Lãi suất cận biên là gì

Xu hướng tiêu dùng cận biên là gì? Từ khóa được tìm kiếm rất nhiều trong thời gian gần đây. Hôm nay Isinhvien sẽ giải đáp những thắc mắc xoay quanh chủ đề này qua bài viết dưới đây nhé.

Lãi suất cận biên là gì
Xu hướng tiêu dùng cận biên

Xu hướng tiêu dùng cận biên (marginal propensity to consume) là tỷ trọng chi cho tiêu dùng trong phần thu nhập cá nhân sử dụng tăng thêm hay nói cách khác là sự phản ánh xu hướng chi tiêu phần thu nhập bổ sung.

Nó có thể thay đổi tùy thuộc vào mức thu nhập. Những người có thu nhập cao hơn có nhiều khả năng tiết kiệm hơn, trong khi những người có thu nhập thấp có nhiều khả năng chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu.

Hiệu ứng số nhân được điều khiển bởi xu hướng tiêu dùng cận biên. Khi mọi người chi tiêu một tỷ lệ cao hơn trong thu nhập của họ, đầu tư của chính phủ vào nền kinh tế sẽ trở nên hiệu quả hơn – do MPC của các quốc gia thúc đẩy.


Xu hướng tiêu dùng cận biên sẽ nằm trong khoảng từ 0 đến 1 vì nó đề cập đến phần trăm thu nhập được chi tiêu. Người tiêu dùng có thể không chi tiêu hoặc chi tiêu tất cả – nhưng thường là ở đâu đó giữa.

Mặt khác, chúng ta có xu hướng tiết kiệm cận biên, là tỷ lệ phần trăm thu nhập bổ sung mà người nhận tiết kiệm thay vì chi tiêu. Tổng hợp lại, xu hướng tiêu dùng và tiết kiệm cận biên nên cộng lại với tổng là 1.

Xu hướng tiêu dùng cận biên + Xu hướng tiết kiệm cận biên = 1

Xu hướng tiêu dùng cận biên bằng thay đổi trong tiêu dùng chia cho thay đổi thu nhập. Cụ thể là:

MPC = Sự thay đổi của mức tiêu dùng trong kỳ/ Sự thay đổi của thu nhập trong kỳ

Ví dụ: Nếu bạn nhận được khoản tiền thưởng 1.000 đô la trong năm nay, bạn sẽ có thêm 1.000 đô la so với trước đây – thể hiện sự thay đổi 1.000 đô la trong thu nhập. Bây giờ, giả sử bạn chi tiêu $500 trong số thu nhập mới này. Điều đó thể hiện sự thay đổi $500 trong chi tiêu của người tiêu dùng. Vì vậy, công thức sẽ chia chi tiêu mới (500 đô la) cho thu nhập mới (1.000 đô la), bằng 500 / 1.000 = 0,5


Ở mức thu nhập thấp, người dân có xu hướng tiêu dùng cao hơn. Điều này là do họ cần chi tiêu một tỷ lệ lớn hơn thu nhập của mình để chi trả cho các nhu cầu thiết yếu. Hàng hóa như thực phẩm, điện và tiền thuê nhà đều là những nhu cầu thiết yếu có thể chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập của họ.

Khi thu nhập tăng lên, mọi người chi tiêu với tỷ lệ thu nhập thấp hơn vì họ đã hài lòng với hàng hóa mà họ có. Trong khi chi tiêu nhiều hơn cho những thứ xa xỉ, động cơ chi tiêu thu nhập bổ sung lại thấp hơn vì nó không cần thiết để tồn tại.

Nếu thu nhập mới chỉ là được nhận một lần, hay lâu lâu mới được nhận như quà, tiền thưởng…., một số người nhận có thể xử lý điều này theo một cách khác vì thu nhập chỉ là tạm thời. Một số có thể chi tiêu toàn bộ khi họ thấy 1.000 đô la chuyển thẳng vào tài khoản ngân hàng của mình, trong khi những người khác có xu hướng tiết kiệm hơn.


