Cái chết tự nguyện tiếng anh là gì

Để giải thoát người bệnh khỏi đau đớn và chết thoải mái. Tiếng Anh ở trên có nguồn gốc từ tiếng Latin, có nghĩa là "cái chết tốt đẹp". Euthanasia có thể được chia thành nhiều loại. (1) Trợ tử nguyên chất Khi morphine được dùng với mục đích giảm bớt cái chết và đau khổ, và nó không liên quan đến việc rút ngắn cuộc sống của người bệnh. (2) Trợ tử gián tiếp Khi các biện pháp như vậy chắc chắn sẽ đẩy nhanh cái chết của người bệnh. (3) Euthanasia do thiếu sót Khi thực hiện các biện pháp y tế tích cực, cái chết của người bệnh chỉ có thể được kéo dài một chút và điều này chỉ gây đau đớn cho anh ta một cách không cần thiết. Nếu. (4) Trợ tử tích cực Khi giải thoát anh ta khỏi cái chết bằng cách chủ động giết chết người bệnh. Nó cũng được gọi là trợ tử nguyên thủy hoặc trợ tử theo nghĩa hẹp.

Tính hợp pháp của trợ tử

Trong bốn khái niệm về an tử, trợ tử nguyên chất không rút ngắn cuộc sống của người bệnh, vì vậy không có vấn đề gì trong luật hình sự. Mặt khác, khi phương thức thực hiện đẩy nhanh cái chết của người bệnh, nó đáp ứng các yêu cầu cho tội giết người hình sự (Điều 199) hoặc giết người được ủy thác (Điều 202). Trong trường hợp này, câu hỏi là trong những điều kiện an tử không phải là một tội lỗi. Trợ tử gián tiếp và trợ tử do thiếu sót thường được coi là hợp pháp. Tuy nhiên, nếu người bệnh biểu thị ý định từ chối các biện pháp y tế sẽ dẫn đến tử vong trong trường hợp trợ tử gián tiếp, hoặc muốn tiếp tục chăm sóc y tế trong trường hợp bỏ qua cái chết êm dịu, anh ta / cô ta sẽ bỏ qua. Một số người xem bệnh nhân sẽ không tha thứ cho những hành động như vậy.

Vấn đề nhất là trợ tử tích cực, nhưng một số lý thuyết có quan điểm mạnh mẽ về việc khẳng định điều này trên cơ sở chủ nghĩa duy lý hoặc chủ nghĩa nhân đạo. Tòa án Nhật Bản cho đến nay chưa bao giờ chấp nhận tuyên bố rằng một hành vi cụ thể là một cái chết hợp pháp, cả hai đều phạm tội giết người hoặc ủy thác giết người, không thể phủ nhận rằng có một cái chết hợp pháp. Trong số đó, do ảnh hưởng của các lý thuyết, có một trường hợp nổi tiếng rằng trợ tử là hợp pháp theo sáu yêu cầu sau đây là một lý thuyết chung (Quyết định ngày 22 tháng 12 năm 1962, Tòa án tối cao Nagoya). (1) Người bị bệnh không thể chữa khỏi quan điểm về kiến thức và công nghệ của y học hiện đại, và cái chết của họ sắp xảy ra, (2) Đau đớn khi nhìn thấy người bệnh, (3) Công vụ Mục đích là để giảm bớt cái chết và đau khổ của người bệnh , (4) nếu người bệnh có khả năng bày tỏ ý định của mình, thì phải có một khoản hoa hồng / sự đồng ý thực sự và (5) về nguyên tắc, bác sĩ sẽ Euthanasia là hợp pháp nếu đáp ứng tất cả sáu yêu cầu: (6) phương pháp có giá trị đạo đức. Như có thể thấy từ yêu cầu trong (4), theo quan điểm như vậy, không nhất thiết phải có sự đồng ý của người bệnh đối với trợ tử. Điều này là do vụ án nhìn thấy một cơ sở cho phép cho cái chết êm dịu trong động cơ nhân đạo của diễn viên. Trường hợp này cai trị thực hành Nhật Bản trong một thời gian dài. Tuy nhiên, tòa án không công nhận tính hợp pháp của một hành vi cụ thể, vì nó thiếu các yêu cầu của (5) và (6) đối với các trường hợp hành vi đó trở thành hợp pháp như trợ tử. Tuy nhiên, không có ví dụ về các vụ hành quyết.

Mặt khác, các học thuyết nhấn mạnh đến ý chí hay quyền của bệnh nhân là không phù hợp để cho phép họ giết vì những lý do không liên quan đến bệnh tật như chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa duy lý, mà là tính hợp pháp của trợ tử. Lập luận rằng hành động này phải được thừa nhận dựa trên sự tự nguyện của bệnh nhân để chọn một cái chết yên bình trong một cuộc đời ngắn ngủi đau đớn. Theo quan điểm này, trợ tử cho một người bệnh bất tỉnh không thể bày tỏ sự sẵn sàng chết của mình là không thể hợp pháp. Trong trường hợp Euthanasia của trường đại học Tokai, nơi một bác sĩ tại bệnh viện đại học chết theo yêu cầu của gia đình bệnh nhân bị bệnh nan y và bị bất tỉnh, chủ nghĩa an tử chủ động dựa trên ý định thực sự của bệnh nhân là bất hợp pháp (ngày 28 tháng 7 năm 1995). Theo đó, để an tử chủ động là hợp pháp, (1) bệnh nhân bị đau khổ về thể chất không thể chịu đựng được, (2) bệnh nhân không thể tránh khỏi cái chết, và giai đoạn tử vong đang đến gần (3) Có bốn yêu cầu: 4) Không có giải pháp thay thế nào khác để loại bỏ và làm giảm bớt sự đau khổ về thể chất của bệnh nhân và (4) Bệnh nhân phải bày tỏ ý định chấp nhận rút ngắn cuộc sống. lanhung. Hiện tại, điều này dường như chi phối doanh nghiệp.

