu của sức mạnh tổng hợp trên, trong đó mũi tiến công quân sự với quả đấm của 5 cánh quân chủ lực là mũi quyết định trực tiếp, mũi tấn công chính trị, sự nổi dậy của quần chúng là nền tảng sức mạnh tổng hợp, tạo nên cục diện kết thúc cuộc chiến tranh khốc liệt 30 năm giải phóng Sài Gòn gần như nguyên vẹn, không có sự đổ máu. Có thể nói, đó là sự kiện có một không hai trong lịch sử chiến tranh trên thế giới, có ý nghĩa to lớn, vừa thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phản ánh trung thực bản chất của dân tộc ta, vừa tác động to lớn đến sự phát triển đất nước sau chiến tranh.

Nhân dân Sài Gòn – Gia Định tự hào đã đóng góp công sức to lớn, tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần quan trọng vào chiến công hiển hách mang tính thời đại – Đại thắng mùa Xuân 1975. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử “quần chúng đã vào trận đúng lúc… Hành động yêu nước của nhân dân tạo ra khí thế cách mạng tràn ngập đường phố, là sức mạnh to lớn. Đây là cái quý nhất của quần chúng Sài Gòn – Gia Định và đây cũng là kết quả của công tác tuyên truyền giáo dục, tổ chức và rèn luyện trong đấu tranh qua nhiều năm của Đảng bộ Thành phố”[2].

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Hơn 300.000 người dân Sài Gòn chào đón Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn - Gia Định. (Ảnh: Tư liệu)

Truyền thống – hành trang xung trận

Dù sống trong môi trường là “tổng hành dinh” của quân xâm lược với bộ máy cai trị khổng lồ, Nhân dân Sài Gòn có nhiều cuộc đấu tranh chính trị đông đảo nhất. Trong 30 năm cuộc trường chinh giải phóng dân tộc, lịch sử đã nghi nhận những sự kiện trọng đại của Nhân dân Sài Gòn: Tháng 8/1945, khi có lệnh khởi nghĩa, lập tức lực lượng cách mạng nằm trong các tổ chức công khai, bán công khai như Thanh niên Tiền phong, Công đoàn đồng loạt xung phong tiến công các cơ sở của địch. Rồi hàng triệu quần chúng gồm các tầng lớp Nhân dân tràn ngập đường phố trung tâm với rừng cờ đỏ sao vàng hô vang khẩu hiệu “chính quyền về tay Nhân dân”. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, sự kiện “Đám tang Trò Ơn” (9/1/1950) là một cuộc biểu tình chính trị với biển người cuồn cuộn kéo dài cả chục cây số trong 8 giờ, “quan tài đến nghĩa trang Chợ Lớn mà người cuối cùng chưa ra khỏi Trường Pétrus Ký”; rồi “ngày chống Mỹ” (19/3/1950) của học sinh Sài Gòn tràn ra đường phố với cờ đỏ sao vàng, hát những bài ca yêu nước, hạ cờ tam sắc, đốt cờ ba que, chặn xe lửa, lập chiến lũy, rượt lính Mỹ…

Trong thời kỳ chống Mỹ, phong trào đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển mạnh, đa dạng, độc đáo mang đặc trưng của cư dân đô thị dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ Thành phố. Đó là “Phong trào dân tộc tự quyết”, hoạt động của “Ủy ban vận động hòa bình” (1965) đã lôi cuốn hàng ngàn chiến sỹ, tổ chức tham gia ra tuyên ngôn đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh; là “lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc”, “Hội bảo vệ nhân quyền và quyền lợi phụ nữ”, “Hội bảo vệ tinh thần thanh niên” cùng hàng loạt tờ báo như Tin Văn, Hồn Trẻ, Tiếng nói Trí thức… đã đấu tranh quyết liệt sự du nhập của văn hóa ngoại lai của Mỹ xâm lược. Đặc biệt phong trào “Sử ca”, “Kháng chiến ca”, “Hát cho đồng bào tôi nghe” của hàng vạn, hàng vạn Thanh niên vang rền đường phố, thúc giục, lay động lòng người, lôi cuốn người dân hướng về cách mạng. Nhân dân Sài Gòn – Gia Định, Nhân dân cả nước và có lẽ cả thế giới không bao giờ quên sự kiện có một không khai ở bất kỳ một đô thị lớn nào trên thế giới thuộc địa là cuộc biểu tình đặc sắc Sài Gòn “Ký giả đi ăn mày” mang đậm đặc trưng của phong trào cách mạng đô thị.

