Hướng dẫn 1101 của bộ kế hoạch năm 2024

Khoảng 8 giờ sáng ngày 19/7/2022, trang www.ThuVienPhapLuat.vn có biểu hiện bị tấn công DDoS dẫn đến quá tải. Người dùng truy cập vào web không được, hoặc vào được thì rất chậm.

THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã báo cáo và nhờ sự hỗ trợ của Trung Tâm Giám sát An toàn Không gian mạng Quốc gia (NCSC), nhờ đó đã phần nào hạn chế hậu quả của cuộc tấn công.

Đến chiều ngày 20/07 việc tấn công DDoS vẫn đang tiếp diễn, nhưng người dùng đã có thể sử dụng, dù hơi chậm, nhờ các giải pháp mà NCSC đưa ra.

DDoS là hình thức hacker gửi lượng lớn truy cập giả vào hệ thống, nhằm gây tắc nghẽn hệ thống, khiến người dùng không thể truy cập và sử dụng dịch vụ bình thường trên trang www.ThuVienPhapLuat.vn .

Tấn công DDoS không làm ảnh hưởng đến dữ liệu, không đánh mất thông tin người dùng. Nó chỉ làm tắc nghẽn đường dẫn, làm khách hàng khó hoặc không thể truy cập vào dịch vụ.

Ngay khi bị tấn công DDoS, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã họp xem thời gian qua mình có làm sai hay gây thù chuốc oán với cá nhân tổ chức nào không.

Và nhận thấy mình không gây thù với bạn nào, nên chưa hiểu được mục đích của lần DDoS này là gì.

Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:

  • sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống pháp luật
  • và kết nối cộng đồng dân luật Việt Nam,
  • nhằm giúp công chúng loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu,
  • và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng nhà nước pháp quyền.

Luật sư Nguyễn Thụy Hân, Phòng Cộng Đồng Ngành Luật cho rằng: “Mỗi ngày chúng tôi hỗ trợ pháp lý cho hàng ngàn trường hợp, phổ cập kiến thức pháp luật đến hàng triệu người, thiết nghĩ các hacker chân chính không ai lại đi phá làm gì”.

Bà Đỗ Khánh Quỳnh (Thanh Hóa) hỏi, Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ và Công văn số 1101/BKHĐT-TH ngày 2/3/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn hiệu lực không? Khi nào thì các văn bản trên hết hiệu lực?

Hướng dẫn 1101 của bộ kế hoạch năm 2024
Ảnh minh hoạ

Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau:

Theo quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Công văn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư không phải là văn bản quy phạm pháp luật. Đây chỉ là văn bản hướng dẫn thực hiện về tăng cường quản lý đầu tư, phê duyệt chủ trương đầu tư, dự án đầu tư công. Hiệu lực của Chỉ thị, văn bản phụ thuộc vào từng nội dung mà nó thể hiện.

Nếu nội dung Chỉ thị, văn bản để chỉ đạo thực hiện một nội dung cụ thể của pháp luật đầu tư công mà văn bản pháp luật đó đã hết hiệu lực thì nội dung của Chỉ thị, văn bản đó sẽ hết giá trị thực hiện.

Nếu nội dung Chỉ thị, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ trong thời gian nhất định thì nội dung đó sẽ hết giá trị khi đã thực hiện xong nhiệm vụ theo yêu cầu của Chỉ thị, văn bản.

Nếu nội dung Chỉ thị, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ có tính thường xuyên không ấn định thời gian kết thúc thì nội dung đó của Chỉ thị, văn bản vẫn còn hiệu lực.

Chỉ thị số 1792/CT-TTg được ban hành khi chưa có Luật Đầu tư công và Văn bản số 1101/BKHĐT-TH được ban hành khi chưa có các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công.

Sau khi Luật Đầu tư công có hiệu lực và các Nghị định hướng dẫn được ban hành, kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020 thực hiện theo Luật Đầu tư công và các Nghị định hướng dẫn.

