Bài 1 phụng vụ là gì vào đời 1

Tại Việt Nam, tỷ lệ người công giáo đi lễ Chúa nhật là 80-90%. Như thế, mỗi Chúa nhật, có 6 triệu người đến nhà thờ. So với những sinh hoạt công cộng khác như bóng đá, hội diễn văn nghệ … thì số người có mặt trong các nhà thờ vẫn lớn hơn nhiều. Qua bao nhiêu thế kỷ, các tín hữu công giáo vẫn đến nhà thờ mỗi Chúa nhật, có khi hằng ngày, để thờ phượng Chúa, để cử hành phụng vụ. Từ thời xưa, người ngoại giáo đã xem đây như dấu ấn đặc thù của các Kitô hữu. Trong một lá thư viết vào năm 112, Pliny đã nói với hoàng đế Tragianô rằng: Vào ngày nào đó trong tuần, từ trước khi mặt trời mọc, một số đông các Kitô hữu đã họp nhau lại “để hát thánh thi dâng kính Đức Kitô như dâng kính một vị thần”. Đúng là ngay từ đầu, Hội Thánh đã là một cộng đoàn cầu nguyện và cử hành việc thờ phượng.

Show

Trong tiếng Hi Lạp, từ leiturgia mà chúng ta dịch là phụng vụ có nghĩa là “việc phục vụ cho công ích” (x. 2Cr 9,12) nhưng cũng có nghĩa là “việc thờ phượng Chúa” (x. Cv 13,2). Theo cách hiểu của Kitô giáo, phụng vụ trước hết là “việc của Chúa” làm cho con người, trước khi trở thành lời tạ ơn và cầu khẩn của chúng ta dâng lên Chúa. Vì thế, điều quan trọng phải nhớ là không phải chúng ta “làm ra” phụng vụ. Không, chính Đức Kitô mới là “nhà phụng vụ”, là “người cử hành chính”. Ngài đã hoàn tất “công việc của Thiên Chúa” cho chúng ta, tức là cứu độ loài người và tôn vinh Thiên Chúa (GLHTCG số 1067). “Phụng vụ” vĩ đại của Đức Kitô là sự hiến dâng mạng sống, hy lễ Ngài dâng lên Chúa Cha trên thập giá “một lần thay cho tất cả” (số 1085), để chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa.

Bất cứ khi nào Đấng Phục Sinh cử hành phụng vụ với chúng ta và cho chúng ta thì “công trình cứu độ được hoàn thành” (số 1068). Trên tất cả là bí tích Thánh Thể, nơi đó Đức Kitô hiến dâng cho Thiên Chúa Cha chính mình Người và Thân Mình của Người là Hội Thánh.

Dĩ nhiên phụng vụ không phải là hoạt động duy nhất của Hội Thánh (số 1072). Rao giảng Tin Mừng và phục vụ tha nhân, cầu nguyện và hi sinh, chứng tá đời sống Kitô hữu, tất cả đều là những việc thiết yếu trong đời sống Hội Thánh. Tuy nhiên “phụng vụ là chóp đỉnh mà các hoạt động của Hội Thánh hướng đến” (số 1074). Thánh Bênađô nói rằng không điều gì có thể chiếm ưu thế lớn hơn việc thờ phượng Chúa (số 347), cho dù đôi khi, vì nhu cầu khẩn cấp của tha nhân, chúng ta không thể tham dự việc thờ phượng.

Yêu mến tha nhân và thờ phượng Thiên Chúa không đối nghịch nhau. Ngược lại, đối với Hội Thánh, phụng vụ chính là “suối nguồn tuôn chảy mọi năng lực của Hội Thánh” (GLHTCG 1074). Chính vì thế, phụng vụ đáng được quan tâm và tôn kính đặc biệt. Kinh nghiệm chứng minh rằng nơi đâu phụng vụ được cử hành với vẻ đẹp đơn sơ nhưng tràn đầy tình yêu và tôn kính thì các tín hữu đến đó. Phụng vụ giống như nguồn suối ở đó chứa đựng sự sống của Đức Kitô và ban tặng cho chúng ta.