Sự đa dạng, phong phú, độc đáo của phong trào đấu tranh chính trị sôi nổi, liên tục của nhân dân Sài Gòn – Gia Định đã trở thành truyền thống quý báu, hành trang vững vàng, nền tảng chắc chắn cho một cuộc xung trận mới, trận quyết chiến chiến lược, giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam.

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Xe tăng quân giải phóng tiến thẳng vào dinh Độc Lập vào trưa 30/4/1975. (Ảnh tư liệu )

Xung trận đúng lúc

Ngày 1/4/1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp, quyết định tập trung lực lượng để giải phóng Sài Gòn, với quyết tâm là bắt đầu và kết thúc vào tháng 4/1975. Theo đó, Bộ Tư lệnh Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được thành lập, xây dựng kế hoạch, phương án tác chiến của chiến dịch, trong đó phân công đồng chí Nguyễn Văn Linh – Phó Bí thư Trung ương Cục phụ trách công tác nổi dậy của quần chúng; đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục phụ trách công tác tiếp quản Thành phố sau giải phóng. Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định đặt tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn – Gia Định là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đảng bộ Sài Gòn – Gia Định được phân công “chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt để khi thời cơ đến, phát động quần chúng nổi dậy và tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ cơ sở đến Trung ương”. Đồng thời có nhiệm vụ chiếm giữ các cầu trọng yếu, khống chế trận địa pháo, sân bay của địch, chiếm các bàn đạp, mở đường và dẫn đường cho bộ đội chủ lực tiến công vào đánh chiếm các mục tiêu được phân công; tạo điều kiện cần thiết cho các binh đoàn chủ lực có chỗ tập kết; bảo đảm hậu cần tại chỗ cho chiến dịch…

Ngày 12/4/1975, Ban Thường vụ Thành ủy đã ra Chỉ thị “Những việc cần làm ngay trong các giai đoạn trước, trong và sau khi Thành phố được giải phóng” với nhận thức và quán triệt sâu sắc tinh thần “thời cơ 20 năm mới có một lần”. Chỉ thị nêu rõ: “Thời cơ khởi nghĩa là lúc mà các cuộc công kích và khởi nghĩa của ta xung quanh Thành phố thành công lớn, lực lượng quân địch bảo vệ thành phố bị đánh sụp, bọn địch đảo chính lẫn nhau hoặc thay đổi cấp lãnh đạo chóp bu, hàng ngũ địch rối loạn, không kiểm soát được tình hình hoặc rút chạy khỏi thành phố. Lúc này, dù quân chủ lực chưa vào vẫn phải phát động quần chúng nổi dậy tấn công và khởi nghĩa”[3]. Thành phố đã xây dựng các đội quân của các ngành, các cấp sẵn sàng nhập cuộc, với những tư liệu cẩm nang quan trọng như Lời kêu gọi của Ủy ban Nhân dân Cách mạng Sài Gòn – Gia Định; Bảy điều về Chính sách binh vận của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Tài liệu hướng dẫn quần chúng hành động (trước, trong và sau khi tổng công kích – tổng khởi nghĩa)…

Với truyền thống được vun bồi xây đắp, với hành trang được tích lũy xây dựng hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, với tinh thần sẵn sàng “chớp thời cơ” được chuẩn bị sẵn, khi Chiến dịch Hồ Chí Minh khai màn vào ngày 26/4/1975, đội quân chính trị đông đảo của quần chúng nhân dân đồng loạt xung trận.

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Hội trường Thống Nhất (TPHCM) ngày nay. (Ảnh: Thanhuytphcm.vn)

Lực lượng công nhân với khí thế “dũng cảm tiến lên, đoàn kết lại, phất cao ngọn cờ tiên phong, đánh đổ ngụy quyền, giành chính quyền về tay nhân dân” đã tham gia khởi nghĩa ở khu phố, ở các xí nghiệp, nhà máy, nhất là nhà máy điện, nước, bưu điện, đài phát thanh, đài truyền hình, các kho tàng lớn, không để cho địch phá hoại trước khi chúng rút chạy. Nhờ vậy, mà khi các cánh quân vào đến Thành phố, kẻ địch tháo chạy tán loạn, nhà máy điện vẫn phát sáng, nước vẫn chảy, các cửa hàng, cửa hiệu… vẫn nguyên vẹn.

