Cách trình bày Quốc hiệu, tiêu ngữ

Quốc hiệu, tiêu ngữ là một trong những thành phần chính của văn bản hành chính theo khoản 2 Điều 8 Nghị định 30/2020/NĐ-CP. Trong đó, văn bản hành chính là văn bản hình thành trong quá trình chỉ đạo, điều hành, giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức.

Cụ thể:

- Quốc hiệu “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”: Trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 - 13, kiểu chữ đứng, đậm và ở phía trên cùng, bên phải trang đầu tiên của văn bản.

- Tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”: Trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ 13 - 14, kiểu chữ đứng, đậm và được canh giữa dưới Quốc hiệu.

Cũng tại Điều 2 Nghị định 30/2020, đối tượng áp dụng quy định nêu trên là: cơ quan, tổ chức Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Có thể thấy, quốc hiệu, tiêu ngữ là hai trong số những thành phần chính trong văn bản hành chính của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước; tổ chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức xã hội…

Mọi hợp đồng bắt buộc phải có quốc hiệu, tiêu ngữ? (Ảnh minh họa)

Không có tiêu ngữ, quốc hiệu, hợp đồng có bị vô hiệu?

Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Theo đó, giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể (căn cứ Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Đặc biệt, nếu Luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Đồng thời, về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, Điều 117 Bộ luật này khẳng định:

1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Như vậy, hình thức của hợp chỉ là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực nếu Luật có quy định. Hiện nay, tại các văn bản pháp luật khác không có yêu cầu hợp đồng phải bắt buộc có quốc hiệu, tiêu ngữ. Do đó, việc hợp đồng không có quốc hiệu, tiêu ngữ không phải điều kiện làm hợp đồng vô hiệu.

Ngoài ra, căn cứ Điều 129 Bộ luật Dân sự, giao dịch dân sự vi phạm quy định về hình thức sẽ bị vô hiệu trừ 02 trường hợp sau đây:

- Hợp đồng không đúng quy định của Luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ thì nếu có yêu cầu (một bên hoặc các bên), Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

- Hợp đồng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Khi đó, các bên không phải công chứng, chứng thực.

Căn cứ các quy định này, việc không có tiêu ngữ, quốc hiệu không phải điều kiện để hợp đồng vô hiệu. Do đó, khi hợp đồng không có quốc hiệu, tiêu ngữ nhưng nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội thì hợp đồng đó vẫn sẽ có hiệu lực.

Nếu còn vấn đề vướng mắc, bạn đọc vui lòng liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ.

>> Hợp đồng công chứng chỉ điểm chỉ thì có hiệu lực không?

Một số vướng mắc trong trình bày thể thức văn bản quản lý nhà nươc 

Thể thức văn bản quản lý nhà nước là tập hợp các thành phần cấu thành văn bản, bao gồm những thành phần chung áp dụng đối với các loại văn bản và các thành phần bổ sung trong những trường hợp cụ thể hoặc đối với một số loại văn bản nhất định. Quá trình xây dựng, ban hành văn bản quản lý nhà nước, bên cạnh phải đảm bảo đúng về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng thì đảm bảo về thể thức cũng một yêu cầu quan trọng, góp phần đảm bảo tính pháp lý của văn bản quản lý nhà nước.