Lý thuyết luật về an tử, thừa nhận tính hợp pháp của tội giết người, bất chấp sự an tử chống lại các quan điểm trên, vi phạm luật bảo vệ tuyệt đối cuộc sống của con người. Theo đó, trợ tử tích cực luôn là bất hợp pháp, nhưng trách nhiệm hình sự của nó có thể bị từ chối đặc biệt nếu không thể kết án những người đã thực hiện hành vi đó. .

Cái chết với nhân phẩm

Trong khi mục đích của trợ tử là để giải thoát người bệnh khỏi nỗi đau, mục đích làm cho người bệnh giữ được phẩm giá của con người là cái chết với phẩm giá hoặc cái chết tự nhiên. Đây là một hành động ngăn chặn các biện pháp kéo dài cuộc sống vô ích cho những người bệnh không mong muốn phục hồi và gây ra cái chết tự nhiên, và về mặt không chăm sóc y tế tích cực để kéo dài sự sống, Một khái niệm tương tự như trợ tử. Tuy nhiên, cái chết của nhân phẩm có thể được gây ra bởi các hành động như tắt máy thở. Những người bệnh như vậy thường bất tỉnh, không có khả năng bày tỏ ý định đình chỉ các biện pháp kéo dài cuộc sống và thường không cảm thấy đau đớn về thể xác. Nó khác với các loại trợ tử khác ngoài trợ tử do thiếu sót, trong một số trường hợp, chẳng hạn như trong một số trường hợp bảo tồn sự sống. Những tiến bộ gần đây trong công nghệ y tế đã giúp có thể cứu sống những bệnh nhân nguy kịch, những người trước đây vô vọng, nhưng đồng thời chỉ có những căn bệnh kéo dài suốt đời mà không hy vọng hồi phục cuối cùng. Nhiều người đã được sinh ra. Một bệnh nhân với tình trạng thực vật dai dẳng là một ví dụ điển hình. Nhiều người tranh cãi chống lại cái chết êm dịu tích cực khẳng định phẩm giá và cái chết tự nhiên. Ở Hoa Kỳ, hiến pháp Quyen rieng tu > Kể từ khi quyết định của Quinlan (được gọi là trường hợp Karen, năm 1976) rằng có quyền từ chối gia hạn cuộc sống bắt nguồn từ>, đã có nhiều tiền lệ thừa nhận cái chết như vậy. Trường hợp trợ tử của Đại học Tokai đã nói ở trên cũng nói rằng việc đình chỉ chăm sóc y tế dựa trên ý định giả định của bệnh nhân là hợp pháp. Nó cũng có hiệu lực về mặt pháp lý đối với các hướng dẫn bằng văn bản (được gọi là sống trong cuộc sống) được chuẩn bị trong trạng thái sẵn sàng và yêu cầu các biện pháp kéo dài cuộc sống của con người bị đình chỉ khi đến giai đoạn cuối. Đạo luật về cái chết tự nhiên của người Hồi giáo hay luật tương tự đã được ban hành tại hơn 40 tiểu bang. Ngay cả ở Nhật Bản, Hiệp hội Tử vong Nhân phẩm đã đề xuất Luật Đặc biệt về Chăm sóc Cuối đời với một khái niệm như vậy từ giai đoạn đầu. Tuy nhiên, bệnh nhân bất tỉnh không có ý định thực tế để thực hiện quyền từ chối điều trị. Ngoài ra, một biểu hiện của ý định trong sức khỏe không thể được nói là ở trạng thái thực vật, ví dụ. Do đó, mặc dù ở đây cần thiết cho những người khác để xác định xem sự gián đoạn của các biện pháp kéo dài cuộc sống có phù hợp với lợi ích thực sự của một người bệnh như vậy hay không, vẫn còn một câu hỏi là ai nên được trao quyền đưa ra quyết định. lanhung. Cũng có quan điểm cho rằng không được phép đình chỉ các biện pháp kéo dài cuộc sống mà bỏ qua ý chí của người bệnh. Mặt khác, một hành động không hợp pháp chỉ vì nó tuân theo ý muốn của gia đình muốn đình chỉ. Ngoài ra, mức độ mà thời gian tử vong của người bệnh sắp xảy ra, liệu có nên ngừng sử dụng các biện pháp y tế hay chỉ bị gián đoạn ở một số khu vực như tim phổi, dinh dưỡng mũi, sử dụng kháng sinh, v.v. Có nhiều vấn đề chưa được giải quyết như liệu có được phép không