Lực lượng nông dân dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cánh B Thành ủy (cánh phụ trách địa bàn nông thôn, có nhiệm vụ tham gia giải phóng các huyện Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp, Tân Bình, Thủ Đức và thị xã Gia Định) đã vào cuộc từ những ngày đầu tháng 4, xây dựng hàng trăm cơ sở quần chúng, hàng chục lõm chính trị ở vùng ven. Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, lực lượng nông dân đã phối hợp nhịp nhàng với bộ đội địa phương theo tiến trình tiến quân của các cánh quân chủ lực nổi dậy, giành chính quyền từng địa phương, khu vực. Theo hướng tiến công của Quân đoàn II, Quân đoàn IV, hướng Đông và Đông Bắc trong 2 ngày 29 và 25/4 đã nổi dậy ở khu vực Giồng Ông Tố, Lò Lu (Thủ Đức); đến ngày 29/4 đã giành được chính quyền ở tất cả các xã thuộc quận Thủ Đức. Ở hướng Tây Bắc, ngày 28 và 29/4, quần chúng đã nổi dậy giành quyền làm chủ ở các xã của Hóc Môn như Xuân Thới Thượng, Tân Thới Nhì, Tân Thạnh Đông và thị trấn Hóc Môn. Toàn bộ các xã ở Củ Chi nằm trên hướng tiến quân Tây Bắc, trong ngày 29/4 hầu như được giải phóng hoàn toàn (các xã Tân An Hội, Tân Thông Hội, Tân Phú Trung, Phước Hiệp, Phước Thạnh nằm trên quốc lộ 22, hay xã Trung Lập, Phú Hòa Đông, Trung An sát nách căn cứ Đồng Dù đều được giải phóng). Trên hướng tiến quân của Quân đoàn 1, quần chúng đã nổi dậy làm chủ hoàn toàn các xã Tân Thới Hiệp, An Phú Đông, Nhị Bình, An Nhơn, Thông Tây Hội. Theo hướng tiến công của Quân đoàn 3, quần chúng phối hợp với bộ đội địa phương, bức rút đồn bốt, khống chế các mục tiêu, giành chủ quyền ở các xã Phú Thọ Hòa, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hòa. Ở hướng Tây Nam theo đường tiến quân của Đoàn 232, quần chúng nổi dậy cùng bộ đội địa phương giành chính quyền ở địa bàn nông thôn rộng lớn của xã Tân Tạo, Tân Nhựt, Bình Trị Đông, tiến lên giải phóng hoàn toàn huyện Bình Chánh.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nông dân Gia Định, người chủ của vùng nông thôn rộng lớn đã phát huy cao độ truyền thống anh hùng, yểm trợ mạnh mẽ và phối hợp nhịp nhàng với lực lượng vũ trang vùng lên giải phóng quê hương, giành chính quyền rất đúng lúc.

Lực lượng trí thức ở Sài Gòn – Gia Định đông về số lượng, “có địa vị xã hội quan trọng trong các tầng lớp nhân dân, có ảnh hưởng đáng kể đối với ngụy quân, ngụy quyền…”[4], nên trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, Thành ủy Sài Gòn – Gia Định có sự quan tâm đặc biệt đến công tác Trí vận. Ban Trí vận đã vận động, tổ chức phong trào đấu tranh chính trị của tầng lớp trí thức, công chức cao cấp, giáo chức, tu sỹ các tôn giáo, các nhà tư sản, văn nghệ sỹ… hòa cùng phong trào đấu tranh chính trị của các giới đồng bào đô thị như Thanh niên, Phụ nữ, Công nhân, người Hoa… Đồng thời đã có những phong trào đặc trưng của giới trí thức trong Mặt trận nhân dân rộng lớn. Cho nên trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trí thức Sài Gòn – Gia Định luôn đồng hành cùng với các lực lượng yêu nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp của phong trào đấu tranh cách mạng ở chiến trường đô thị.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trí thức Sài Gòn – Gia Định theo sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Trí vận đã linh hoạt, nhạy bén tìm cách làm suy yếu hàng ngũ địch, nhất là đối với bộ phận “chop bu” của chính quyền Sài Gòn, tập trung lực lượng đánh đổ ngụy quyền từ bên trên và từ trong ruột đánh ra, góp phần tạo nên “cục diện mới” để kết thúc chiến tranh theo tư tưởng Hồ Chí Minh[5].