Hiện nay, hệ thống văn bản quản lý nhà nước do các cơ quan, tổ chức, đơn vị tham mưu soạn thảo hoặc ban hành có hai loại là văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính. Đối với văn bản quy phạm pháp luật quá trình soạn thảo, ban hành phải tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là Nghị định số 34). Đối với văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch thì tuân thủ quy định tại Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (gọi tắt là Nghị quyết số 351). Đối với văn bản hành chính nhà nước (bao gồm văn bản của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân) cần tuân thủ quy định tại Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính (gọi tắt là Thông tư số 01). Thời gian qua, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, đơn vị đã ban hành hoặc tham mưu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản đảm bảo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền, góp phần nâng cao chất lượng văn bản. Tuy nhiên, quá trình thực hiện có một số vướng mắc sau: Thứ nhất, về Quốc hiệu và Tiêu ngữ Quốc hiệu và Tiêu ngữ là thành phần đầu tiên trong thể thức văn bản quản lý nhà nước. Thành phần có vai trò vô cùng quan trọng, vì đây là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ biểu thị về chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức trong ngoại giao. Bên cạnh đó, Quốc hiệu và Tiêu ngữ là dấu hiệu quan trọng để phân biệt văn bản của cơ quan nhà nước với văn bản của các tổ chức khác. Hiện nay, quy định về cách trình bày đối với Quốc hiệu và Tiêu ngữ là chưa thống nhất giữa Nghị định số 34, Nghị quyết số 351 và Thông tư số 01, cụ thể: Tại Thông tư số 01 quy định “Quốc hiệu ghi trên văn bản bao gồm 2 dòng chữ: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Cách trình bày dòng thứ nhất: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm; dòng thứ hai: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được trình bày bằng chữ in thường, kiểu chữ đứng, đậm; cỡ chữ từ 13 đến 14. Tuy nhiên, tại Nghị định số 34 quy định: Phần mở đầu của văn bản gồm: Quốc hiệu, Tiêu ngữ. Quốc hiệu là: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”. Quốc hiệu được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm. Tiêu ngữ là: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Tiêu ngữ được trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng, đậm. Tại Nghị quyết số 351 quy định: Quốc hiệu là: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”; Tiêu ngữ là: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Quốc hiệu được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ 12, kiểu chữ đứng, đậm; Tiêu ngữ được trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ 14, kiểu chữ đứng, đậm, đặt canh giữa phía dưới Quốc hiệu. Như vậy, Thông tư 01 không tách riêng về Quốc hiệu và Tiêu ngữ mà quy định chung là Quốc hiệu cho cả hai thành phần trên. Đối với Nghị định số 34 và Nghị quyết số 351 quy định Quốc hiệu và Tiêu ngữ riêng, song về trình bày kiểu chữ, cỡ chữ là không thống nhất với nhau. Thứ hai, về căn cứ để ban hành văn bản Căn cứ để ban hành văn bản quản lý nhà nước là các văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có hiệu lực pháp lý cao hơn đang có hiệu lực pháp luật. Đây cũng là thành phần quan trọng để xem xét nội dung văn bản có hợp hiến, hợp pháp và hợp lý hay không. Tuy nhiên, hướng dẫn cách trình bày về căn cứ để ban hành văn bản quản lý nhà nước cũng chưa thống nhất. Thông tư 01 quy định: Phần nội dung (trong đó có căn cứ ban hành văn bản) được trình bày bằng chữ in thường kiểu chữ đứng; cỡ chữ từ 13 đến 14; sau mỗi căn cứ phải xuống dòng, cuối dòng có dấu “chấm phẩy”, riêng căn cứ cuối cùng kết thúc bằng dấu “phẩy”.” Tại Nghị định số 34 quy định: Căn cứ ban hành văn bản được thể hiện bằng chữ in thường, kiểu chữ nghiêng, cỡ chữ 14, trình bày dưới phần tên của văn bản; sau mỗi căn cứ phải xuống dòng, cuối dòng có dấu chấm phẩy (;), dòng cuối cùng kết thúc bằng dấu chấm(.).

Từ những vấn đề không thống nhất như trên, đã gây không ít khó khăn trong quá trình tham mưu để cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản. Do vậy, đề nghị cơ quan nhà nước cơ thẩm quyền xem xét, có sự hướng dẫn thống nhất về thể thức văn bản quản lý nhà nước, từ đó để có cách hiểu và trình bày thống nhất trong xây dựng và soạn thảo văn bản quản lý nhà nước, đảm bảo tính nghiêm túc, trang trọng của văn bản quản lý nhà nước.

Luật gia: Trần Tiến Hải
Trường Chính trị Quảng Bình

Đối với mỗi quốc gia, Quốc hiệu là tên gọi đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế. Trong khi đó Tiêu ngữ thể hiện mục tiêu mà quốc gia đó hướng tới trên con đường xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết này sẽ tìm hiểu về những quy định của pháp luật Việt Nam về việc sử dụng Quốc hiệu và Tiêu ngữ.

Căn cứ pháp lý

– Nghị quyết 351/2017/UBTVQH14.

1. Quốc hiệu là gì?

Quốc hiệu là Tên gọi chính thức của một nước, một quốc gia.

Quốc hiệu tiếng Anh là: “National name”.

2. Quốc hiệu Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử:

Văn Lang: Tồn tại 2671 năm (2876 trước CN – 258 trước CN. Được coi là quốc hiệu đầu tiên cho Việt Nam.

