Các nước có nên văn hóa mạnh nhất năm 2024
PHÁT HUY TỐI ĐA LỢI THẾ CỦA NGOẠI GIAO NGHỊ VIỆN, ĐƯA VIỆT NAM ĐẾN GẦN HƠN VỚI BẠN BÈ QUỐC TẾ (Phần 2) GÓC NHÌN: NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHẤT LƯỢNG CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI, NHẤT LÀ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI HOẠT ĐỘNG CHUYÊN TRÁCH TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN GÓC NHÌN: BÀN VỀ TIÊU CHÍ VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA TRONG LĨNH VỰC THỂ DỤC THỂ THAO Thế giới đang ở trong một giai đoạn đặc biệt đối với sự phát triển văn hóa. Bên cạnh những vấn đề muôn thủa như bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phù hợp với từng bối cảnh cụ thể, phát triển văn học, nghệ thuật thể hiện giá trị dân tộc và tinh thần thời đại,... thì nhiều vấn đề mới của văn hóa đang đặt ra những yêu cầu mới cho sự phát triển văn hóa như quan tâm đến tính đa dạng của văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa, văn hóa số... đang dần trở thành những xu hướng chính, chi phối không chỉ sự phát triển văn hóa mà còn kinh tế - xã hội của một quốc gia. Đây vừa là thời cơ, đồng thời là những thách thức cho tất cả quốc gia trên thế giới. Tính toán và tìm lời giải phù hợp cho những xu hướng này sẽ quyết định tương lai của đất nước. Đề cao sự tôn trọng tính đa dạng của văn hóa và đóng góp của văn hóa vào sự phát triển bền vững. Thế giới ngày nay chú trọng vào việc bảo vệ và thúc đẩy đa dạng văn hóa. Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy các biểu đạt đa dạng của văn hóa thể hiện sự đồng thuận tập thể đối với xu hướng này. Công ước 2005 nhấn mạnh đến quyền của các cộng đồng trong việc quyết định quá khứ, hiện tại và cả tương lai của chính họ, và các cộng đồng khác cần phải tôn trọng những quyết định này. Tư tưởng xuyên suốt này dần thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, ở cả bình diện quốc gia, cộng đồng và cá nhân. Điều này được cụ thể hóa ở các nỗ lực đang được thực hiện để bảo vệ ngôn ngữ, truyền thống, và tập quán của các cộng đồng dân tộc thiểu số, cũng như ở những biểu hiện cụ thể như các phong trào đòi quyền tự do cho người bản địa, người chuyển giới, LGBT. Bên cạnh đó, xu hướng nhấn mạnh đóng góp của văn hóa vào sự phát triển bền vững thể hiện thông qua một loạt các cách mà văn hóa có thể ảnh hưởng tích cực đến các khía cạnh của sự phát triển xã hội, kinh tế và môi trường. Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, bao gồm cả kiến trúc, di tích hay các phong tục tập quán, giúp duy trì bản sắc văn hóa của các cộng đồng. Việc bảo tồn di sản văn hóa không chỉ tôn vinh quá khứ mà còn giúp tạo nên nền tảng cho tương lai bền vững. Trong khi đó, nghệ thuật và sáng tạo có thể được sử dụng để thể hiện thông điệp về phát triển bền vững và tạo ra nhận thức về các vấn đề môi trường và xã hội. Văn nghệ sĩ thường sử dụng tác phẩm của mình để tạo ra sự nhận thức và khuyến khích thay đổi tích cực cho công chúng trong xã hội. Ví dụ như phim Ký sinh trùng (Parasite) (2019) của Bong Joon-ho đã đạt được thành công quốc tế và giành giải Oscar cho Phim hay nhất. Bằng cách tạo ra một câu chuyện về bất bình đẳng xã hội và khía cạnh kinh tế của xã hội, phim đã tạo ra một sự nhận thức về khoảng cách giàu nghèo và khuyến khích mọi người suy nghĩ về bản chất xã hội. Ca khúc Formation của Beyoncé (2016) không chỉ là một tác phẩm âm nhạc, mà còn là một tuyên ngôn về tình hình người Mỹ gốc Phi và vấn đề phân biệt chủng tộc. Beyoncé sử dụng lời bài hát và video âm nhạc để tạo ra sự nhận thức về vấn đề này và khuyến khích tư duy tích cực về sự đa dạng và công bằng. Phim tài liệu "The Social Dilemma" (2020) nói về tác động tiêu cực của mạng xã hội và công nghệ thông tin lên cuộc sống của con người. Bằng cách phân tích cách mà các nền tảng trực tuyến ảnh hưởng đến tư duy và hành vi của con người, bộ phim này đã tạo ra sự nhận thức về vấn đề quan trọng và khuyến khích mọi người cân nhắc về cách chúng ta sử dụng công nghệ. Hay cuốn sách "The Hate U Give" của Angie Thomas (2017) đã thức tỉnh xã hội về nạn bạo lực của cảnh sát và phân biệt chủng tộc thông qua câu chuyện của một cô gái trẻ, từ đó, khuyến khích thay đổi suy nghĩ về vấn đề này trong xã hội. Trong chiến lược xuất khẩu văn hóa của mình, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương phương pháp hóa, tự do hóa ngành thời trang, mỹ phẩm, âm nhạc, điện ảnh, đưa Hàn Quốc trở thành trung tâm mua sắm, nghe