Để phục vụ cho việc triển khai lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư các chương trình, dự án đầu tư công, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có vă​n bản số 1101/BKHĐT-TH ngày 02/3/2015 hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan khác ở Trung ương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các cơ quan, tổ chức được giao kế hoạch đầu tư công, trong đó quy định một số nội dung chính như sau:

1. Các dự án không phải phê duyệt chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công, gồm:

- Các dự án dở dang đã được bố trí vốn đầu tư công từ kế hoạch năm 2015 trở về trước, tiếp tục triển khai theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

- Các dự án khởi công mới được bố trí kế hoạch vốn đầu tư công năm 2015, tiếp tục triển khai theo quyết định của cấp có thẩm quyền.

- Các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đưa vào danh mục theo quy định tại Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 9 tháng 11 năm 2010.

- Các dự án đã phê duyệt quyết định đầu tư trước ngày 01 tháng 01 năm 2015, chưa được bố trí vốn kế hoạch, nhưng trước thời điểm Luật Đầu tư công có hiệu lực, đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể mức vốn ngân sách trung ương, trái phiếu Chính phủ bố trí trong giai đoạn 2016-2020.

Riêng đối với các dự án đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về mặt chủ trương, nhưng chưa quyết định mức vốn đầu tư cụ thể hoặc chưa phê duyệt quyết định đầu tư, các bộ, ngành, địa phương phải hoàn thiện các thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công và hướng dẫn tại Mục II dưới đây.

- Các dự án sử dụng toàn bộ vốn cân đối ngân sách địa phương, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư, đã phê duyệt quyết định đầu tư, tổng mức đầu tư từ các nguồn vốn trên trước ngày 01 tháng 01 năm 2015, chưa được bố trí vốn kế hoạch, nhưng trước thời điểm Luật Đầu tư công có hiệu lực, đã được Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định mức vốn ngân sách cấp mình triển khai trong giai đoạn 2016-2020.

Riêng đối với các dự án đã được Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân đồng ý về mặt chủ trương, nhưng chưa quyết định mức vốn bố trí cụ thể trong giai đoạn 2016-2020 hoặc chưa phê duyệt quyết định đầu tư, các địa phương phải hoàn thiện các thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công và hướng dẫn tại Mục II dưới đây.

- Các dự án sử dụng toàn bộ vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư công, nên không yêu cầu thực hiện các quy định về lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư theo quy định này.

2. Lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công:

- Về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Hội đồng nhân dân: Tại Khoản 5, Điều 7, Luật Đầu tư công quy định Hội đồng nhân dân quyết định chủ trương đầu tư đối với một số chương trình, dự án. Tuy nhiên, để bảo đảm tiến độ xây dựng kế hoạch đầu tư công đúng thời gian quy định, Hội đồng nhân dân có thể ủy quyền cho Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định chủ trương đầu tư các chương trình, dự án này theo đề xuất của Ủy ban nhân dân cùng cấp và báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp tại Kỳ họp gần nhất.

- Đối với các chương trình đầu tư sử dụng toàn bộ vốn cân đối ngân sách địa phương, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách địa phương và các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư: trình tự, thủ tục thực hiện theo quy định tại Điều 28 của Luật Đầu tư công.

- Đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, B, C: trình tự, thủ tục đối với từng nguồn vốn khác nhau thực hiện tương ứng theo quy định tại các điều 19, 23, 25, 26, 27, 29, 30, 31, 32 và 33 của Luật Đầu tư công.

- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải xin ý kiến Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cho ý kiến trước khi:

+ Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư tất cả các dự án nhóm A sử dụng vốn đầu tư công; các dự án nhóm B và các dự án trọng điểm nhóm C sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài do địa phương quản lý.

+ Gửi hồ sơ về Bộ Kế hoạch và Đầu tư thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn đối với các dự án nhóm B và các dự án trọng điểm nhóm C sử dụng vốn ngân sách trung ương, công trái quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ.

- Đối với các dự án khởi công mới, dự kiến bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư trước ngày 31 tháng 10 năm 2015.

3. Lập, thẩm định, phê duyệt quyết định đầu tư chương trình, dự án đầu tư công

- Đối với các chương trình mục tiêu do Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư: thực hiện theo quy định tại Điều 42, Luật Đầu tư công. Trong đó, đề nghị các chủ chương trình ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ cho phép báo cáo Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư, lập báo cáo nghiên cứu khả thi theo quy định tại Khoản 1, Điều 47, Luật Đầu tư công và tổ chức thẩm định theo quy định trình Thủ tướng Chính phủ.