Âu Lạc: Năm 257 trước công nguyên, nước Âu Lạc được dựng lên, từ liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt.

Vạn Xuân: Là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602.

Đại Cồ Việt: Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.

Cách trình bày Quốc hiệu, tiêu ngữ

Đại Việt: Là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 743 năm.

Đại Ngu: Là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ, từ năm 1400. Chữ Ngu ở đây có nghĩa là “sự yên vui, hòa bình”.

Việt Nam: Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt. Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn. Quốc hiệu này được tuyên phong vào năm 1804.

Tuy nhiên trên thực tế thời kỳ đó, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề Việt Nam thế chí và đầu thế kỷ 15 trong cuốn “Dư địa chí” đã thấy nhiều lần nhắc đến hai chữ “Việt Nam”. Điều này còn được đề cập rõ ràng trong những tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh… Đặc biệt, bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan”.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam từ 1945 đến 1954. Tên Quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng đế Bảo Đại ký với Pháp ngày 8/3/1949. Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại và thành lập nên cái gọi là chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng. Ngày 2/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí lấy tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định quốc hiệu đó, đưa nó trở thành chính thức cả về pháp lý lẫn trên thực tế và vẫn được sử dụng cho đến nay.

3. Tiêu ngữ là gì?

Tiêu ngữ là một cụm từ tóm tắt mục tiêu, động lực hoặc ý định chung của một nhóm xã hội hoặc tổ chức.

Tiêu ngữ tiếng Anh là :“Crest”

4. Ý nghĩa của tiêu ngữ Việt Nam:

Tiêu ngữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam từ 1945 đến nay (từ Việt Nam dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vẫn không thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại.

Hồ Chủ tịch gọi đó là “ba chính sách”. Người phát biểu: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém”. Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

“Độc lập” là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, tức là phải “tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình đi”. “Độc lập” theo con đường cách mạng triệt để là “làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”, “nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do, bình đẳng giả dối”. Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân… xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hòa và thống nhất độc lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”

Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thượng.

“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến… Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hòa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho con người trở thành quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung.

Như vậy để lý giải hiểu tại sao 6 chữ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” cần có gạch nối 3 từ không thể tách biệt, như là điều kiện và mục đích của nhau vậy. Kể từ năm 1945, đó là nhiệm vụ và quyền lợi của “tất cả đồng bào Việt Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do”.

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc chính những quyền làm người cao cả nhất theo Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền con người, song những quyền đó chỉ được thực thi trong một quốc gia độc lập.

Độc lập, tự do, hạnh phúc là khát vọng cháy bỏng, đồng thời cũng là quyền của mỗi con người, của mỗi dân tộc. Xuyên suốt hàng ngàn năm dựng xây gắn liền với bảo vệ đất nước Việt Nam, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc luôn là khát vọng, là nỗ lực phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ. Với Việt Nam, sau 75 năm qua từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 đến nay, Độc lập – Tự do – Hạnh phúc luôn xuất hiện cùng quốc hiệu Việt Nam, khẳng định giá trị lớn lao và ý nghĩa trường tồn của 6 chữ quý báu này; và Hạnh phúc hiện đang được coi là một điểm nhấn trong Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

5. Quy định về sử dụng Quốc hiệu và Tiêu ngữ:

Quy định về sử dụng Quốc hiệu

Quốc hiệu là: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”.

Quốc hiệu được trình bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm và ở phía trên cùng, bên phải trang đầu tiên của văn bản.

Quy định về sử dụng Tiêu ngữ

Tiêu ngữ là: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”.

Tiêu ngữ được trình bày bằng chữ in thường, cỡ chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng, đậm và ở liền phía dưới Quốc hiệu; chữ cái đầu của các cụm từ được viết hoa, giữa các cụm từ có gạch nối (-), có cách chữ; phía dưới có đường kẻ ngang, nét liền, có độ dài bằng độ dài của dòng chữ.

Mọi hợp đồng có cần quốc hiệu tiêu ngữ?

Căn cứ tại điều 117 Bộ luật dân sự về điều kiện để hợp đồng có hiệu lực cần :

– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.

– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, hình thức của hợp chỉ là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hiện nay, tại các văn bản pháp luật khác không có quy định về việc hợp đồng phải bắt buộc có quốc hiệu, tiêu ngữ. Do đó, việc hợp đồng không có quốc hiệu, tiêu ngữ không phải điều kiện làm hợp đồng vô hiệu.