nhìn của cả châu lục, thậm chí vươn tầm ra toàn cầu. Không chỉ có như vậy, văn hóa có thể đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhận thức về các vấn đề như biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và bình đẳng xã hội. Từ việc sử dụng các loại hình nghệ thuật đến các chiến dịch truyền thông, văn hóa có thể thúc đẩy thay đổi hành vi cá nhân và cộng đồng. Văn hóa còn lan tỏa tác động, đem đến kinh tế cho các cộng đồng địa phương thông qua việc khuyến khích du lịch văn hóa, sản xuất thủ công và các hoạt động liên quan đến nghệ thuật, giúp tạo ra thu nhập, cải thiện cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển bền vững tại cộng đồng. Ngoài ra, văn hóa cung cấp nền tảng cho giáo dục và tư duy sáng tạo, giúp nuôi dưỡng tinh thần sáng tạo, khám phá và tìm kiếm giải pháp mới cho các thách thức của thế giới. Phát triển văn hóa số Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đã tác động sâu sắc đến văn hóa. Internet, mạng xã hội, âm nhạc số và các sản phẩm văn hóa dựa trên nền tảng kỹ thuật số đã tạo ra cơ hội mới cho việc truyền tải, chia sẻ và tạo ra nội dung văn hóa. Văn hoá số được định nghĩa là các loại hình văn hóa nghệ thuật, những thói quen, giá trị, chuẩn mực, lối sống được hình thành từ/trong tác động của các phương tiện kỹ thuật số, đặc biệt là mạng internet và các phương tiện truyền thông mới. Các sáng tạo văn học, nghệ thuật trên không gian số ngày càng nở rộ. Từ điện ảnh, âm nhạc cho đến các xuất bản phẩm như báo, tạp chí, sách điện tử đang thay thế các ấn phẩm truyền thống. Không gian số cũng sẽ làm thay đổi thị hiếu, thói quen sáng tạo, hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của người dân, họ có thể tham quan các bảo tàng số hóa nhờ công nghệ thực tại ảo, xem triển lãm, thậm chí mua tác phẩm nghệ thuật qua mạng, nghe nhạc, xem phim hay biểu diễn nghệ thuật trực tuyến,… Kỷ nguyên số, do sự xuất hiện của Internet như một hình thức truyền thông đại chúng và việc sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân và các thiết bị khác như điện thoại thông minh,… đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa. Sự hiện diện của công nghệ kỹ thuật số có mặt khắp nơi trên thế giới đến mức chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy văn hóa kỹ thuật số có khả năng thẩm thấu vào tất cả các khía cạnh của cuộc sống hàng ngày và không chỉ giới hạn ở Internet hoặc các công nghệ truyền thông hiện đại. Sự biến đổi của các phương tiện truyền thông đã làm thay đổi cách con người suy nghĩ, giao tiếp và tương tác với thế giới. Máy tính, các thiết bị kỹ thuật số đang trở thành phổ biến trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực như: giáo dục, tài chính - ngân hàng, báo chí, luật pháp, thậm chí cả trong nông nghiệp như trồng trọt hay chăn nuôi... và hiện diện trong đời sống hàng ngày của các gia đình. Sự lan toả nhanh chóng và ảnh hưởng mạnh mẽ của các phương tiện kỹ thuật số làm nhiều nhà nghiên cứu phải đưa ra đề xuất về sự tồn tại của thuật ngữ văn hoá số. Kỹ thuật số đã thay đổi văn hoá, cách chúng ta làm việc, trao đổi, giao tiếp, giải trí, sáng tạo, bày tỏ quan điểm đều gắn liền với Internet và các phương tiện truyền thông. Kỹ thuật số đã thay đổi văn hoá, cách chúng ta làm việc, trao đổi, giao tiếp, giải trí, sáng tạo, bày tỏ quan điểm đều gắn liền với Internet và các phương tiện truyền thông. (hình minh họa) Khi kinh tế số với thương mại trực tuyến, giao dịch tài chính qua mạng, thanh toán không dùng tiền mặt cũng là một phần quan trọng của văn hoá số thế kỷ 21. Mua bán online thông qua Internet đã đẩy mạnh doanh thu cho tất cả các ngành hàng và đóng góp lớn cho nền kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới. Xã hội số được thấy qua hệ thống tự động hoá xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống gia đình của người dân: Từ việc kiểm soát thông tin cá nhân, tham gia giao thông, y tế đến mua bán, kinh doanh, giải quyết các thủ tục pháp luật, học trực tuyến, cho đến các thiết bị thông minh phục vụ sinh hoạt gia đình,... Các mâu thuẫn, xung đột xã hội, hay hiện tượng bạo lực, bắt nạt, tệ nạn xã hội trên mạng, là những hiện tượng xuất hiện ngày một nhiều hơn. Tin tặc là tội phạm đặc trưng đại diện cho xã hội số, đó là những người hiểu biết về tin học, truy cập và đánh cắp thông tin từ máy tính của người khác. Điều này dẫn đến việc các quốc gia bắt đầu quan tâm hơn đến an ninh mạng, đưa ra các đạo luật an ninh mạng, hình sự hoá