Bài 2. THIÊN CHÚA CHA: CỘI NGUỒN CỦA TOÀN THỂ PHỤNG VỤ

“Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Chúa Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không có sự chuyển vần khi tối khi sáng” (Giacôbê 1,17).

Như chúng ta đã thấy, phụng vụ trước hết và trên hết là “công trình của Thiên Chúa” cho con người. Việc thờ phượng của chúng ta là sự đáp lại những hồng ân Thiên Chúa ban. Vì thế trong cử hành phụng vụ luôn có một chuyển động hai chiều: chiều đi xuống và chiều đi lên. Chiều đi xuống phát xuất từ Chúa Cha vĩnh cửu là cội nguồn mọi sự sống, chiều đi lên là lời khẩn cầu, tạ ơn và ca tụng của chúng ta dâng lên Chúa. Trong tiếng Hípri, từ barak, bera’ha diễn tả cả hai chiều này. Trong tiếng La tinh, từ benedicere và benedictio cũng diễn tả như thế (GLHTCG số 1078): phúc lành của Thiên Chúa và lời chúc tụng chúng ta dâng lên Chúa.

Cả hai ý nghĩa “phúc lành” và “chúc tụng” này đều có mặt trong ơn gọi của Abraham. Chúa nói với ông: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi … Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi … Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,2-3). Con người được Thiên Chúa chúc phúc lại trở nên phúc lành cho nhiều người. Qua đời sống và lời cầu nguyện của mình, Abraham dâng lại cho Chúa “phúc lành” bằng tâm tình tạ ơn.

Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta nhiều ví dụ như thế và qua đó, cung cấp “nguyên mẫu” cho phụng vụ Kitô giáo. Chẳng hạn, khi Môsê kể lại cho bố vợ của mình biết việc Thiên Chúa đã giải thoát dân Israel khỏi tay vua Pharaô và cảnh nô lệ Ai Cập cách lạ lùng như thế nào, thì ông Gíthrô vui sướng nói rằng: “Chúc tụng Chúa đã giải thoát các anh khỏi tay người Ai Cập và tay Pharaô. Giờ đây tôi nhận biết rằng Chúa cao cả hơn hết mọi thần minh”. Rồi ông dâng lên Thiên Chúa lễ toàn thiêu và các hy lễ. Và sách Xuất Hành kể tiếp: “Ông Aaron và mọi kỳ mục của Israen đến ăn bánh với nhạc phụ của ông Môsê trước nhan Thiên Chúa” (Xh 18,8-12).

Ở đây chúng ta đã thấy những gì báo trước những yếu tố chủ chốt trong phụng vụ Kitô giáo: Phụng Vụ Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại những kỳ công của Chúa; Kinh Tiền Tụng chúc tụng Chúa vì mọi phúc lành Ngài ban; hy lễ bao hàm lời tạ ơn và khẩn cầu; việc cử hành kết thúc bằng một bữa ăn, dấu chỉ phúc lành của Chúa. Điều mới mẻ trong phụng vụ Kitô giáo là chính Đức Kitô. Ngài là phúc lành của Thiên Chúa, là “quà tặng tuyệt hảo” của Chúa Cha, và vì thế chúng ta “chúc tụng” Chúa trong cử hành phụng vụ: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph 1,3).

“Trong phụng vụ của Hội Thánh, Chúa Cha được chúc tụng và tôn thờ với tư cách là nguồn mạch mọi chúc lành trong công trình tạo dựng và cứu độ; qua đó Ngài đã chúc lành cho chúng ta trong Con của Ngài để ban Thần Khí nghĩa tử cho chúng ta” (số 1110).