Nguy cơ hủy diệt <cuộc sống không đáng sống>

Trẻ em bị thiểu năng trí tuệ nghiêm trọng, trẻ em dị tật nghiêm trọng, v.v., nên được ban cho sự giết hại thương xót do lòng trắc ẩn. Tất cả mọi người bây giờ thừa nhận rằng điều này là hoàn toàn không thể chấp nhận. Yêu cầu về nhân phẩm và cái chết tự nhiên, làm gián đoạn các biện pháp y tế và gây ra cái chết giống như con người, chỉ để bảo vệ lợi ích của anh ta phù hợp với ý chí của người bệnh, và việc giết chết sự sống không đáng sống đó là gì điều không đồng nhất. Tuy nhiên, ngay cả khi không có ý định của một người bệnh muốn chết, cái chết của nhân phẩm và cái chết tự nhiên được khẳng định. Do đó, nếu sự công nhận lợi ích của người bệnh được thực hiện một cách tùy tiện, một cuộc sống thực tế không đáng sống. Có thể là một phiền toái. Đối với những bệnh nhân có điều kiện thực vật kéo dài, người ta cho rằng ưu tiên hàng đầu là đảm bảo đủ chăm sóc y tế bằng cách tăng cường các biện pháp an sinh xã hội.
→ tử vong
Satoshi Machino

Chuyên đề: ”Một số vấn đề cơ bản về quyền được chết và vấn đề xây dựng Luật An tử tại Việt Nam”

Số Thông tin Khoa học Pháp lý (Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp) tháng 3/2011

Tác giả: Trương Hồng Quang.

Dưới đây giới thiệu một phần nghiên cứu và kết luận.

LỜI MỞ ĐẦU

Quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân là những quyền được pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia bảo vệ. Việc thực thi những quyền này phản ánh mức độ đảm bảo nhân quyền của mỗi quốc gia. Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 tại Palais de Chaillot (Pháp) đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” (Điều 3). Quyền được sống nói riêng và nhân quyền nói chung vốn là những quyền cơ bản của bất kỳ một công dân, là một trong những mục tiêu quan trọng mà các nhà xây dựng chính sách, các nhà lập pháp hướng đến. Tuy nhiên, từ đầu thế kỉ XIX, khoa học pháp lý thế giới đã chứng kiến một sự thay đổi khá đặc biệt trong nhận thức cũng như tư duy, học thuật. Đó là việc xuất hiện khái niệm về ”quyền được chết” tại những nước tư bản phương Tây – nơi mà xã hội luôn luôn biến động với những thay đổi lớn. Bên cạnh thuật ngữ quyền được chết, các nhà khoa học còn nhắc đến các thuật ngữ liên quan như: an tử (cái chết êm ả), Luật An tử,… Đối tượng chủ yếu liên quan đến quyền này là các bệnh nhân bị bệnh nan y ở giai đoạn cuối mà việc chữa trị chỉ có ý nghĩa duy trì tình trạng hiện tại chứ không thể chữa lành bệnh cho họ. Việc có nên chấp nhận cho một công dân có quyền được chết hay không, nếu cho phép thì được sử dụng quyền này trong những trường hợp nào, liệu quyền được chết có đi ngược lại quyền được sống hay không, tính chính trị trong việc công nhận quyền được chết thể hiện như thế nào,… là những vấn đề gây ra nhiều tranh cãi trong nhiều năm qua.

Xét trên bình diện khoa học pháp lý, trên thế giới, quyền được chết là một vấn đề không còn quá mới mẻ nhưng tại Việt Nam hiện vẫn chưa có những nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, ngay cả khi nhiều nước trên thế giới đã có những nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ khác nhau (xã hội, chính trị, luật học,…) nhưng cho đến nay ở các nước đó vấn đề này vẫn chưa đươc nghiên cứu toàn diện, thấu đáo và cũng như chưa đạt tới những điểm thống nhất về quyền được chết.

Nhằm giới thiệu những vấn đề cơ bản liên quan đến quyền được chết và việc xây dựng Luật An tử với mục đích góp phần hoàn thiện hệ thống quyền nhân thân và hướng đến việc sửa đổi Bộ luật Dân sự Việt Nam trong thời gian tới, Thông tin Khoa học pháp lý xin trân trọng giới thiệu với độc giả số thông tin chuyên đề ”Một số vấn đề cơ bản về quyền được chết và vấn đề xây dựng Luật An tử tại Việt Nam”. Đây là những nghiên cứu bước đầu của CN. Trương Hồng Quang, nghiên cứu viên của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc./.

Thông tin Khoa học Pháp lý.

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC CHẾT

1.1. Khái niệm quyền được chết

1.1.1. Nguồn gốc hình thành ý tưởng về quyền được chết

Từ trước đến nay, giai đoạn từ khi sinh ra đến khi chết con người vẫn luôn mong muốn được sống bình yên, thanh thản chứ không phải là khổ đau. Quyền được chết ban đầu xuất hiện với những hành vi chưa hoàn toàn mang đúng bản chất của nó mà gắn liền với khái niệm “cái chết êm ả”. Lịch sử của thuật ngữ euthanasia (Tiếng Anh) hay euthanasie (Tiếng Pháp), an tử (Tiếng Trung) mà chúng ta vẫn thường gọi là “cái chết êm ả” bắt nguồn từ một từ Hy Lạp là “euthanatos”. Trong đó, eu là tốt, thanatos là chết. Biểu hiện ban đầu của cái chết êm ả chính là trợ tử, xuất hiện đầu tiên trong lời thề Hippocrates (460 TCN – 370 TCN)[1]. Danh từ cái chết êm ả bắt đầu xuất hiện rộng rãi hơn vào thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sỹ quan tâm đến sự đau đớn của người bệnh và giúp đỡ người “gần đất xa trời” thoát khỏi thế giới này một cách nhẹ nhàng và dễ dàng hơn. Như vậy, lúc đó chưa xuất hiện khái niệm quyền được chết như khoa học hiện đại nhưng đã có những mầm mống sơ khai của khái niệm quyền được chết.