các trường hợp phạm tội. Các hoạt động của con người trong xã hội số từ sinh hoạt hàng ngày đến kinh tế, giao tiếp, hay vui chơi giải trí đều có xu hướng giảm các hoạt động tương tác trực tiếp giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người và tự nhiên, mà chen vào giữa là các thiết bị kỹ thuật, công nghệ số. Tất cả là những yếu tố chi phối sự hình thành của xu hướng phát triển văn hóa số trong xã hội. Xu hướng toàn cầu hóa văn hóa Sự kết nối toàn cầu đã tạo ra môi trường tương tác giữa các văn hóa khác nhau. Sự giao lưu văn hóa này thể hiện qua ẩm thực, thời trang, ngôn ngữ, và nghệ thuật, thúc đẩy việc hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo ra những sáng tạo mới. Xu hướng toàn cầu hóa văn hóa được thể hiện thông qua sự tương tác, chia sẻ và truyền tải các yếu tố văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Đây là quá trình mà các yếu tố văn hóa như ngôn ngữ, truyền thống, thực phẩm, thời trang, âm nhạc, nghệ thuật và giá trị trở nên phổ biến và có ảnh hưởng ở khắp nơi trên thế giới. Một trong những ví dụ rõ ràng về xu hướng toàn cầu hóa văn hóa là ẩm thực quốc tế. Các món ăn và thực phẩm từ khắp nơi trên thế giới đã trở thành phổ biến ở nhiều quốc gia khác nhau. Ví dụ, các nhà hàng sushi Nhật Bản hoặc nhà hàng pizza Ý có thể được tìm thấy tại hầu hết các quốc gia. Công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các quốc gia và văn hóa. Truyền hình quốc tế, phim ảnh, âm nhạc và mạng xã hội cho phép mọi người tiếp cận và tiêu thụ nội dung văn hóa từ nhiều nơi khác nhau. Trong khi đó, thời trang và phong cách sống thể hiện xu hướng toàn cầu hóa thông qua cách mọi người ở các nơi khác nhau chọn trang phục, kiểu tóc và cách sống cùng một cách hoặc tương tự nhau. Âm nhạc, điện ảnh, nghệ thuật số và các sự kiện giải trí quốc tế như triển lãm, hội chợ và lễ hội âm nhạc có thể thu hút sự tham gia của người dân từ nhiều quốc gia, tạo nên một môi trường trải nghiệm văn hóa đa dạng. Bên cạnh đó, ngôn ngữ và tương tác văn hóa cũng thể hiện xu hướng toàn cầu hóa. Tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ quốc tế được sử dụng rộng rãi trong kinh doanh, truyền thông và giao tiếp quốc tế, tạo điều kiện cho sự giao tiếp và trao đổi văn hóa trên phạm vi toàn cầu. Các sự kiện, hội thảo, hội nghị và cuộc gặp gỡ quốc tế cho phép người dân từ các quốc gia khác nhau gặp nhau, trao đổi ý kiến và chia sẻ trải nghiệm văn hóa. Điều này cũng dẫn đến thay đổi về định hướng giá trị và quan niệm xã hội theo thời gian dưới tác động của các yếu tố văn hóa từ nhiều nguồn khác nhau trên thế giới. Toàn cầu hóa đã ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các quốc gia, đồng thời biến giao lưu, hội nhập văn hóa quốc tế trở thành một xu thế khách quan_ Ảnh: TTXVN Dù vậy, xu hướng toàn cầu hóa văn hóa, bên cạnh những thời cơ, cũng đặt ra nhiều thách thức như việc gây ra sự suy giảm đa dạng văn hóa và nguy cơ mất bản sắc văn hóa dân tộc. Xu hướng phục hồi, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc Các nỗ lực để bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa đang ngày càng quan trọng. Các công trình kiến trúc, di tích lịch sử, và truyền thống văn hóa đang được tìm kiếm, khôi phục và duy trì để kết nối thế hệ và giữ vững bản sắc văn hóa. Trong một bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra sâu sắc, việc tập trung vào văn hóa dân tộc là một xu hướng để điều hòa lại những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa đó. Điều này là do di sản văn hóa chính là biểu hiện của những giá trị, truyền thống và quan niệm của một cộng đồng. Việc bảo tồn và phục hồi di sản giúp bảo vệ và duy trì bản sắc văn hóa độc đáo của mỗi quốc gia và cộng đồng. Di sản văn hóa là cầu nối giữa thế hệ hiện tại và quá khứ và cả tương lai. Việc bảo tồn và duy trì di sản giúp kết nối các thế hệ, chuyển giao kiến thức, truyền thống và giá trị nhờ duy trì những câu chuyện, huyền thoại và sự kiện quan trọng trong quá khứ. Không chỉ thế, như trên chúng ta đã bàn đến, di sản văn hóa còn tạo ra cơ hội kinh tế thông qua du lịch văn hóa, thương mại và các hoạt động liên quan. Việc bảo tồn và phục hồi di sản có thể tạo thuận lợi cho ngành du lịch và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Chúng ta có thể thấy điều này qua những những ví dụ như đảo Santorini ở Hy Lạp rất nổi tiếng trong nhiều cảnh quay trên các bộ phim thế giới, đã sử dụng di sản văn hóa và thiên nhiên để phát triển du lịch. Với