Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa (CNVH) ở Việt Nam đã được đưa vào Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm 2020. Tuy vậy, để làm được điều này vẫn còn một thách thức lớn đối với các nhà quản lý văn hóa. Show Chưa có định nghĩa rõ ràng
Ngoài ra, rất khó để đánh giá về một nền văn hóa và sự phát triển của nó bởi văn hóa có mặt trong tất cả đời sống xã hội của con người. Chỉ biết rằng nền văn hóa có cái gốc, mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng. Hiện nay, tình trạng vi phạm bản quyền trong lĩnh vực âm nhạc, xuất bản diễn ra khá phổ biến (Ảnh minh họa).
Theo đó, có khoảng 11 ngành được liệt vào danh sách trong ngành CNVH gồm: Quảng cáo, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính...
Đơn cử như trong ngành điện ảnh, mỗi năm sản xuất khoảng 10 phim nhựa, nhưng chỉ có 1/10 số phim này được người xem tiếp nhận ngoài thị trường. Ngoài ra, cả nước có hơn 129 đơn vị biểu diễn nghệ thuật, trong đó có 12 đơn vị trực tiếp do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý. Chỉ tính riêng 12 đơn vị này, mỗi năm, Nhà nước đầu tư trung bình 100 tỷ đồng, nhưng trực tiếp vào vở diễn chỉ chừng 10 tỷ đồng, còn phần lớn dành cho bảo trì cơ sở làm việc, lương bổng, chính sách... Thay đổi nhận thức
Ngoài ra, vướng mắc lớn nhất vẫn là nhận thức của xã hội nói chung và giới quản lý văn hóa nghệ thuật nói riêng về tầm quan trọng của CNVH đối với nền kinh tế và đối với sự phát triển văn hóa nghệ thuật. Thậm chí, một số người đồng nhất CNVH với... thương mại hóa văn hóa nghệ thuật. Vì vậy, để phát triển CNVH, chúng ta cần thay đổi nhận thức, không nên duy trì cách nghĩ, văn hóa là văn hóa và kinh tế là kinh tế. Ngay trong yếu tố đầu vào của văn hóa (sự sáng tạo) đã phải có tư duy thị trường (đáp ứng nhu cầu, giá cả đi đôi với chất lượng, quản lý hiệu quả, có sự đánh giá từ thị trường...). Từ đó, thay đổi nhận thức của các nhà quản lý, lãnh đạo và hoạch định chính sách văn hóa. Trong đó, phải coi CNVH là một ngành sản xuất, có khả năng tạo ra các sản phẩm tinh thần cao đẹp, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Các hoạt động văn hóa văn nghệ ngày càng phát triển để nâng cao đời sống tinh thần cho người dân.
Mặt khác, phát triển CNVH tạo nên hệ thống sản xuất và phục vụ văn hóa nhiều chủng loại, cấp độ, nhiều loại hình, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng văn hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân dân. Lợi nhuận khổng lồ của CNVH đã khiến rất nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới đua nhau tham gia. Do đó, việc phát triển văn hóa thành ngành công nghiệp là một xu hướng phát triển tất yếu để tiến tới. Công nghiệp văn hóa làm nghề gì?Công nghiệp văn hóa là lĩnh vực thuộc xu hướng thứ hai. Sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành Công nghiệp văn hóa có thể làm việc trong các lĩnh vực: * Hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo, sản xuất, phân phối dịch vụ công nghiệp văn hóa (Điện ảnh, Quảng cáo, Thời trang, Thủ công mỹ nghệ, Nghệ thuật biểu diễn...)
Sân nghiệp văn hóa là gì?Sản nghiệp văn hóa là “cánh” để nền kinh tế “bay lên”, là một sản nghiệp “hạt nhân” của nền kinh tế tri thức. Trong xã hội với nền kinh tế tri thức, “giá trị văn hóa” và “giá trị sáng tạo” của mọi sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa ngày càng thêm quan trọng.
Vai trò của công nghiệp văn hóa là gì?Phát triển công nghiệp văn hóa góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, bảo tồn, tái sinh và phát huy vai trò của các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời thúc đẩy hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế của đất nước.
11 ngành công nghiệp văn hóa là gì?Hiện nay, công nghiệp văn hóa được Chính phủ Việt Nam xác định bao gồm 12 lĩnh vực: Quảng cáo, Kiến trúc, Phần mềm và các trò chơi giải trí, Thủ công mỹ nghệ, Thiết kế, Điện ảnh, Xuất bản, Thời trang; Nghệ thuật biểu diễn, Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Truyền hình và phát thanh; Du lịch văn hóa.
|