Một cái chết êm ả có thể đạt được thông qua nhiều con đường khác nhau. Một số ý kiến cho rằng việc kết thúc nhanh sự sống rõ ràng là một cách để làm giảm sự đau khổ của người bệnh. Quan niệm gốc về cái chết nhân đạo đã bị phân hóa thành hai quan điểm xung đột nhau về bản chất. Quan điểm thứ nhất cho rằng việc bảo vệ mạng sống và làm giảm đau khổ là nhiệm vụ chính của các nhà tế bần (bệnh viện). Nghĩa vụ của Nhà nước là phải hỗ trợ gia đình nâng cao khả năng duy trì cuộc sống của bệnh nhân cho đến khi kết thúc cuộc sống một cách tự nhiên nhất. Quan điểm thứ hai lại ủng hộ  tránh đau khổ cho bệnh nhân bằng cách rút ngắn cuộc sống một cách có chủ đích. Tuy nhiên, nếu theo quan điểm này các chuyên gia y tế, giáo sĩ và công chúng nói chung phải đối mặt với những câu hỏi là những hướng dẫn nào cần được sử dụng trong trường hợp này, tiến hành theo cách giảm nhẹ dần sự chăm sóc hay chấm dứt hoàn toàn sự chăm sóc/dùng các thuốc trợ tử,…?.

Quan điểm của những người ủng hộ trợ tử thụ động cho rằng nếu tiến hành như thế sẽ không vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức cũng như các giá trị tôn giáo hiện hành. Pháp luật và Tòa án các quốc gia khác nhau có những qui định và từ đó có các quyết định khác nhau về xu hướng điều trị tích cực và trợ tử thụ động. Tình hình tranh cãi về bản chất của an tử thậm chí ngày càng phức tạp hơn theo thời gian. Phần đông những người theo đạo đều lên án an tử, ngay cả trợ tử thụ động cũng bị xem là tàn nhẫn, vô nhân tính. Vì vậy, dường như ranh giới của trợ tử chủ động hay bị động đã không còn trong những cuộc tranh luận này. Và cũng vì thế, các thế lực chính trị đã tranh thủ thời cơ lợi dụng vấn đề này để mưu cầu lợi ích của đảng phái của mình cũng như lôi kéo sự ủng hộ của người dân, cử tri. Thomas More (1478-1535) – một luật sư, học giả, tác giả và chính khách người Mỹ đã khẳng định rằng sự dễ dãi trong nhận thức đã tạo thuận lợi cho những người đang sống một cuộc sống nặng nề (như bị tra tấn, kéo dài đau đớn) được kết thúc mạng sống của mình. Kể từ đầu những năm 1800, cái chết êm ả là một chủ đề của các cuộc tranh luận và hoạt động chính trị tại Mỹ, Canada, Tây Âu và Châu đại dương. Ezekiel Emanuel (sinh năm 1957, Mỹ) công tác tại Viện Y tế Quốc gia đã cho biết, thời kỳ hiện đại của cái chết nhân đạo đã được mở ra bởi sự xuất hiện của thuốc gây mê. Tại New York (Mỹ) vào năm 1828, một luật chống trợ tử đã được thông qua. Đây là lần đầu tiên luật chống trợ tử được biết đến ở Mỹ. Trong những năm tiếp theo nhiều bang khác của Mỹ cũng đã xây dựng các luật chống trợ tử tương tự.

Một vụ việc điển hình liên quan đến trợ tử đã từng diễn ra ở nước Mỹ. Đó là trường hợp của Karen Ann Quinlan vào năm 1975. Người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng hôn mê sau khi bị tai nạn ô tô và được kết luận sẽ không bao giờ phục hồi được ý thức. Các bác sĩ tin rằng cô sẽ chết nếu bị ngưng dùng máy thở oxy. Cha mẹ của cô trong hoàn cảnh tuyệt vọng vì không muốn con gái của mình kéo dài sự sống thực vật đầy đau khổ và thực sự khả năng kinh tế của gia đình cũng có hạn nên đã đề nghị Tòa án cho phép rút ống thở. Tuy nhiên Tòa án đã từ chối đề nghị này. Một cuộc chiến pháp lý đã diễn ra ròng rã suốt một năm trời sau đó và Quinlan đã được dừng máy thở vào năm 1976. Nhưng có một điều là cô vẫn sống thêm được đến 10 năm nữa, cho dù không thể hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự phục hồi ý thức cũng như cuộc sống và mất vào năm 1986 vì bệnh viêm phổi. Từ sau vụ việc này đã mở rộng đường cho trợ tử thụ động, các Tòa án của Mỹ đã thực thi nhiều phán quyết liên quan đến việc từ chối điều trị trong những trường hợp nhất định. Một số cơ quan lập pháp của một số bang ở Mỹ đã thừa nhận hoạt động trợ tử để giúp một người bệnh không phải kéo dài thời gian đau khổ hay sống đời sống thực vật.

Tiếp theo đó, đã có rất nhiều tranh cãi liên quan đến đề xuất ”cái chết theo yêu cầu” qua các vụ việc từ khắp nơi trên thế giới (Baird và Rosenbaum năm 1989; Cohen năm 1988; Gomez năm 1991; Kevorkian năm 1991; Scherer và Simon năm 1999;…). Nếu bác sĩ được phép, hoặc thậm chí yêu cầu, kết thúc cuộc sống một người bị bệnh nan y và đau khổ bằng cách tiêm thuốc độc hoặc các phương tiện tương tự thì liệu có nên được chấp nhận hay không? Những người ủng hộ quan điểm này lập luận rằng các cá nhân có quyền được chết cũng như quyền được sống. Xã hội không nên để họ sống trong đau khổ, tuyệt vọng nếu như họ thực sự không muốn sống như vậy. Đây được xem là thời điểm của việc cần có thái độ dứt khoát về việc có nên thoát khỏi truyền thống tư duy lạc hậu và chấp nhận sự kết thúc nhanh chóng cho người bệnh hay không và biến thái độ này trở nên phổ biến trên khắp thế giới.