kiến trúc truyền thống, cảnh quan đẹp và văn hóa độc đáo, Santorini đã thu hút lượng lớn du khách và góp phần vào sự phát triển kinh tế của cả vùng. Marrakech là một trong những thành phố cổ lâu đời của Morocco, với kiến trúc và văn hóa truyền thống. Việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa tại Marrakech đã tạo ra một nguồn thu nhập quan trọng từ ngành du lịch, đồng thời giữ vững bản sắc văn hóa địa phương. Làng Shirakawa-go ở Nhật Bản là một ví dụ tiêu biểu về cách bảo tồn di sản văn hóa như tổ chức các sự kiện và lễ hội truyền thống, cho phép du khách tương tác và tham gia vào các hoạt động như học làm nơ truyền thống, tham gia lễ hội mùa đông và ẩm thực địa phương, khám phá văn hóa dân tộc Ainu (một nhóm dân tộc bản địa ở Nhật Bản). Các sự kiện và hoạt động liên quan đến văn hóa Ainu như múa hát, trình diễn và hướng dẫn làm nghệ thuật đã tạo nên một phần của trải nghiệm văn hóa tại Shirakawa-go. Những trải nghiệm này giúp du khách tiếp cận với văn hóa truyền thống và tạo thêm giá trị cho hành trình của họ. Cảnh quan làng với các ngôi nhà có các đầu hồi độc đáo đã thu hút du khách và giúp thúc đẩy du lịch vùng nông thôn. Hay ở nhiều quốc gia châu Á, Tết Nguyên đán là một sự kiện truyền thống quan trọng. Việc du khách tham gia vào các hoạt động và lễ hội Nguyên đán đã tạo ra cơ hội kinh doanh, tăng cường du lịch và tạo nền tảng cho phát triển xã hội. Xu hướng sử dụng các chất liệu dân gian để đưa vào âm nhạc, sân khấu, điện ảnh hay các loại hình văn học, nghệ thuật khác nhau cũng là những biểu hiện cụ thể của xu hướng này. Làng cổ Shirakawa-go ở Nhật Bản Trong bối cảnh thế giới tôn trọng các biểu hiện đa dạng của văn hóa, việc bảo tồn và phục hồi di sản văn hóa giúp tôn vinh và tạo điều kiện cho các cộng đồng thể hiện và chia sẻ giá trị văn hóa riêng, giúp đối mặt với những thách thức của sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và thay đổi xã hội và đảm bảo rằng các giá trị văn hóa không bị mất đi. Đặc biệt hơn, di sản văn hóa thể hiện những đóng góp và thành tựu của một cộng đồng, dân tộc trong quá khứ, giúp tạo niềm tự hào, bản lĩnh và sự tự tin cũng như tinh thần yêu nước. Tích hợp văn hóa vào các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội Văn hóa ngày càng được liên kết chặt chẽ với các vấn đề chính trị, kinh tế và xã hội. Nghệ thuật và văn hóa trở thành phương tiện để thể hiện ý kiến, phản ánh thực tế xã hội và thúc đẩy nhận thức về các vấn đề như đa dạng, bình đẳng và huy động các nguồn lực cũng như sự quan tâm của xã hội. Theo đó, các quốc gia và tổ chức quốc tế ngày càng nhận thức về tầm quan trọng của việc tích hợp yếu tố văn hóa vào quyết định chính sách và lập kế hoạch phát triển như bảo vệ và thúc đẩy đa dạng văn hóa, ủng hộ người dân bản địa, và đảm bảo rằng các quyết định chính trị có thể tôn trọng và đáp ứng nhu cầu văn hóa của cộng đồng. Thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc, văn hóa trở thành một yếu tố xuyên suốt để thực hiện các mục tiêu này. Nhiều quốc gia đã coi văn hóa là một yếu tố quan trọng trong kế hoạch phát triển kinh tế. Phát triển công nghiệp văn hóa trở thành chiến lược mang tính đột phá, ở đó du lịch văn hóa, thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có giá trị văn hóa, và khuyến khích thương mại hợp tác giữa các quốc gia có thể tạo ra lợi ích kinh tế cho cả các cộng đồng và quốc gia tham gia. Nhật Bản đã kết hợp nền văn hóa độc đáo và sự sáng tạo vào kế hoạch phát triển kinh tế. Không chỉ thông qua du lịch văn hóa, Nhật Bản còn đầu tư vào công nghệ, giải pháp thiết kế và sản phẩm có giá trị văn hóa. Ví dụ, ngành công nghiệp manga và anime của Nhật Bản đã tạo ra một lĩnh vực kinh tế mạnh mẽ và tạo nên sự tương tác văn hóa trên toàn thế giới. Mỹ cũng coi văn hóa là một phần quan trọng của phát triển kinh tế. Các thành phố như New York, Los Angeles và San Francisco không chỉ là trung tâm kinh doanh mà còn là điểm đến văn hóa. Du khách đến Mỹ để tham gia vào các sự kiện nghệ thuật, xem các buổi biểu diễn âm nhạc, điện ảnh, và thể thao. Còn Hàn Quốc đã phát triển ngành công nghiệp K-Pop và K-Drama, làm nền tảng cho việc thúc đẩy du lịch văn hóa và tạo ra lợi ích kinh tế từ sự tương tác văn hóa. Những nhóm nhạc và bộ phim của Hàn Quốc đã trở thành hiện tượng toàn cầu, thu hút người hâm mộ và du khách từ khắp nơi. Sự kiện BlackPink biểu diễn tại Hà Nội tháng 7 năm 2023 chính là một ví dụ cụ thể của xu hướng đó. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Thái Lan đã thực sự hưởng lợi lâu dài từ công nghiệp văn hóa được xây lên bền chắc. Việc tích hợp văn hóa vào giáo dục và nghiên cứu giúp nuôi dưỡng tư duy sáng tạo, khám phá và tạo ra nhận thức về các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường. Nền giáo dục đa dạng và nhân văn có thể tạo ra nguồn lực nhân tài đa dạng cho sự phát triển. Hệ thống giáo dục Phần Lan rất coi trọng sự kết hợp giữa học tập và sáng tạo. Họ khuyến khích học sinh phát triển tư duy sáng tạo và khám phá qua việc tham gia vào các hoạt động nghệ thuật và thực hành, giúp học sinh phát triển kỹ năng tư duy đa dạng và tạo ra nhận thức về văn hóa, xã hội và môi trường. Giáo dục ở Úc thường khuyến khích học sinh tham gia vào các hoạt động nghệ thuật, thể thao và khoa học để phát triển khả năng sáng tạo và khám phá thế giới xung quanh. Giáo dục nghệ thuật và âm nhạc ở Nhật Bản được tích hợp vào chương trình học, giúp học sinh phát triển kỹ năng sáng tạo và tạo ra nhận thức về giá trị văn hóa và nghệ thuật. Trong khi đó, các trường học ở Thụy Sĩ thường tổ chức các hoạt động ngoại khóa và dự án nghiên cứu độc đáo để khuyến khích học sinh tham gia vào quá trình khám phá và sáng tạo, giúp phát triển tư duy đa dạng và tạo ra nhận thức về văn hóa và môi trường. Ngoài ra, tích hợp văn hóa vào các hoạt động phát triển cộng đồng và xã hội dân sự giúp tạo nên một cộng đồng thân thiện và đa dạng. Các dự án văn hóa cộng đồng, hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội và sự thúc đẩy tương tác giữa các nhóm dân tộc có thể đóng góp vào sự hiểu biết và hợp nhất. Văn hóa còn là một công cụ quan trọng trong ngoại giao và quan hệ quốc tế. Việc thúc đẩy hợp tác văn hóa giữa các quốc gia có thể tạo ra sự hiểu biết và tương tác tích cực, cũng như tạo điều kiện cho sự hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau, góp phần giải quyết xung đột và xây dựng hòa dựng. Xu hướng đề cao tự do sáng tạo và hình thành các loại hình nghệ thuật mới Tự do sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa. Sự thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do này giúp thúc đẩy sự sáng tạo và đa dạng trong văn hóa. Tự do sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa bởi vì nó tạo điều kiện cho cá nhân, nhóm và cộng đồng có khả năng thể hiện ý tưởng, tài năng và sáng tạo của mình một cách tự do và đa dạng. Sự thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do sáng tạo có tác động tích cực bằng cách cho phép mọi người thể hiện ý tưởng và tạo ra các tác phẩm văn hóa đa dạng, từ nghệ thuật đến âm nhạc, phim ảnh, văn học và nhiều hình thức sáng tạo khác, giúp làm phong phú hóa nền văn hóa, tạo ra sự đa dạng và tích hợp các yếu tố từ nhiều nguồn khác nhau. Tự do sáng tạo thúc đẩy sự đổi mới và phát triển trong các ngành nghệ thuật và văn hóa. Việc khám phá, thử nghiệm và tạo ra mới được khuyến khích khi có tự do tạo nên một môi trường thúc đẩy sự sáng tạo và thúc đẩy các ý tưởng mới. Tự do sáng tạo cho phép cá nhân và nhóm nhỏ có thể thể hiện bản thân và giới thiệu ý tưởng của họ, giúp tôn vinh và khích lệ tài năng và sáng tạo cá nhân, đồng thời tạo ra một môi trường khuyến khích hợp tác và giao lưu giữa các nghệ sĩ và người sáng tạo. Đồng thời, tạo cơ hội cho việc thể hiện và thảo luận về các vấn đề xã hội, văn hóa và chính trị. Các tác phẩm nghệ thuật, văn học và diễn xuất có thể tạo cầu nối giữa các thế hệ và khuyến khích thảo luận xã hội. Từ đó, sự sáng tạo trong các ngành văn hóa không chỉ tạo ra giá trị văn hóa mà còn có thể tạo cơ hội kinh doanh và phát triển kinh tế. Ví dụ, ngành công nghiệp giải trí, nghệ thuật và thiết kế có thể đóng góp lớn vào tạo việc làm và tạo giá trị kinh tế. Sáng tạo cũng là nguyên nhân hình thành nên xu hướng hình thành các loại hình nghệ thuật mới trên thế giới. Các nghệ sĩ thường kết hợp các phong cách, phương pháp và yếu tố từ nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo ra các loại hình nghệ thuật mới. Việc đa dạng hóa này có thể xuất phát từ việc kết hợp giữa nghệ thuật truyền thống và kỹ thuật số, hoặc từ việc kết hợp giữa âm nhạc, hình ảnh động và văn học, tạo ra các trải nghiệm nghệ thuật độc đáo và không giới hạn bởi các ranh giới truyền thống. Công nghệ đã mở ra nhiều cơ hội mới cho sự sáng tạo nghệ thuật. Các nghệ sĩ sử dụng công nghệ kỹ thuật số như trí tuệ nhân tạo, thực tế ảo, trực tiếp và nghệ thuật tương tác để tạo ra các trải nghiệm và tác phẩm mới. Ví dụ như nghệ sĩ dựng