Lực lượng Thành đoàn luôn là “ngòi pháo” trong phong trào đấu tranh chính trị ở đô thành Sài Gòn suốt các thời kỳ của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhất là từ 1965 trở đi. Từ cuối 1974 đầu 1975, Thành Đoàn được giao nhiệm vụ chuẩn bị lực lượng để tham gia khởi nghĩa trong nội thành. Theo đó, một lực lượng lớn được đưa vào nội thành để khi có thời cơ thì các tổ chức như Tổng hội sinh viên Sài Gòn; Tổng Đoàn học sinh Sài Gòn; Đoàn Văn nghệ học sinh, sinh viên; Đoàn công tác xã hội… vận động hội viên và quần chúng tham gia nổi dậy giành quyền làm chủ ở các khu phố. Trong đó, Thành Đoàn trực tiếp phụ trách nổi dậy ở các khu Bàn Cờ, Vườn Chuối, Cầu Bông, Đa Kao – Tân Định, Phú Nhuận, Khánh Hội – Vĩnh Hội, Tân Phú, Bảy Hiền. Tất cả những điểm khởi nghĩa này đều có tác động hỗ trợ cho việc đánh chiếm các mục tiêu trung tâm như Dinh Độc Lập, Tòa Đại sứ quán Mỹ, Biệt Khu Thủ Đô, Bộ Tổng tham mưu… Đồng thời, một số khá đông cán bộ Thành Đoàn được Thành ủy điều động tăng cường cho các quận 6, 7, 8, 10, Phú Thọ Hòa, Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì, Gò Vấp để cùng quần chúng khởi nghĩa giành quyền làm chủ, ứng chiến với các mũi tiến công của quân chủ lực từ các hướng. Với truyền thống, kinh nghiệm đã có, với sự chuẩn bị theo sự chỉ đạo của Thành ủy, lực lượng Tuổi Trẻ thành phố đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình trong chiến dịch Hồ Chí Minh, cùng đông đảo quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở cơ sở, góp phần làm tê liệt trung tâm đầu não của địch, tiến tới giải phóng hoàn toàn Thành phố.

Phong trào phụ nữ Sài Gòn – Gia Định đã phát triển mạnh mẽ từ 1965, khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam. Nhiều tổ chức phụ nữ được hình thành như Hội Bảo vệ nhân phẩm và quyền sống, Giáo hội Khất sỹ nữ giới Việt Nam, Đoàn Nữ Phật tử Long Hoa, Hội Nữ Phật tử Việt Nam, Nghiệp đoàn Tiểu thương 36 chợ Đô Thành, Hội các bà mẹ có con ở tù… Phong trào đấu tranh của phụ nữ vừa có tính chất riêng của giới, ngành nghề, vừa phối hợp với các phong trào đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị của các tầng lớp quần chúng Thành phố. Bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Ban Phụ Vận được giao nhiệm vụ áp sát vùng địch, ấp chiến lược để xây dựng cơ sở; may cờ, chuẩn bị lực lượng giao liên, đưa bộ đội vào Thành phố; xây dựng cơ sở nội thành, chuẩn bị tiếp quản Thành phố. Khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng thì các “thê đội” phụ nữa ở các địa bàn đã vào cuộc nhịp nhàng và mưu trí, khôn khéo đưa lại hiệu quả cao. Các bà mẹ Củ Chi đất thép thành đồng đã giương cao ngọn cờ Mặt trận giải phóng dẫn dắt quần chúng nổi dậy “xóa sổ” các cơ quan chính quyền cơ sở địch[6]. Ngày 29/4 ở Gò Vấp, Khu dệt Bảy Hiền, Phụ nữ đã làm công tác binh vận, cắm cờ khắp khu phố, chợ; treo bảng Ủy ban Nhân dân Cách mạng khu Bảy Hiền… Sáng 30/4, Phụ nữ cắm cờ, chiếm lĩnh trụ sở Hội đồng xã Thạnh Mỹ Tây. Một bộ phận lớn lãnh đạo Ban Phụ Vận đã vào Thành phố từ trước, trong đó có đồng chí Đỗ Duy Liên, Trưởng Ban, đã lãnh đạo lực lượng nòng cốt kết hợp cùng các giới đồng bào nổi dậy, giành quyền làm chủ ở nhiều nơi, từ các quận của Gia Định đến nội đô Sài Gòn. Hình ảnh chiến sỹ biệt động Nguyễn Trung Kiên hướng dẫn xe tăng vào chiếm lĩnh mục tiêu là một điển hình về biểu tượng oai hùng của Phụ nữ Sài Gòn – Gia Định trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Và chúng ta cũng không bao giờ quên biết bao người nữ công nhân đã kiên trì, dũng cảm bảo vệ cơ sở vật chất của các nhà máy, xí nghiệp được vẹn toàn trong cơn bão táp chiến dịch, tô đậm thêm truyền thống anh hùng của Phụ nữ Sài Gòn – Gia Định…

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Một góc TPHCM ngày nay. (Ảnh: Thanhuytphcm.vn)

