Đánh giá ngành ngân hàng việt nam 2023

Kể từ đầu năm 2023, dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trước những biến động liên tục của thị trường tài chính thế giới, NHNN Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt nhằm thích nghi với những biến động kinh tế quốc tế và duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng cũng như môi trường kinh tế vĩ mô trong nước. Tuy nhiên, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và hướng đi của dòng vốn tín dụng ngân hàng vẫn là những vấn đề khó đoán và cần được quan tâm trong giai đoạn tiếp theo. Để có định hướng phù hợp phát triển ngành ngân hàng Việt Nam trong nửa cuối năm 2023, việc đánh giá tình hình tài chính của các ngân hàng trong 06 tháng đầu năm vừa qua là rất cần thiết.

Nhằm mục tiêu đưa ra những phân tích chuyên sâu, toàn diện về hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2023, nhóm nghiên cứu thuộc Viện NCKH Ngân hàng thực hiện “Báo cáo Sức khoẻ tài chính ngành Ngân hàng 6 tháng đầu năm 2023”.

Báo cáo được kết cấu theo 4 phần chính. Phần 1 đánh giá khái quát về tác động toàn cầu của động thái thắt chặt tiền tệ của FED và hoạt động điều hành CSTT của Việt Nam trong nửa đầu năm 2023. Phần 2 cung cấp một bức tranh toàn cảnh về sức khỏe hệ thống ngân hàng Việt Nam, tập trung vào 05 khía cạnh hoạt động (an toàn vốn, chất lượng tài sản, năng lực quản trị, kết quả kinh doanh và thanh khoản). Sức khỏe tài chính của từng nhóm ngân hàng được phân tích cụ thể trong Phần 3. Dựa trên các phân tích và đánh giá thực trạng, Phần 4 rút ra kết luận và gợi mở các hàm ý chính sách.

Năm 2022 đã qua đi với hàng loạt điểm nhấn thể hiện sự xoay chiều về mặt chính sách. 2022 cũng là năm điểm nhấn cho nỗ lực thanh lọc thị trường chứng khoán của các nhà điều hành. Nói riêng ngành ngân hàng, dù áp lực Covid được giải tỏa sau quý 1, các nhà băng lại đối diện với những khó khăn mới trong năm nay: từ áp lực xử lý nợ xấu do dịch Covid, đến ảnh hưởng từ làn sóng thanh lọc các tập đoàn lớn, thanh lọc thị trường trái phiếu, hết room tín dụng ngay từ đầu năm, đến sự xoay chiều về mặt chính sách khi lãi suất được NHNN nâng trở lại và căng thẳng thanh khoản trong nửa cuối năm. Vậy thì làn gió thổi ngược nào sắp đến trong năm 2023? Cơ hội đầu tư với Ngành ngân hàng như thế nào?

Báo cáo mới nhất

Khuyến cáo: Các báo cáo phân tích được Vietstock phân tích hoặc thu thập từ những nguồn tin cậy. Tuy nhiên tất cả các quan điểm, luận điểm, khuyến nghị mua/bán trong báo cáo chỉ mang tính tham khảo. Vietstock không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khoản thua lỗ từ đầu tư nào do sử dụng các báo cáo phân tích này.

Theo VIS Rating, nguyên nhân là do lãi suất tiền gửi điều chỉnh về vùng lãi suất thấp nhanh hơn so với lãi suất các khoản cho vay và nhu cầu tín dụng phục hồi. Rủi ro suy giảm chất lượng tài sản từ các doanh nghiệp bất động sản đã lan truyền sang tập khách hàng cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) của ngân hàng.

CHẤT LƯỢNG TÀI SẢN CHƯA ĐƯỢC CẢI THIỆN

Điều này thể hiện rõ ở chất lượng tài sản ngành ngân hàng trong 9 tháng với tỷ lệ nợ khó đòi (NPL) tăng 0,6% lên 2,2%, đến chủ yếu từ tập khách hàng bán lẻ và SME. Nợ tái cơ cấu cũng tăng mạnh kể từ khi Thông tư 02 được ban hành vào tháng 4/2023 (chiếm khoảng 1% tổng cho vay toàn ngành tính đến cuối tháng 8 năm 2023 và đang không được phân loại là nợ xấu).

Trong đó, các ngân hàng bán lẻ và SME (như NVB, OCB, VIB, TPB, HDB) có NPL tăng đột biến thêm 1,2-8,4% đến từ các khoản cho vay tiêu dùng (vay mua nhà và mua ô tô) cũng như cho vay doanh nghiệp liên quan đến lĩnh vực bất động sản (chủ đầu tư bất động sản và xây dựng).

Các ngân hàng hoạt động mạnh trong lĩnh vực tài chính tiêu dùng như VPB và MBB cũng ghi nhận nợ quá hạn gia tăng đáng kể khi nền kinh tế tăng trưởng chậm lại, ảnh hưởng tới thu nhập và khả năng trả nợ của nhóm khách hàng có rủi ro cao.