lại nghệ thuật truyền thống thông qua công nghệ thực tế ảo. Hay sự hình thành của nghệ thuật tương tác trên cơ sở người tham gia trở thành một phần của tác phẩm. Các tác phẩm tương tác có thể bao gồm các hoạt động của người xem hoặc những thay đổi trong tác phẩm dựa trên sự tham gia của họ. Một số ví dụ có thể được lấy ra ở đây như nghệ sĩ Es Devlin đã sáng tạo tác phẩm "Memory Palace" kết hợp công nghệ thực tế ảo để tạo ra một trải nghiệm tương tác. Người tham gia có thể di chuyển trong không gian ảo và tương tác với các hình ảnh và âm thanh để khám phá những câu chuyện về các vấn đề xã hội và cá nhân. Nghệ sĩ nổi tiếng Banksy đã tạo ra các tác phẩm đường phố kỹ thuật số thông qua việc sử dụng công nghệ AR (Augmented Reality). Khi người xem quét tác phẩm trên điện thoại di động, họ sẽ thấy các yếu tố tương tác và đa chiều được thêm vào. Sarah C. Prinz sáng tạo tác phẩm nghệ thuật động bằng GIF và chia sẻ chúng trên nền tảng mạng xã hội như Instagram. Những tác phẩm nhỏ gọn nhưng động đậy này truyền tải cảm xúc và ý nghĩa thông qua hình ảnh động. Như vậy, xu hướng hình thành các loại hình nghệ thuật mới thường biểu hiện qua sự kết hợp, sáng tạo với công nghệ mới, ý nghĩa xã hội, tương tác và những sự thay đổi trong cách nghệ sĩ và khán giả tương tác với nghệ thuật. Trên cơ sở của các xu hướng phát triển văn hóa trên thế giới, chúng ta có thể đề xuất một số giải pháp quản lý văn hóa ở Việt Nam như sau: Hoàn thiện thể chế, đổi mới tư duy quản lý văn hóa, cải cách bộ máy quản lý Nhà nước về văn hóa theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo vai trò kiến tạo phát triển văn hóa, xây dựng con người, tăng cường hiệu quả của các hệ thống thiết chế văn hóa. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về văn hóa, xây dựng con người cho các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, đặc biệt là năng lực xây dựng thể chế, chính sách, các chương trình và kế hoạch dài hạn, khắc phục tình trạng xa đà vào sự vụ, thiếu tính chiến lược; Từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ văn hóa thông qua quá trình tiêu chuẩn hóa, tuyển chọn và bồi dưỡng cán bộ. Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa mới theo hướng tăng cường tính hiệu quả. Xây dựng các luật, cơ chế chính sách về giải phóng sức sáng tạo của văn nghệ sĩ, của các lực lượng xã hội, huy động các lực lượng xã hội trên nguyên tắc khuyến khích và chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia vào sáng tạo và phân phối văn hóa. Hoàn thiện các luật của/liên quan đến các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, các chính sách cụ thể liên quan tới quy trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng văn hóa; liên quan đến đất đai, thuế, quản lý, sử dụng tài sản công... Đổi mới tư duy quản lý văn hóa dựa trên tư tưởng về quyền văn hóa và tinh thần xây dựng hệ thống hành chính công hiện đại; từng bước xây dựng cơ chế phân cấp, phân quyền mới theo nguyên tắc các cơ quan nhà nước tập trung vào phát triển hệ thống thể chế, đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng chủ chốt, phát triển nguồn nhân lực bậc cao, tổ chức một số hoạt động và sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc gia. Từng bước xây dựng cơ chế tự chịu trách nhiệm của các tổ chức văn hóa nghệ thuật khi sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa. Nghiên cứu để có lộ trình bỏ cơ chế thẩm định tác phẩm nghệ thuật. Chuyển đổi một phần các tổ chức văn hoá nghệ thuật sang hình thức cổ phần hóa, tư nhân hoá đa số các tổ chức kinh doanh thuộc sở hữu nhà nước (xuất bản, điện ảnh, các phòng trưng bày..). Hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa mới theo hướng tăng cường tính hiệu quả, không phát triển thiết chế theo một mô hình thống nhất mà phải phù hợp với đặc điểm vùng miền, đến nhu cầu và nguyện vọng của người dân; Phát huy vai trò và tính tích cực của hệ thống thiết chế văn hóa cổ truyền, của các tôn giáo và tín ngưỡng; xây dựng một số thiết chế văn hóa tiêu biểu cho thời đại mới, có trang thiết bị hiện đại, chuyên nghiệp tại một số tỉnh, thành phố trọng điểm. Tập trung nguồn lực từ Nhà nước và các thành phần kinh tế khác đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người, ưu tiên nguồn lực cho vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng hưởng chính sách xã hội, đối tượng chịu thiệt thòi, cho một số loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại cần bảo tồn, phát triển. Kiên trì