Sự tham gia của người Hoa vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 nói riêng là nét đặc sắc, phản ánh sự toàn diện về sức mạnh tổng hợp của quần chúng trong phong trào cách mạng đô thị Sài Gòn – Gia Định. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã tổ chức Ban Hoa Vận để vận động người Hoa tích cực tham gia đấu tranh cách mạng. Đặc biệt ở Nam Bộ mà trọng tâm là Sài Gòn – Chợ Lớn, từ thời kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ, công tác vận động người Hoa diễn ra thường xuyên, toàn diện, đã dẫn dắt người Hoa vào quỹ đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Thành phố. Bước vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, Ban Thường vụ Thành ủy Sài Gòn – Gia Định giao cho Ban Hoa Vận bố trí lực lượng phát động quần chúng nổi dậy tại 10 vùng trọng điểm thuộc các quận đông người Hoa như quận 5, 11, 6, 10…

Khi chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, các tổ vũ trang tuyên truyền của Ban Hoa Vận rải truyền đơn, giăng biểu ngữ, phát loa kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền, treo cờ giải phóng ở nhiều cơ sở trường học, Hội quán người Hoa. Sáng 30/4, khi các cánh quân chủ lực tiến công vào nội thành, các tiểu ban khởi nghĩa của Ban Hoa Vận theo sự phản công đồng loạt hành động. Tại Quận 5, từ nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số đường phố, phường đã tiến lên bao vây chiếm lĩnh Ty cảnh sát quận 5, Tòa Hành chính quận và Câu lạc bộ sỹ quan, bố trí lực lượng chốt giữ, bảo vệ hệ thống kho tàng dọc bến Hàm Tử, Lê Quang Liêm và tiếp quản Tổng Thương Hội Trung Hoa. Tại Quận 6, lực lượng khởi nghĩa chiếm lĩnh các khóm, tiến đến bao vây Tòa nhà Hành chính và Ty Cảnh sát Quận 6, phong tỏa các tuyến đường, treo cờ giải phóng trên Tòa nhà Hành chính quận. Đồng thời, bố trí lực lượng tiếp quản chính quyền khóm phường, ổn định trật tự, bảo vệ các kho hàng chợ Bình Tây… Tại Quận 10, Tiểu ban Khởi nghĩa cùng một sỹ quan quân đội Sài Gòn là người Hoa vốn là cơ sở cách mạng đã làm binh biến khống chế, tước vũ khí của lực lượng văn phòng cố vấn quân sự Đài Loan, đồng thời phân công lực lượng treo cờ Mặt trận Giải phóng khắp các chung cư khu vực Ngô Gia Tự; kêu gọi Nhân dân nổi dậy chiếm các đồn cảnh sát, văn phòng khóm, tiến chiếm Tòa Hành chính Quận 10. Tại Quận 11, từ sáng 30/4, lực lượng khởi nghĩa đã bao vây, chiếm lĩnh các khóm, phường ở khu vực Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thạnh, Phú Hòa, sau đó phối hợp với lực lượng của Thành Đoàn tiến chiếm, quản lý tư liệu, vật chất của Toà Hành chính và Ty Cảnh sát các quận… Đông đảo đồng bào người Hoa khu vực Chợ Lớn đã hòa cùng Nhân dân Thành phố biểu dương lực lượng cách mạng, tích cực tham gia giữ gìn trật tự, trị an, quản lý cuộc sống khu phố những ngày đầu mới được giải phóng.