Tới cuối thế kỷ XIX, khi con người đã tìm ra cách khống chế sự đau đớn, thuật ngữ quyền được chết không còn bó hẹp với ý nghĩa giúp bệnh nhân thoát khỏi đau đớn nữa, mà nó lại ám chỉ một hành động đặc biệt nhằm tạo ra cái chết của những bệnh nhân được coi là “vô phương cứu chữa”. Động thái này nhằm giúp bệnh nhân khỏi rơi vào tình trạng suy sụp khi ở vào giai đoạn cuối của những căn bệnh nan y. Từ khi xuất hiện đến nay, “cái chết êm ả” đã có những thay đổi khác nhau gắn liền với những phát triển của nền y khoa và văn minh nhân loại. Dần dần, khái niệm quyền được chết được ra đời, kéo theo nhiều vấn đề phức tạp và liên quan mật thiết với nhau. Thực ra, “cái chết êm ả” là kết quả sau cùng của “quyền được chết” của một cá nhân nào đó. Vì thế, quyền được chết và khái niệm cái chết êm ả đi liền, gắn bó hữu cơ với nhau. Thiết nghĩ, quyền được chết phải được nhìn nhận như một quyền của cá nhân và cần được sự quan tâm thích đáng của mọi giới khoa học, đặc biệt là y học và luật học.

1.1.2. Định nghĩa quyền được chết

Trên lý thuyết, chỉ khi một quyền được quy định trong Bộ Luật Dân sự mới được công nhận là quyền nhân thân một cách chính thức (hợp pháp hóa). Quyền được chết là một quyền thực tế nhưng hiện tại, chỉ có một số nước hợp pháp hóa nó với tư cách là quyền nhân thân. Nhiều nước, theo quan điểm của các nhà lập pháp và của các nhà khoa học đã ngầm thừa nhận quyền được chết là quyền nhân thân nhưng chưa quy định trong pháp luật của mình. Khi chưa được công nhận về mặt pháp luật, một người thực hiện hành vi nhằm hiện thực hóa quyền được chết (trợ giúp tự tử, thực hiện trực tiếp đưa bệnh nhân “ra đi” (chết)) được quy vào một số tội: giết người, giúp người khác tự sát, không cứu giúp người bị nạn…[2]

Quyền được chết, một khi đã được công nhận sẽ có các khái niệm liên quan như: trợ giúp tự tử, tình trạng bệnh giai đoạn cuối, bệnh vô phương cứu chữa, tình trạng y tế không lối thoát, an tử tự nguyện. Hà Lan là quốc gia đầu tiên công nhận hành vi tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ. Gần 10 năm sau, những hành vi như vậy mới được hợp pháp hóa trong Luật An tử. Nước này không dùng khái niệm an tử tự nguyện (voluntary euthanasia) mà chỉ dùng khái niệm an tử (euthanasia) bởi theo họ, cái chết êm ả là đã phải bao hàm sự tự nguyện, nếu không có sự tự nguyện thì không thể gọi là an tử. Sự tự nguyện ở đây cần hiểu theo hai hướng:

Ø      Tự nguyện được thực hiện cái chết êm ả khi còn tỉnh táo, có thể biểu lộ ý chí cá nhân của mình;

Ø      Tự nguyện chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp lúc rơi vào giai đoạn không ý thức, không biểu lộ được ý chí. Người này sẽ có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc chữa bệnh của bệnh nhân.

Theo chúng tôi, với những mục đích tốt đẹp của quyền được chết thì nên gọi “cái chết êm ả” là “cái chết nhân đạo” mới đúng. Khái niệm này phản ánh đúng tính chất của hành vi và tránh khỏi những suy luận hiểu nhầm không đáng có. Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về quyền được chết. Giới khoa học hầu như chỉ tập trung vào việc xem xét xem nó có phù hợp với quốc gia mình hay không. Tuy nhiên, nếu dựa vào nội dung của quyền được chết hiện nay được đa số quan điểm đồng tình và theo các đạo luật của các nước đã thông qua “cái chết êm ả” thì có thể rút ra định nghĩa quyền được chết như sau:

Quyền được chết là một quyền nhân thân của người đã thành niên đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh lý không thể cứu chữa, rơi vào tình huống y tế không lối thoát.

Qua các phân tích và định nghĩa trên có thể thấy một số đặc điểm của quyền được chết như sau:

– Quyền được chết là một quyền nhân thân của mỗi con người.

– Chủ thể có quyền này đa phần phải là người đã thành niên, đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh tật hoặc tai nạn; mục đích của quyền được chết là giúp người bệnh được kết thúc cuộc sống một cách nhanh nhất và an toàn nhất theo mong muốn.

– Hành động của quyền được chết bao gồm cả nội dung trợ tử bên trong.

– Quyền này có thể được thực hiện thông quá chính người đó hoặc người đại diện.

1.2. Phân loại phạm vi thực hiện quyền được chết

Thứ nhất, về phạm vi các loại bệnh nhân.