Bài 3. CÔNG TRÌNH CỦA ĐỨC KITÔ TRONG PHỤNG VỤ

Chúng ta cử hành điều gì trong phụng vụ? Thưa, “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là trung tâm của phụng vụ. Lễ Giáng sinh, chúng ta cử hành sinh nhật của Ngài. Lễ Phục sinh, chúng ta cử hành cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Chúng ta còn cử hành lễ Chúa chịu Phép Rửa, lễ Biến hình, 40 ngày Chúa ở trong hoang địa và cuộc Thăng thiên của Chúa. Tuy nhiên “cử hành” ở đây không chỉ đơn thuần là “nhớ lại”. Cử hành còn có nghĩa ở thì “hiện tại”: trong bí tích Thánh Thể, sự chết và phục sinh của Đức Kitô được hiện tại hóa; chính Ngài đang hiện diện ở đây. Đây chính là điểm độc đáo trong phụng vụ Kitô giáo: phụng vụ là công trình của Đức Kitô. Nhưng theo nghĩa nào?

“Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới” (Gal 4,4). “Công trình của Thiên Chúa” là sai Con của Ngài đến. Công trình ấy mặc khải “mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa” (Rm 16,25). Công trình ấy mở ra mầu nhiệm Tình Yêu là chính Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16), sự hiệp thông vĩnh hằng của Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mục đích cuối cùng của mọi việc Thiên Chúa làm là chúng ta – và qua chúng ta, tất cả tạo thành – được đưa vào sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi (GLHTCG số 260). Để hoàn thành mục đích này, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến “để hiệp nhất mọi sự trong Đức Kitô” (Eph 1,10).

“Công trình” của Đức Kitô – đời sống, cái chết, sự phục sinh của Ngài – là “phụng vụ tuyệt hảo” qua đó Chúa Cha ban tặng cho chúng ta sự sống và ân sủng của Ngài (Rm 8,32). Đức Kitô là “nhà phụng vụ” đích thực của nền phụng vụ này. Chính Ngài là Đấng đã hiến dâng lên Chúa Cha hành vi thờ phượng tuyệt hảo. Trọn vẹn cuộc sống và cái chết của Ngài là “phụng vụ”, là sự tôn vinh Chúa Cha (Ga 17,4). Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu xảy ra dưới thời Phongxiô Philatô. Xét về mặt lịch sử, sự kiện ấy đã thuộc về quá khứ. Thế nhưng, không giống những sự kiện nhân loại khác, cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không bị nhận chìm trong dòng thác của lịch sử, bởi lẽ Ngài đã sống lại và “sống mãi để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7,25; GLHTCG số 519).

Đức Kitô đã sống lại. “Tất cả những gì Người đã làm và đã chịu vì tất cả mọi người, những điều đó đều tham dự vào tính vĩnh cửu của Thiên Chúa” (số 1085). Thập giá và sự phục sinh của Chúa mang tính vĩnh cửu vì ở trên trời, “Đức Kitô thực thi chức tư tế của Người cách thường hằng” (số 662). Khi chúng ta cử hành phụng vụ dưới thế là chúng ta tham dự phụng vụ trên trời (số 1090). Khi đó Đức Kitô ở giữa chúng ta với tất cả những gì Người đã làm và đã chịu đau khổ vì chúng ta. Ngày nay Đức Kitô Phục Sinh ở với chúng ta bằng nhiều cách: bằng Lời của Người, khi Lời ấy được đọc trong cử hành phụng vụ, thì chính Người đang ngỏ lời với chúng ta. Đức Kitô còn ở với chúng ta khi các tín hữu cầu nguyện chung, khi đó “Người ở giữa họ” (Mt 18,20). Đức Kitô còn ở với chúng ta qua các thánh tông đồ và những người kế vị, những người đã được ban cho quyền thánh hóa. Trên hết mọi sự, Người hiện diện dưới hình bánh rượu trong mầu nhiệm Thánh Thể (số 1088). Đó là phụng vụ của Đức Kitô; chúng ta cử hành phụng vụ ấy nhờ Ngài, với Ngài, và trong Ngài.