Công tác binh vận nhằm vận động binh lính địch, lôi kéo họ về phía cách mạng là một mũi tiến công chiến lược nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, đánh bại kẻ thù xâm lược, đã được Đảng ta xác định và chỉ đạo thực thi trên mọi chiến trường, đặc biệt là chiến trường đô thị Sài Gòn – Gia Định, trung tâm đầu não của địch. Tùy theo tình hình diễn biến của chiến trường, động thái cục diện chiến tranh mà công tác binh vận được tiến hành một cách linh hoạt về phạm vi đối tượng, nội dung và hình thức. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, công tác binh vận, địch vận được tiến hành một cách đa dạng với nhiều mũi đột kích vào những đối tượng có vai trò trực tiếp trong quá trình kết thúc cuộc chiến. Để chuẩn bị bước vào chiến dịch, Ban Binh vận Trung ương và Ban Binh vận Sài Gòn – Gia Định khẩn trương chuẩn bị hành động vừa ở các đơn vị, các trường huấn luyện của ngụy quân, vừa tính toán đến lá bài chiến lược vốn đã được chuẩn bị từ rất lâu – đối tượng “chóp bu” chính quyền Sài Gòn. Ở nông thôn, sự nổi dậy của quần chúng các giới nêu trên, nhiều nơi có sự góp sức của mũi binh vận. Còn ở đô thị, ở các đơn vị chủ lực, trại huấn luyện, nổi bật là sự kiện sáng 28/4/1975, Thiếu tá Lê Quang Ninh đã phát động binh lính nổi dậy, đưa tiểu đoàn bảo vệ căn cứ Đồng Dù – Sư đoàn 25 về với cách mạng, đã gây hoang mang, làm náo loạn hàng ngũ ngụy quân Khu 31 chiến thuật, tạo điều kiện thuận lợi để quân chủ lực của ta tấn công căn cứ Đồng Dù. Chiều 29/4/1975, Đại tá, Chỉ huy phó Trung tâm huấn luyện Quang Trung ra lệnh tập trung quân vào trại, cất hết vũ khí, vô hiệu hóa các bãi mìn bảo vệ toàn trung tâm, đã “dọn sạch đường” cho quân chủ lực hành quân tiến qua trung tâm, đánh trại lữ đoàn quân dù Hoàng Hoa Thám. Sáng sớm ngày 30/4/1975, lực lượng nội tuyến của ta ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung tiến hành treo 400 cờ, phát hành Tài liệu về Chính sách 10 điểm cho lính Sài Gòn ở 4 trại Võ Tánh, Chu Văn Tiếp, Lê Lợi, Dương Mộng Hùng, kêu gọi lính rã ngũ, trở về với gia đình. Trung úy Trần Huệ Nhật cơ sở nội tuyến, đảng viên, chỉ huy đại đội bảo vệ Bộ Chỉ huy cảnh sát Gia Định đã cùng cơ sở chiếm giữ Bộ Chỉ huy, làm tan rã bộ máy cảnh sát bên dưới, tạo thuận lợi cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền, khu vực trung tâm tỉnh Gia Định[7].

Những hành động của Tổng thống trong 3 ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn Dương Văn Minh chịu sự tác động mạnh của các mũi binh vận.

Những sự kiện được nêu ra trên đây dù chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong bức tranh toàn cục cuộc nổi dậy của các tầng lớp, các giới đồng bào Sài Gòn – Gia Định, song đã nói lên sự vào cuộc đúng lúc, sự đóng góp quan trọng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc tiến công và nổi dậy Xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, làm nên chiến công vang dội của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh. Chỉ trong 2 ngày 29/4 và 30/4 toàn Thành phố Sài Gòn – Gia Định đã có 107 điểm nổi dậy trước khi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Hầu hết các huyện lị, Ty Cảnh sát các quận và Tòa Hành chính tỉnh Gia Định đã được nhân dân nổi dậy giải phóng, “cờ sao tung bay khắp xóm ấp, phố phường”, đồng bào các giới tràn ngập đường phố hòa cùng các cánh quân chủ lực tiến công vào trung tâm Thành phố, hát vang bài ca “Đại thắng mùa Xuân 1975”.

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Tuổi trẻ TPHCM hôm nay luôn xung kính tình nguyện vì một cuộc sống tươi đẹp hơn. (Ảnh: Thanhuytphcm.vn)