quan điểm coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững đất nước. Tăng thêm mức chi ngân sách cho văn hóa, tối thiếu 2% chi ngân sách, theo Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các thiết chế văn hóa, thể thao, chú ý các vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cải cách cơ chế sử dụng nguồn lực từ nhà nước theo hướng tách giữa quản lý nhà nước và quyền tự chủ của các cơ quan chuyên môn là các Hội đồng văn hóa nghệ thuật có thẩm quyền quyết định các chiến lược và cơ chế đầu tư. Xây dựng các luật và cơ chế chính sách huy động nguồn tài trợ, các hiến tặng và đầu tư của các thành phần xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng con người, chủ yếu là các luật về Quỹ, luật hiến tặng và luật về tài trợ. Đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống các trường đào tạo văn hóa, nghệ thuật, chú ý tính đặc thù của văn hóa. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học, trên đại học trọng điểm, đảm bảo cung cấp nhân lực văn hóa chất lượng cao. Phấn đấu có trường đại học văn hóa, nghệ thuật đạt đẳng cấp quốc tế. Màn trình diễn “Tinh hoa nghệ thuật Xòe” tại Lễ đón nhận Bằng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) ghi danh “Nghệ thuật Xòe Thái” vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đảm bảo công bằng xã hội trong phát triển nhân lực văn hóa, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người tiếp cận giáo dục, đào tạo; chú trọng người dân tộc thiểu số, nhóm người nghèo, người sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Điều chỉnh, bổ sung các qui định cử tuyển đào tạo, dự bị đại học đối với học sinh dân tộc thiểu số. Xây dựng cơ chế lựa chọn, sử dụng cán bộ văn hóa, văn nghệ. Coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở cấp chiến lược và nâng tầm đội ngũ cán bộ tham mưu xây dựng cơ chế chính sách, pháp luật; cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Thực hiện cơ chế tuyển chọn cán bộ công khai, minh bạch, theo hình thức cạnh tranh; trọng dụng người tài đức. Khẩn trương cải cách tiền lương để đảm bảo điều kiện cho cán bộ an tâm cống hiến. Xây dựng các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản... Tiếp tục chế độ tài trợ, đặt hàng và giải thưởng cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật, kịch bản phim điện ảnh và sản xuất phim, trợ giá xuất bản. Thực hiện ưu đãi về đất, về thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và các thiết chế văn hóa. Phát triển thị trường văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa để đáp ứng nhu cầu tiếp nhận, hưởng thụ của người tiêu dùng và thị trường ngoài nước. Phát triển thị trường văn hóa nhằm tạo điều kiện cho các sản phẩm văn hóa vận hành theo nguyên tắc thị trường, từ đó, định hướng cho người sản xuất văn hóa đáp ứng những nhu cầu đa dạng, phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, cần chú ý đến tính đặc thù, tính độc lập tương đối của văn hóa với kinh tế. Đối mới phương thức đầu tư cho văn hóa, có cơ chế đầu tư trước thuế để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ văn hóa. Thực hiện bình đẳng trong đầu tư của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế tham gia hoạt động văn hóa trên cơ sở năng lực và hiệu quả xã hội của mỗi tổ chức. Tạo môi trường pháp lý để các doanh nghiệp kinh tế bảo trợ, tài trợ cho văn hóa. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa Việt Nam, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị của đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao và đồng bộ, theo đúng theo quy luật phát triển của công nghiệp văn hóa thế giới. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên đặc thù tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng miền, các địa phương khác nhau để những mục tiêu với các ưu tiên khác nhau khi phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Các ngành công nghiệp văn hóa nội địa được khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa ra các thị trường nước ngoài, góp phần đưa thông điệp văn hóa Việt Nam, quảng bá văn hóa quốc gia, đưa thương hiệu Việt Nam ra với thế giới. Xây dựng các tổ chức và doanh nghiệp văn hóa đạt tầm quốc tế về chất lượng, hướng đến công chúng và phù hợp hơn với xã hội đương đại. Xây dựng các thành phố sáng tạo và các vùng sáng tạo để Việt Nam định vị văn hóa và sự sáng tạo như điểm trọng tâm của các thành phố lớn. Mục đích nhằm phát triển các thành phố trở thành các trung tâm về kinh tế