Bài 4. QUYỀN NĂNG CỦA THÁNH THẦN TRONG PHỤNG VỤ

“Ngài là Đấng ban sự sống!” Chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính như thế. Như thánh Augustinô nói, như linh hồn đóng vai trò thế nào với thân xác, thì Chúa Thánh Thần cũng như thế đối với Hội Thánh (GLHTCG số 797). Tất cả những gì thực sự sống động trong Hội Thánh đều là nhờ Chúa Thánh Thần. Dĩ nhiên sự hiện diện của Ngài là sự hiện diện ẩn giấu. Người ta chỉ có thể thấy hoạt động của Ngài qua những hoa trái. Sách Giáo Lý liệt kê bốn công việc, qua đó chúng ta có thể nhận biết Chúa Thánh Thần: (1) Ngài chuẩn bị cho con người đến gặp gỡ Đức Kitô; (2) Ngài tỏ hiện Đức Kitô và Lời của Người cho chúng ta; (3) Ngài làm cho Đức Kitô hiện diện; (4) Ngài hiệp nhất con người với Đức Kitô (số 737). Đây chính là điều được thực hiện cách đặc biệt trong phụng vụ (số 1092).

Nhìn từ bên ngoài, xem ra chính chúng ta là người cử hành phụng vụ, nhưng thực ra quyền năng đích thực của phụng vụ phát xuất từ Chúa Thánh Thần, hay chính xác hơn, từ sự hợp tác giữa Chúa Thánh Thần và Hội Thánh (số 1091). Hãy nhìn lại bốn công việc đã nói ở trên.

Nếu Phụng Vụ phải là cuộc gặp gỡ Đức Kitô thì chúng ta cần phải chuẩn bị. Đức tin được khơi dậy, con tim mở ra. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có thể đón nhận ân sủng Thiên Chúa ban qua phụng vụ (số 1098). Không có lực sĩ hay nghệ sĩ nào bắt tay vào việc mà không chuẩn bị. Chính Chúa dạy chúng ta tầm quan trọng của thời gian chuẩn bị. Qua lịch sử lâu dài của Cựu Ước, Thiên Chúa chuẩn bị cho dân Israel và cả nhân loại đón nhận Đức Kitô (số 1093). Chính vì thế, những yếu tố của Cựu Ước không bao giờ vắng mặt trong phụng vụ của Hội Thánh. Đó là trường học qua đó Thiên Chúa dẫn chúng ta đến chỗ sẵn sàng đón nhận Đức Kitô (số 1094).

Chúa Giêsu đã hứa rằng Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta nhớ lại tất cả những gì Người đã nói (Ga 14,26). “Nhớ lại” những kỳ công của Thiên Chúa luôn luôn là thành phần thiết yếu trong phụng vụ (số 1103). Trong Phụng Vụ Lời Chúa, chúng ta nghe lại những biến cố lớn trong Cựu Ước, cũng như những lời và hành động của Chúa Giêsu được ghi sâu vào ký ức chúng ta (số 1100). Chính Chúa Thánh Thần làm cho những gì chúng ta nghe trở nên sống động, đi vào tâm hồn (số 1101).

Tuy nhiên, điều được nhớ lại nay thực sự hiện diện. Cụ thể nhất là trong cử hành Thánh Thể. Nhờ lời cầu khẩn Thánh Thần, những gì mà Phụng Vụ nhắc lại cho chúng ta (Hôm trước ngày chịu khổ hình … ) nay trở thành hiện tại (Này là Mình Thầy … Này là Máu Thầy … ). Phụng Vụ không chỉ gợi nhớ các biến cố mà còn làm cho biến cố ấy hiện diện, nhờ Chúa Thánh Thần (số 1104).

Nhờ Chúa Thánh Thần chuẩn bị, nhắc nhớ và làm cho những lời và hành động của Đức Kitô thành hiện tại, chúng ta đạt đến mục đích là “ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (số 1109). Trong mọi hoạt động phụng vụ, Chúa Thánh Thần muốnnối kết chúng ta với Đức Kitô để làm nên Thân Thể của Người trong sự hiệp thông huynh đệ (số 1108).