Bài học về sức dân

Đánh giá về sự nổi dậy kịp thời, hợp đồng chặt chẽ của nhân dân Thành phố với các cánh quân chủ lực, vị Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã nói: “Đây là cái quý nhất của quần chúng Sài Gòn – Gia Định”. Đúng vậy! Nhân dân Sài Gòn – Gia Định đã hơn một thế kỷ (1859 – 1975) sống vẫy vùng dưới ách thực dân đế quốc với biết bao lao lung, thiên trùng áp bức, khủng bố, chém giết, lừa bịp…, tưởng chừng lòng người mềm nát như tương. Nhưng không! Khí phách của người dân Sài Gòn – Gia Định đã luôn kiên cường, dũng cảm trước mọi phong ba, bão táp, trước nanh vuốt của kẻ thù hung ác. Thời kỳ chủ nghĩa thực dân mới, biết bao tệ nạn tràn ngập xã hội miền Nam, nhất là vùng đô thị bị tạm chiếm, không ít người bị tiêm nhiễm lối sống của chủ nghĩa thực dân. Điều đó ít nhiều tác động đến sự nhìn nhận, đánh giá người Sài Gòn theo nhiều góc độ khác nhau. Truyền thống kiên cường bất khuất, son sắt với cách mạng, đường lối quần chúng, công tác tuyên truyền vận động giáo dục, tổ chức và rèn luyện quần chúng trong đấu tranh cách mạng của Đảng bộ Thành phố, sự “vào trận đúng lúc”, tạo ra khí thế cách mạng tràn ngập đường phố của quần chúng, cho phép đúc rút bài học quý báu về công tác vận động nhân dân tham gia các phong trào cách mạng. Trước hết phải hiểu, phải khơi dậy được và trọng dụng sức dân. Chắc ai cũng biết, Bác Hồ là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, thương yêu dân, kính trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người luôn thẩm thấu triết lý phát triển của Việt Nam được các bậc minh quân, triết gia tổng kết “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”, “dân là gốc” và Bác đã khẳng định một cách vừa bao quát vừa cụ thể “bao nhiêu lực lượng đều ở nơi dân…, bao nhiêu lợi ích thuộc về dân, bao nhiêu quyền hành đều là của dân”[8]. Đối với nhân dân, tấm lòng của Bác luôn chan chứa tình thương yêu, thân ái. Trong thư gửi đồng bào Nam Bộ cách đây hơn 70 năm, Bác chỉ rõ: “Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc”. Trước lúc đi xa, Bác đã “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng, cho tất cả giới đồng bào” và không quên sự quan tâm đến cả những nạn nhân của xã hội thực dân như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, phải giáo dục họ hoàn lương, trở thành người có ích cho xã hội…. Ấy là sự chỉ giáo sâu sắc mà công tác vận động quần chúng nhân dân, kể cả công tác địch vận, binh vận trong thời kỳ kháng chiến của Đảng bộ Sài Gòn – Gia Định luôn luôn được quán triệt sâu sắc, từ đó khơi dậy lòng yêu nước, nhân nghĩa, trách nhiệm của mỗi một người dân đối với Tổ quốc, quê hương, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quần chúng trong trận quyết chiến, chiến lược – Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong chính sách binh vận 10 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tháng 1/1972, coi gia đình có người bị bắt lính là nạn nhân đau khổ, không coi phòng vệ dân sự là lính ngụy, kêu gọi họ khi có điều kiện thì tự giải phóng, đứng về phía nhân dân. Chiến dịch Nguyễn Huệ 1972 đã có hàng ngàn phòng vệ đảo ngũ ra vùng giải phóng gia nhập quân đội cách mạng[9]. Đối với các giới, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, Thành ủy đã nắm bắt tình hình, phân tích thái độ, đặc biệt là lớp trên, nắm rõ tâm tư nguyện vọng, phân tích quá trình, công việc của họ để có chính sách, biện pháp vận động thích hợp. Do vậy, đã phân hóa, vận động, thành lập các tổ chức phù hợp với tâm tư tình cảm, với sự nghiệp và xu hướng chính trị của họ, dần dần đưa vào quỹ đạo chung của phong trào cách mạng đa mặt trận, đa mục tiêu cụ thể, đa hình thức để mọi người lựa chọn công việc, hình thức tham gia một cách tự nguyện.

Nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khởi các xã ấp mĩ và chính quyền Sài Gòn đã làm gì
Triển khai phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Bình Dân. (ảnh: S.Hải)

Sau ngày giải phóng, bài học về đánh giá, vận động, tổ chức, hướng dẫn quần chúng phát huy vai trò và sức mạnh của mình được Thành phố Hồ Chí Minh vận dụng hết sức sáng suốt. Thành phố vốn là trung tâm đầu não của xã hội cũ được tiếp quản gần như nguyên vẹn cả cơ sở vật chất, con người, văn hóa, xã hội… Đánh giá về Thành phố, nhất là về con người Thành phố có rất nhiều cách nhìn khác nhau. Sự hời hợt dễ thấy thuở ban đầu là cho Sài Gòn vốn là “thủ đô” của chế độ cũ, nhiễm nặng lối sống thực dân mới với biết bao thói hư tật xấu được liệt kê, gợi lên một bức tranh có nhiều vết mờ… Đồng chí Nguyễn Văn Linh, người gắn bó máu thịt với phong trào cách mạng đô thị, người giữ chức Bí thư Thành ủy/Khu ủy nhiều nhất đã chỉ ra: Không có gì khó nếu chúng ta liệt kê mặt xấu, mặt tiêu cực của con người Thành phố. Cái khó khăn là làm sao cho nhân dân Thành phố khẳng định mặt tốt cơ bản của mình[10]. Đảng bộ Thành phố đã cố gắng hướng dẫn nhân dân lao động Thành phố nhận thức về bản chất xã hội mới phù hợp với bản chất của họ; không để nhân dân Thành phố ngỡ rằng mình là hạng người xấu thật. Chúng ta, nhất là những người còn trẻ tuổi vào những năm đầu sau giải phóng hẳn còn nhớ lời phát biểu đầy tâm huyết và sự tin tưởng ở Tuổi trẻ Thành phố sau ngày giải phóng của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, đã thôi thúc, lôi cuốn hàng vạn Thanh niên với vô vàn hoàn cảnh khác nhau gia nhập Thanh niên xung phong Thành phố tỏa về mọi miền xây dựng cuộc sống mới. Rồi Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố qua các nhiệm kỳ đều chủ trương giữ gìn và phát huy cao độ những giá trị văn hóa, con người mang tính đặc trưng của Nhân dân Thành phố để tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng Thành phố ngày càng văn minh, hiện đại, nghĩa tình. Đó là bài học về sức dân: “Không có Nhân dân Sài Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng thì Đảng bộ Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh không thể tồn tại và phát triển, không có những thắng lợi to lớn vừa qua và hôm nay”[11].