Đến nay, về việc phân loại bệnh nhân trong cái chết êm ả còn nhiều quan điểm khác nhau, tồn tại ở các nước đã công nhận và chưa công nhận quyền được chết. Do đó, có nhiều dạng bệnh nhân được đề cập. Tuy nhiên, giới y học hầu hết thống nhất có 2 dạng bệnh nhân:

– Những trường hợp chết não: “tình trạng toàn não bộ bị thương tổn nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được”[3]. Bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống chấm dứt.

– Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi phục. Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình (bản thân họ không còn biết khổ hay sướng). Đôi lúc người bệnh biểu lộ được ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất ý thức thường xuyên.

Nguyên nhân dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa. Bệnh nhân có thể yêu cầu trực tiếp việc thực hiện cái chết êm ả (chủ động) hoặc việc yêu cầu do người thân của bệnh nhân thực hiện (bị động).

Hà Lan còn quy định cái chết êm ả đối với trẻ em. Những bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi cũng có quyền được chết êm ả nếu có sự đồng ý của cha mẹ. Đối với trẻ trên 16 tuổi, ý kiến gia đình là không cần thiết[4]. Tuy nhiên, với những quy định này, luật quy định rất chặt chẽ và giới hạn hành vi. Nhìn chung, đa số đều chống lại an tử đối với trẻ em nên chủ yếu vẫn là 2 dạng bệnh nhân ở trên.

Thứ hai, về cách thức thực hiện

Có 2 cách thức như sau:

Thứ nhất, Cái chết êm ả chủ động:  Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân (tiêm thuốc…)

Thứ hai, Cái chết êm ả thụ động: Không điều trị. Bác sỹ ngưng mọi biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân (rút ống dẫn…).

Ngoài ra còn một hành vi là tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ. Hành vi này về mặt hình thức có điểm khác với 2 hình thức trên như: có thể chỉ là sự tư vấn, người bệnh tự rút ống dẫn… Bác sỹ không trực tiếp thực hiện hành vi mà chỉ là trợ giúp.

1.3. Tiêu chí pháp luật của quyền được chết

1.3.1. Tính hợp pháp của hành vi  

Cần phải khẳng định rằng hành vi thực hiện quyền được chết là hành vi hợp pháp trong đa số trường hợp (trừ khi pháp luật quy định cấm hành vi của quyền được chết vì chưa công nhận). Bác sỹ thực hiện hành vi của quyền được chết hoàn toàn dựa trên yêu cầu của bệnh nhân và theo những quy trình nghiêm ngặt do luật định. Như vậy, nếu luật pháp không cấm hay cho phép thì hành vi thực hiện quyền được chết là hoàn toàn hợp pháp và cần phân biệt nó với các hành vi khác có liên quan để tránh sai sót trong việc xét xử các vụ án.

1.3.2. Phân biệt hành vi thực hiện quyền được chết với các hành vi khác có liên quan

Một trong những lý do để có nhiều tranh cãi về quyền được chết là nhận thức sai về hành vi của bác sỹ trong việc thực hiện cái chết êm ả. Chúng ta có thể phân biệt nó với các hành vi sau:

Thứ nhất, hành vi tự sát.

Hành vi thực hiện quyền được chết có thể được tiến hành bởi chính bác sỹ và chính bệnh nhân (dưới sự trợ giúp của bác sỹ). Việc thực hiện tự sát do bác sỹ thực hiện rõ ràng hoàn toàn khác vói việc tự sát do chính chủ thể thực hiện. Hình thức tự sát do chính tay bệnh nhân thực hiện có sự hỗ trợ của bác sỹ có điểm phân biệt với hành vi tự sát là điều kiện sống của bệnh nhân đó không được đảm bảo nữa do đang ở giai đoạn cuối của bệnh vô phương cứu chữa, chịu nhiều đau đớn. Còn hành vi tự sát do chính người tự sát thực hiện và có thể do sự quẫn bách về tinh thần hay sai lệch về ý chí, không chỉ đơn thuần gắn với quyền được chết. Nếu một bệnh nhân mắc bệnh vô phương cứu chữa tự mình tìm đến cái chết, không có sự trợ giúp của bác sỹ hay của ai đó thì không hội tụ đủ những yếu tố cấu thành việc thực hiện quyền được chết. Do đó, hành vi này cũng chỉ được coi là hành vi tự sát.

Thứ hai, đối với Tội giúp người khác tự sát.

Điều 101 Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 1999 có quy định Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát[5]. Về hành vi xúi giục người khác tự sát rõ ràng khác hành vi thực hiện quyền được chết bởi trong việc thực hiện quyền được chết, bác sỹ chỉ làm theo yêu cầu của bệnh nhân chứ không xúi giục bệnh nhân. Do đó, chúng ta chỉ phân biệt hành vi thực hiện quyền được chết với hành vi giúp người khác tự sát. Về hình thức, hành vi giúp người khác tự sát có nhiều loại và đa dạng về chủ thể. Ví dụ: một người sống thực vật bằng bình dưỡng khí yêu cầu được chết chỉ cần rút bình ôxy ra khác xa với việc giúp một người thắt cổ tự tử. Chủ thể thực hiện việc kết thúc sự sống của bệnh nhân để người này thực hiện quyền được chết phải là bác sỹ, còn trong việc giúp người tự sát thì phạm vi chủ thể tham gia thực hiện rộng hơn nhiều. Hơn nữa, điều kiện tình trạng của bệnh nhân trong quyền được chết là điểm mấu chốt để phân biệt với các hành vi khác.