Đáng chú ý, nhiều ngân hàng trong số này đã không tăng trích lập dự phòng khi nợ xấu gia tăng. Chi phí tín dụng trên tổng cho vay khách hàng giảm xuốn còn 0,8%- 5% trong 9 tháng từ mức 1%-6% của năm 2022 khiến cho tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu suy.

Đánh giá ngành ngân hàng việt nam 2023

Ngược lại, chất lượng tài sản của nhóm ngân hàng quốc doanh vẫn tương đối ổn định với tỷ lệ nợ xấu chỉ tăng khoảng 0,5% nhờ tập khách hàng doanh nghiệp lớn và đa dạng. Trong số các ngân hàng tư nhân, VIS Rating đánh giá ACB cho thấy sự ổn định cao về chất lượng tài sản, nhờ chính sách cho vay thận trọng.

Theo đó, VIS Rating kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu mới hình thành sẽ chậm lại do khả năng trả nợ của khách hàng dần cải thiện khi điều kiện kinh doanh khả quan hơn và mặt bằng lãi suất ở mức thấp.

ROAA CỦA CÁC NGÂN HÀNG BÁN LẺ SUY GIẢM

Báo cáo cho thấy tỷ lệ ROAA toàn ngành giảm xuống mức 1,5% trong 9 tháng năm 2023 từ mức đỉnh 5 năm là 1,7% trong năm 2022. ROAA sụt giảm dưới ảnh hưởng của việc NIM bị thu hẹp (giảm 0,5% so với cuối năm 2022) do lãi suất tiền gửi điều chỉnh lên vùng lãi suất cao nhanh hơn so với lãi suất cho vay và nhu cầu tín dụng yếu hơn sau các đợt tăng lãi suất liên tiếp trong quý 4/2022.

Trong đó, VPB và TCB ghi nhận mức sụt giảm ROAA mạnh nhất lần lượt là 1,6 và 0,7% do lợi suất tài sản suy yếu. Không giống như các ngân hàng khác có lợi suất tài sản tăng theo theo xu hướng lãi suất tăng, VPB ghi nhận lợi suất tài sản không thay đổi do chất lượng các khoản cho vay bán lẻ bị suy giảm đáng kể. Trong khi đó, TCB áp dụng lãi suất cho vay thấp hơn để hỗ trợ các chủ đầu tư bất động sản.

Ngoài ra, lợi nhuận của ABB, TPB và EIB giảm do tăng trưởng tín dụng chậm lại (tăng trung bình 3,8% trong 9 tháng 2023) và chi phí tín dụng tăng cao đến từ tập khách hàng bán lẻ và SME.

Trong khi đó, tỷ lệ ROAA cải thiện mạnh mẽ đối với STB nhờ NIM hồi phục sau khi xử lý thành công một phần tài sản tồn đọng; các ngân hàng khác được hưởng lợi nhờ tăng trưởng tín dụng cao với khách hàng doanh nghiệp (MBB, MSB) hoặc nhờ sự hồi phục của thu nhập từ mua bán chứng khoán đầu tư (ACB, OCB).

Đánh giá ngành ngân hàng việt nam 2023

Lợi nhuận của các ngân hàng quốc doanh cũng cho thấy sự ổn định hơn khi chi phí tín dụng thấp hơn nhờ tỷ lệ bao nợ xấu cao hơn đáng kể so với trung bình ngành.

Tuy vậy, VIS Rating cho rằng một số ngân hàng tư nhân sẽ khó có thể đạt được mục tiêu lợi nhuận vượt trội như kế hoạch đã đề ra, chủ yếu do tăng trưởng tín dụng thấp trong 9 tháng năm 2023. Các ngân hàng tư nhân quy mô vừa và lớn cũng sẽ gặp nhiều khó khăn dưới tác động của chi phí tín dụng tăng cao vì các ngân hàng này có dấu hiệu suy giảm chất lượng tài sản đáng kể hơn.

Các ngân hàng có ROAA cải thiện mạnh và đặt kế hoạch tăng trưởng thận trọng vẫn đang trên đà hoàn thành kế hoạch lợi nhuận cho năm 2023.

“Chúng tôi kỳ vọng lợi nhuận toàn ngành sẽ dần phục hồi trong năm 2024 nhờ NIM được cải thiện khi lãi suất tiền gửi sẽ điều chỉnh về vùng lãi suất thấp nhanh hơn so với lãi suất các khoản cho vay và nhu cầu tín dụng tăng lên trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi”, báo cáo nhận định.

Khi các khoản tiền gửi có lãi suất cao huy động trong quý 4/2022 dần đáo hạn, lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng sẽ giảm đáng kể; trong quý 3/2023, lãi suất tiền gửi 12 tháng của nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân đã lần lượt giảm về mức 5,45% và 5,7%.

Ngoài ra, tiền gửi không kỳ hạn (CASA) bắt đầu phục hồi do môi trường lãi suất thấp. Do đó, VIS dự kiến chi phí vốn của các ngân hàng sẽ điều chỉnh giảm đáng kể về mức thấp hơn. Thêm vào đó, nhu cầu tín dụng tăng trong bối cảnh nền kinh tế hồi phục sẽ góp phần làm tăng lợi suất cho vay.