sáng tạo ở Châu Á, và để các thành phố nhỏ hơn và các khu vực nông thôn được hưởng lợi từ trung tâm này. Xác lập quyền lực mềm quốc gia bằng văn hoá, với các chính sách phát triển hợp lý, trên cơ sở các giá trị đặc sắc, lợi thế cạnh tranh của văn hoá Việt Nam, tạo sức đề kháng trước sự gia tăng sức mạnh mềm của một số quốc gia. Phát huy các giá trị văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc có sức lôi cuốn và hấp dẫn đối với cộng đồng quốc tế. Việt Nam từ lâu được thế giới biết đến là một dân tộc anh hùng, thân thiện, linh hoạt và yêu chuộng hòa bình. Những đặc trưng này chính là những giá trị hội tụ tinh hoa văn hóa truyền thống và hiện đại của dân tộc, đã thấm sâu vào đời sống xã hội, đồng thời có sức lan tỏa, lôi cuốn góp phần nâng cao sức mạnh mềm văn hóa, gia tăng ảnh hưởng quốc tế và tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Vì vậy, việc phát huy và quảng bá tối đa bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, cần phải được thúc đẩy mạnh mẽ thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục văn hóa trong nước kết hợp với mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, đa dạng hóa các kênh truyền thông quảng bá hình ảnh quốc gia, cũng như phát huy vai trò kết nối, chuyển tải các giá trị văn hóa của kiều bào trên khắp thế giới. Tập trung xây dựng những giá trị văn hoá mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động hội nhập phát huy thế mạnh của người Việt Nam, vừa là nguồn lực của đất nước là sự từng trải của dân tộc qua xung đột và giao lưu, không từ chối trong việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nước ngoài trên nền tảng của tư tưởng độc lập dân tộc. Phát huy tài năng, tâm huyết của lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật của đất nước. Quan tâm, tạo điều kiện để cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài được tiếp nhận thông tin và sản phẩm văn hoá lành mạnh từ trong nước; đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hoá Việt Nam trong gia đình, trong sinh hoạt cộng đồng người Việt Nam xa Tổ quốc, góp phần thể hiện hình ảnh Việt Nam. Thành lập, phát huy hiệu quả các trung tâm văn hoá và các cơ sở văn hoá ở một số khu vực trọng điểm trên thế giới để mở rộng việc trao đổi, hợp tác trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, góp phần nâng cao sức mạnh mềm văn hóa. Xác lập và định hướng phát triển văn hóa số trong bối cảnh xã hội số, nền kinh tế số và công dân số Tăng cường nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, ý nghĩa của văn hóa số trong sự phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đầu tư hạ tầng kỹ thuật, công nghệ đủ khả năng hội nhập kỹ thuật số với mặt bằng công nghệ chung của khu vực cũng như thế giới. Xóa bỏ khoảng cách không gian số, giảm bất bình đẳng trong cơ hội tiếp cận tài nguyên số giữa các cá nhân, vùng miền, đồng thời có chính sách tạo môi trường xã hội khuyến khích tối đa sự sáng tạo cá nhân. Có các chính sách và hành lang pháp lý phù hợp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và tài sản số. Các chính sách về quyền riêng tư, bảo vệ thông tin cá nhân trong không gian số. Kỷ nguyên số sẽ dẫn đến việc các thông tin cá nhân được số hóa, từ các thông tin nhân khẩu xã hội, thông tin về y tế, chăm sóc sức khỏe cho đến các thông tin về địa điểm đi lại hay thị hiếu giải trí,… điều này cũng sẽ dẫn đến nguy cơ các thông tin cá nhân nếu bị tiết lộ và bị lợi dụng cho các mục đích tiêu cực sẽ ảnh hưởng đến đời sống cá nhân của mỗi người. Cần thiết có chiến lược về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng được nhu cầu mới của thị trường lao động cũng như tạo dựng một thế hệ công dân số cho tương lai. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, việc hiểu rõ xu thế phát triển văn hóa trên thế giới để từ đó tìm ra hướng đi riêng cho quốc gia mình là cách chúng ta ứng phó hiệu quả nhất đối với nhữn biến động khó lường, thách thức phi truyền thống trong lĩnh vực văn hóa. Một thế giới phẳng, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó lợi ích quốc gia, dân tộc, kinh tế,... vừa tạo thuận lợi, đồng thời cũng gây ra nhiều thách thức cho sự phát triển văn hóa nước ta. Dù chúng ta có nhiều thuận lợi hơn, nhất là khi toàn xã hội đã có nhiều chuyển biến về nhận thức, và có thêm nhiều đầu tư cho văn hóa nhưng chúng ta cũng cần có thêm những kinh nghiệm quốc tế và quyết tâm để biến văn hóa trở thành nguồn lực cho phát triển bền vững đất nước./. |