Thứ ba, đối với Tội giết người.

Trong hành vi giết người, cái chết xảy ra không có sự đồng ý của nạn nhân còn trong hành vi của bác sỹ khi giúp một người thực hiện quyền được chết thì có sự đồng ý của bệnh nhân. Tuy nhiên, ở các nước chưa hợp pháp hóa quyền được chết, việc bác sỹ thực hiện an tử theo yêu cầu của bệnh nhân/gia đình của bệnh nhân thường bị xem là hành vi giết người, đi ngược lại với chức năng của một người thầy thuốc. Bên cạnh đó, tại Hoa Kỳ đã có những trường hợp Tòa án xét xử bác sỹ thực hiện hành vi có liên quan đến an tử với tội danh giết người (cho dù bệnh nhân có giấy đề nghị yêu cầu bác sỹ thực hiện an tử). Nguyên nhân của những vấn đề này có thể xuất phát từ quan niệm của các nước có sự nhìn nhận sai lầm về bản chất của an tử.

Cũng có quan điểm cho rằng, tình tiết tăng nặng “giết người thuê” tại điểm m, khoản 1, Điều 93 Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999[6] có điểm giống với hành vi của quyền được chết. Thực chất không khó để phân biệt hành vi giết người với hành vi thực hiện quyền được chết bởi người giết thuê thực hiện hành vi này vì lợi ích của bản thân, còn trong việc giúp thực hiện quyền được chết, người thực hiện phải là bác sỹ, vì mục đích tốt đẹp, theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật hiện hành.

Thứ tư, hành vi theo Luật phòng, chống nhiễm virút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) (Luật phòng, chống HIV/AIDS) năm 2006 của Việt Nam.

Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 của Việt Nam quy định quyền của người nhiễm HIV: “từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh AIDS giai đoạn cuối”[7]. Có nhiều người cho rằng đây là một dạng của cái chết êm ả nhưng đây là quan điểm không đúng. Tuy cũng vì mục đích nhân đạo, không để người bệnh trải qua những đau khổ quá lớn đối với khả năng chịu đựng của họ nhưng điều khoản này không giống với luật “cái chết êm ả” đã được thực hiện ở một số nước. Trong quy định này của Luật Phòng, chống HIV/AIDS, y, bác sỹ không chủ động ngừng cuộc sống của bệnh nhân mà chỉ chấp thuận theo nguyện vọng thôi điều trị của họ, để họ không kéo dài những ngày tháng đau đớn về thể xác. Hành vi này cũng giống với việc người thân của người bệnh sắp chết xin bệnh viện cho đưa về nhà. Việc này khác quyền được chết. Bệnh viện không vi phạm pháp luật nếu bệnh nhân không còn hy vọng gì nữa, gia đình cũng không có khả năng kinh tế để tiếp tục điều trị nên xin cho về nhà tìm cách khác hay ngừng chữa trị và có cam kết rằng: bệnh viện sẽ không chịu trách nhiệm nếu có bất cứ chuyện gì thì bệnh viện không phạm luật trong trường hợp này. “Y tế cho về nhà không phải cho bệnh nhân chết mà là vì quan hệ tình cảm giữa người sắp chết với người thân: gặp lần cuối, có chết thì chết ở nhà, vấn đề tín ngưỡng, tập quán”[8]… Đây cũng là một điểm tiến bộ của Luật phòng, chống HIV/AIDS của Việt Nam so với thế giới.

Việc phân biệt như trên rất có ý nghĩa trong thời điểm hiện nay khi hầu hết các quốc gia đều chưa cho phép và thông qua luật về quyền được chết. Việc phân biệt này càng có ý nghĩa trong việc nghiên cứu, xây dựng Luật An tử.

1.4. Ý nghĩa của vấn đề thực hiện quyền được chết hiện nay

1.4.1. Ý nghĩa pháp lý

Từ khi khái niệm quyền được chết ra đời đến nay đã có rất nhiều cuộc chiến pháp lý trên thế giới. Công nhận hay không công nhận quyền được chết là một vấn đề lớn và đặc biệt gây nhiều tranh cãi. Việc giải quyết vấn đề thừa nhận quyền được chết có ý nghĩa sau: Thứ nhất, nếu quyền được chết chưa được công nhận thì những những cuộc chiến pháp lý vẫn kéo dài. Các vụ việc liên quan đến quyền được chết luôn rơi vào bế tắc, không lối thoát do tồn tại những quan niệm chưa đầy đủ về việc thực hiện quyền được chết. Một thực tế nữa là các vụ việc về thực hiện cái chết êm ả không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y học mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác dẫn đến nhiều phức tạp; Thứ hai, quyền được chết nếu được công nhận thì thực tiễn pháp luật sẽ không phải hứng chịu những cuộc chiến không lối thoát do những người muốn được chết êm ả thực hiện hành vi tự sát bởi sự trợ giúp của bác sỹ. Khi pháp luật đã có quy định cho phép thực hiện hành vi của quyền được chết, việc xét xử các vụ án có liên quan trở nên dễ dàng hơn. Quan trọng nhất là sẽ hạn chế đi những trường hợp xét xử không đúng với bản chất vụ án.