Phan Xuân Biên

------------------------------------

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004). Văn kiện Đảng toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. Tập 37. Tr.471.

[2] Đại tướng Văn Tiến Dũng (1976). Đại thắng mùa Xuân 1975. NXB Quân đội Nhân dân. Hà Nội. 5:299.

[3] Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh 1930 – 1975. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. 2014.Tr.892.

[4] Lê Duân (2008). Tuyển tập, tập II. NXB Chính trị Quốc gia. Tr.255.

[5] Trí thức Sài Gòn – Gia Định đã tham gia phong trào đấu tranh chống thực dân đế quốc từ rất sớm, thông qua các tổ chức với các sự kiện nổi bật như: Năm 1947, tri thức Sài Gòn đưa ra “Tuyên ngôn của Trí thức Sài Gòn – Chợ Lớn” với sự tham gia của các trí thức nối tiếp như Lưu Văn Lang, Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Hưởng, Vũ Tùng… Năm 1960, Ban Trí vận xây dựng cơ sở trong trí thức, học sinh, sinh viên, văn nghệ, báo chí, gồm nhóm công khai và nhóm bí mật do đ/c Huỳnh Tấn Phát phụ trách. Khi Mặt trận Dân tộc giải phóng ra đời, hàng loạt trí thức nổi tiếng đã tham gia Mặt trận như Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phùng Văn Cung, Trần Bửu Kiểm, Lê Văn Huấn, Ung Ngọc Ky, Nguyễn Văn Hiếu, Dương Quỳnh Hoa, Tôn Thất Dương Kỵ … Năm 1969, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình Việt Nam được thành lập với các nhân sỹ, trí thức nổi tiếng của Sài Gòn như Luật sư Trịnh Đình Thảo, Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Kỹ sư Lâm Văn Tết, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Bác sỹ Dương Quỳnh Hoa, nhà văn Thanh Nghị, Giáo sư Nguyễn Văn Kiết… Ngoài ra, có những tri thức, nhân sỹ tham gia lực lượng quốc gia tiến bộ do Luật sư Trần Ngọc Liễng làm Chủ tịch, tích cực chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn, đòi hòa bình, dân tộc tự quyết…

[6] Má Tám Rành treo cờ đầu ấp Phước Hiệp; Má Bảy Lành xông vào hạ cờ địch ở đồn cảnh sát Củ Chi; Má Nam (Trung Lập) phát động 200 người truy lùng địch, cắm cờ trên 13 bốt trong xã; Má Gòn cắm cờ trên đồn địch, chiếm kho gạo, đạn dược…

[7] Lê Quang Đức (2015). Công tác binh vận trong giai đoạn “Việt Nam hóa chiến tranh” ở chiến trường B2. Trong sách Đại thắng mùa Xuân 1975 – Sức mạnh của ý chí thống nhất Tổ quốc và khát vọng hòa bình. NXB Chính trị Quốc gia. Tr.412-417.

[8] Hồ Chí Minh Toàn tập (2005). Tập 5. NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. Tr.698

[9] Xem Lê Quang Đức. Tài liệu đã dẫn. Tr.413.

[10]Nguyễn Văn Linh (2011). Tuyển tập. Tập 1 (1962 – 1986). NXB Chính trị Quốc gia. Tr.1030 – 1031.

[11] Lê Khả Phiêu (2006). Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh là một hình ảnh tiêu biểu thể hiện sức mạnh truyền thống Đại đoàn kết dân tộc và ý chí thống nhất non sông. Trong sách: Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Con người và văn hóa trên đường phát triển. NXB Đại học Quốc gia TPHCM. Tr.11.

Tin liên quan