Nếu sự gia tăng đó là ổn định như là tăng lương. Đối với loại hình này, mức tăng 1.000 đô la trong năm thậm chí có thể không ảnh hưởng đến hành vi của người tiêu dùng – con số này sẽ tính ra là 83 đô la một tháng. Nó có thể không được nhiều người chú ý.

Ở mức lãi suất cao hơn, người ta có động cơ tiết kiệm nhiều hơn – sau cùng, họ có thể trì hoãn việc thỏa mãn và nhận được nhiều hàng hóa hơn trong tương lai. Tuy nhiên, với lãi suất thấp hơn, việc đi vay trở nên rẻ hơn, và động cơ chi tiêu tăng lên, trong khi động cơ tiết kiệm giảm.

Khi đối mặt với giải pháp thay thế là kiếm 0,5% lãi suất hoặc mua một chiếc ô tô mới, quyết định đó dễ dàng hơn nhiều. Ngược lại, việc kiếm được lãi suất 5% khiến cho việc quyết định trở nên khó khăn hơn. Lý do là có chi phí cơ hội lớn hơn . Nếu cả hai lựa chọn là chi 20.000 đô la cho một chiếc ô tô hoặc kiếm tiền lãi – điều này sẽ tính ra lãi suất 100 đô la khi tỷ lệ là 0,5 phần trăm. Ngược lại, ở mức 5%, tiền lãi là 1.000 đô la – nghĩa là người tiêu dùng phải bỏ một tỷ lệ thu nhập lớn hơn nhiều để mua xe.


Vì vậy, ở mức lãi suất thấp hơn, mọi người có nhiều khả năng chi tiêu hơn, do đó làm tăng xu hướng tiêu dùng cận biên.

Trong thời kỳ suy thoái hoặc thời điểm không chắc chắn, mọi người có nhiều khả năng tiết kiệm hơn vì lo sợ họ có thể bị mất việc làm. Trong trường hợp như vậy, họ có thể mất nhà và không có thu nhập để nuôi gia đình. Mọi người phản ứng bằng cách tiết kiệm để chống chọi với cơn bão tiềm tàng.

Đồng thời, khi thời thế thuận lợi và nền kinh tế phát triển vượt bậc, người dân cảm thấy tự tin hơn và tăng chi tiêu.

Ở mức lạm phát cao, hàng hóa có thể tăng giá nhanh chóng. Điều này có thể tạo ra mức độ khẩn cấp giữa những người tiêu dùng muốn mua sản phẩm trước khi nó tăng giá trở lại.

Ngược lại, giảm phát có liên quan đến giá cả đang giảm. Điều này khuyến khích mọi người trì hoãn tiêu dùng và thay vào đó tiết kiệm vì giá sẽ thấp hơn trong tương lai.


Mọi người đều khác nhau khi nói đến việc tiêu tiền. Một số bảo thủ hơn và thường thích tiết kiệm, trong khi những người khác lại rất phù phiếm. Điều này có thể mở rộng từ cấp độ cá nhân đến cấp độ quốc gia. Ví dụ, Nhật Bản được biết đến với tỷ lệ tiết kiệm cao, trong khi các quốc gia như Mỹ và Anh có tỷ lệ tiêu dùng cao hơn.

Xu hướng tiêu dùng cận biên cao hơn sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế của khoản đầu tư ban đầu.

Ví dụ, nếu chính phủ đầu tư 10 triệu đô la vào nền kinh tế, số tiền đó sẽ được chuyển đến nhân viên của một doanh nghiệp. Những nhân viên đó sau đó có thể chọn chi tiêu hoặc tiết kiệm số tiền đó. Nếu họ có xu hướng tiêu dùng cao, nó sẽ được chi cho một doanh nghiệp khác. Đổi lại, những nhân viên đó cũng có thể tiết kiệm hoặc chi tiêu số tiền đó.


Những gì chúng ta có là một hiệu ứng domino kích thích nền kinh tế rộng lớn hơn – nhưng phụ thuộc vào mức độ sẵn sàng chi tiêu của mọi người. Nói cách khác, xu hướng tiêu dùng cận biên của họ.

Vì vậy, những người sẵn sàng chi tiêu càng nhiều, thì khoản đầu tư ban đầu của chính phủ sẽ có ảnh hưởng kinh tế lớn hơn.