1.4.2. Ý nghĩa xã hội

Hành vi thực hiện quyền được chết có ý nghĩa xã hội rất lớn với những mục đích hết sức tốt đẹp. Khi sự sống của bệnh nhân không còn được đảm bảo: mắc bệnh vô phương cứu chữa, đang phải chịu đựng đau đớn kéo dài… thì an tử theo yêu cầu là cách thức hợp lý nhất. Việc này không chỉ tốt cho bệnh nhân mà còn tốt cho gia đình, xã hội. Người bệnh được ra đi thanh thản, chấm dứt những ngày tháng chịu đựng đau đớn. Gia đình bệnh nhân không phải chịu những tốn kém không đáng có và xã hội tránh được các cuộc tranh luận lâu dài, gay gắt về vấn đề này. Đó là ý nghĩa của một “cái chết nhân đạo”.

MỘT SỐ KẾT LUẬN

Thứ nhất, qua nghiên cứu cho thấy, quyền được chết là một vấn đề rất nhạy cảm, nhất là về mặt chính trị. Vì vậy, việc tìm hiểu, đánh giá quyền này cần được xem xét thận trọng từ nhiều khía cạnh khác nhau. Đời sống xã hội luôn có những biến động mà các nhà nghiên cứu cần thường xuyên quan sát để thu thập những dữ liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, đánh giá. An tử, quyền được chết không phải là vấn đề thời đại hiện nay nhưng bản thân chúng là vấn đề khó: khó lý giải, khó thuyết phục và khó được chấp nhận. Bên cạnh đó, hướng nghiên cứu về quyền được chết cần được nhân rộng hơn nữa ở các quốc gia đang phát triển, các quốc gia Châu Á như Việt Nam bởi thực sự việc bảo vệ, nâng cao nhân quyền luôn là vấn đề đang ngày càng được quan tâm.

Thứ hai, qua quá trình nghiên cứu đã xây dựng được khái niệm quyền được chết và thu được những kết quả nhất định cho mục đích tìm hiểu về quyền được chết. Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định việc xây dựng Luật An tử ở Việt Nam là vấn đề tương lai và thực sự cần rất nhiều điều kiện đảm bảo. Quyền được chết, dù có triển vọng được nhiều quốc gia công nhận là quyền nhân thân, vẫn là một chặng đường còn khá dài ở phía trước. Tuy nhiên, thực tế cũng đã chứng minh rằng số lượng các nước chấp thuận quyền được chết và xây dựng Luật An tử đang có xu hướng tăng dần trong các năm qua. Dĩ nhiên, ngay tại các quốc gia này, cuộc đấu tranh lập pháp cũng như chính trị đã diễn ra rất mạnh. Điều đó cũng chứng minh cho chúng ta thấy rằng, chấp nhận quyền được chết như một quyền nhân thân không phải là vấn đề đơn giản song không phải là không có triển vọng thực tế.

Thứ ba, những vấn đề đặt ra dưới góc độ lý luận khi tiếp tục nghiên cứu vấn đề quyền được chết. Đây là những vấn đề có tính chất gợi mở cho những hướng nghiên cứu trong thời gian tới về vấn đề khá phức tạp này:

– Nghiên cứu phát triển nền văn hoá về sinh tử: an tử và trợ tử. Có thể nhận thấy, nếu như sự sống của con người cần có văn hóa thì sự chết cũng cần có văn hóa. Văn hóa được thể hiện trong việc tuân thủ pháp luật liên quan đến an tử, xem xét đầy đủ dưới mọi khía cạnh, góc độ gia đình, xã hội để đi đến quyết định kết thúc cuộc sống của bản thân mình. Một nền văn hóa toàn diện nên có sự thống nhất từ sự sống đến sự chết.

– Chuẩn bị những khía cạnh tâm lý cho các nhà lập pháp, cho các bác sỹ trong việc thực hiện quyền được chết. Đây là một quá trình phức tạp cho đến nay chưa được nghiên cứu toàn diện được trong điều kiện hiện tại ở Việt Nam. Yếu tố tâm lý của các đối tượng ở đây bị tác động bởi rất nhiều vấn đề: chính trị, đảng cầm quyền, sức ép dư luận, điều kiện kinh tế, xã hội,… Mỗi xã hội với mỗi chế độ chính trị và đặc thù xã hội khác nhau sẽ dẫn đến những tâm lý khác nhau của các chủ thể khác nhau. Nếu như phân định được những dạng tâm lý này sẽ góp phần rất lớn vào việc xây dựng các quy định về an tử.

– Nâng cao vấn đề nhân quyền, hoàn thiện chế định quyền nhân thân. Nghiên cứu quyền được chết cũng chính là nghiên cứu hoàn thiện chế định quyền nhân thân trong hệ thống pháp luật dân sự của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc nghiên cứu phải luôn đặt trong mối quan hệ với quyền nhân thân, hướng theo những đặc điểm của quyền nhân thân.

[1] Euthanasia in history, euthanasia.com.

[2] Sẽ làm rõ hơn ở phần sau.

[3] Theo khoản 9, điều 3, Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác Việt Nam ngày 29/11/2006.

[4] Theo Vnexpress.net ngày 11/04/2001.

[5] Theo Bộ Luật Hình sự 1999, NXB.Chính trị quốc gia năm 2006.

[6] Xem Bộ Luật Hình sự 1999, tlđd

[7] Xem điểm đ, khoản 1, Điều 4, Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 của Việt Nam.

[8] Trích bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ online ngày 24/11/2004 của PGS.TS Trương Văn Việt (Giám đốc bệnh viện Chợ Rẫy, TP.Hồ Chí Minh).

Explore posts in the same categories: Bài viết tại các Hội thảo, Chuyên đề khoa học, Bài đăng Tạp chí chuyên ngành, Luật Dân sự, Pháp luật Dân sự