Trên đây là những nội dung phân tích về xu hướng tiêu dùng cận biên, hi vọng bài viết sẽ giúp ích cho bạn đọc trong quá trình học tập và nghiên cứu. Truy cập chuyên mục Kế toán tài chính của Isinhvien để cập nhật những bài viết mới nhất nhé.

Chi phí sử dụng vốn cận biên (tiếng Anh: Marginal cost of capital, viết tắt: MCC) là chi phí cho đồng vốn mới nhất mà doanh nghiệp huy động tăng thêm vào đầu tư hay hoạt động kinh doanh trong cùng một thời kì nhất định.

  • 30-10-2019Dòng vốn ra (Capital Outflow) là gì? Đặc trưng của dòng vốn ra
  • 16-10-2019Vốn lưu động thuần (Net Working Capital - NWC) là gì?
  • 27-10-2019Lạm phát cơ bản (Core inflation) là gì? Tầm quan trọng của lạm phát cơ bản
  • 12-10-2019Bẫy thu nhập trung bình (Middle Income Trap) là gì?
  • 04-10-2019Lí thuyết về cung cầu vốn vay (Loanable funds theory) là gì?

Lãi suất cận biên là gì

Hình minh họa

Chi phí sử dụng vốn cận biên (Marginal cost of capital - MCC)

Định nghĩa

Chi phí sử dụng vốn cận biên trong tiếng Anh là Marginal cost of capital, viết tắt là MCC.

Chi phí sử dụng vốn cận biên hay chi phí cận biên của vốn là chi phí trung bình có trọng số của đồng vốn mới được huy động bởi một công ty.

Chi phí sử dụng vốn cận biên là chi phí cho đồng vốn mới nhất mà doanh nghiệp huy động tăng thêm vào đầu tư hay hoạt động kinh doanh trong cùng một thời kì nhất định.

Bản chất của chi phí sử dụng vốn cận biên

- Khi doanh nghiệp huy động vốn, nếu qui mô vốn huy động của doanh nghiệp gia tăng và với một mức giới hạn nhất định sẽ làm cho chi phí sử dụng vốn cận biên tăng lên.

Bởi vì, khi qui mô vốn huy động vượt qua một điểm giới hạn nhất định sẽ lầm tăng thêm rủi ro cho những người cung cấp vốn cho doanh nghiệp, vì thế khi đó người cung cấp vốn sẽ đòi hỏi một tỉ suất sinh lời cao hơn đối với số vốn gia tăng để bù đắp cho rủi ro tăng thêm mà họ có thể phải gánh chịu.

- Cần lưu ý rằng chi phí sử dụng vốn cận biên cũng chính làchi phí sử dụng vốn bình quân(WACC). Vì mỗi đồng vốn mới được huy động thêm sẽ hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau với chi phí sử dụng vốn khác nhau.

Do đó, chi phí sử dụng vốn của đồng vốn mới đó sẽ là mức chi phí trung bình của các nguồn tài trợ hợp thành trong một cơ cấu nguồn vốn tối ưu.

Ý nghĩa và kết luận

- Chi phí cận biên của bất một khoản mục nào là chi phí của một đơn vị tăng thêm của khoản mục đó. Như vậy, chi phí sử dụng vốn cận biên được định nghĩa là chi phí của đồng vốn mới cuối cùng mà doanh nghiệp huy động được, và lượng vốn được huy động càng nhiều thì chi phí cận biên càng tăng.

- Chi phí sử dụng vốn cận biên cho biết cái giá mà doanh nghiệp phải trả để có thêm một đồng vốn, và kết quả so sánh giữa chi phí cận biên và lợi ích cận biên của một đồng vốn sẽ quyết định xem doanh nghiệp có nên huy động đồng vốn đó hay không.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính;Marginal cost of capital - Chi phí cận biên của vốn, Saga)

Lãi suất cận biên là gì
Chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) là gì? Công thức xác định

05-11-2019 Giá trị tài sản ròng (Net asset value - NAV) là gì?

05-11-2019 Phương pháp tài sản (Asset-Based Approach) trong định giá doanh nghiệp là gì?