Bài 5. ĐỨC KITÔ TRONG CÁC BÍ TÍCH

Bí tích là gì? Thưa, là một dấu chỉ giác quan nhận biết được, hay đúng hơn, là một hành động biểu tượng, gồm lời nói và cử chỉ, và hành động ấy thực hiện điều nó biểu thị (GLHTCG số 1084). Chẳng hạn, bí tích Rửa tội chủ yếu hệ tại ở việc đổ nước ba lần cùng với việc đọc công thức rửa tội: “Cha rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Điều mà nghi thức bên ngoài thể hiện cũng tạo hiệu quả bên trong: ơn tha thứ tội lỗi và tái sinh trong đời sống mới.

Các bí tích bắt nguồn từ chính đời sống của Đức Kitô. Trong cuộc sống trần thế, Chúa Giêsu thường sử dụng những dấu chỉ và hành động biểu tượng để minh họa cho lời rao giảng của Người (số 1151). Chẳng hạn trong các phép lạ chữa lành, chúng ta gặp được nguyên mẫu của các bí tích (số 547). Hãy đọc lại phép lạ chữa lành cho người phụ nữ mắc bệnh loạn huyết. Thánh Marcô kể rằng bà ta chạm đến gấu áo Chúa và ngay lập tức được chữa lành. Còn Chúa Giêsu ghi nhận “quyền năng từ nơi Người phát ra” (Mc 5,30). Các bí tích tiếp tục điều mà Chúa Giêsu đã làm (số 1115). Qua các bí tích, Chúa Giêsu “chạm” đến chúng ta để chữa lành và ban cho ta sự sống của Chúa. Các bí tích là quyền năng phát xuất từ Thân Thể Đức Kitô (số 1116). Trong mỗi bí tích, chúng ta gặp gỡ Đức Kitô như những người ngày xưa đã được gặp Chúa trong cuộc sống trần thế. Người thiết lập các bí tích để ngày nay, trong tư cách là Đấng Phục Sinh, Người vẫn tiếp tục ở với chúng ta qua những dấu chỉ bí tích.

Cũng như đối với nhiều người ngày xưa, Đức Kitô chỉ là con ông thợ mộc, chẳng có gì đáng quan tâm (số 423), thì ngày nay, những ai không nhìn các bí tích với cặp mắt đức tin, cũng thấy nó vô nghĩa. Bởi lẽ thần tính của Đức Kitô bị ẩn giấu trong thân phận làm người, và cũng thế, quyền năng thần linh trong các bí tích là quyền năng vô hình. Chúng ta nhìn thấy nước khi làm Phép Rửa, nhìn thấy bánh và rượu trên bàn thờ khi cử hành Thánh Thể, nhưng chính nơi những dấu chỉ hữu hình này mà quyền năng thần linh của Đức Kitô hoạt động.

Thực ra, chúng ta chỉ có thể chạm đến thực tại vô hình của ân sủng được ban trong các bí tích khi chúng ta tin vào Đức Kitô. Cách nào đó, Đức Kitô là Bí Tích nguyên thủy (số 774) vì nơi lời nói và hành động nhân loại của Người, thần tính của Người đang hiện diện và hoạt động. Càng tin vào Đức Kitô mạnh mẽ bao nhiêu, chúng ta càng trân trọng các bí tích bấy nhiêu.

Công đồng Vatican II nói rằng Hội Thánh cũng như là bí tích (số 775): “Hội Thánh có đặc điểm là vừa mang tính nhân loại vừa mang tính thần linh, vừa hữu hình vừa hàm chứa những thực tại vô hình”. Nhìn từ bên ngoài, có những lúc xem ra Hội Thánh thật mong manh, kể cả nhiều thiếu sót, thế nhưng sự sống thần linh đang chảy trong mạch máu của Hội Thánh, vì Hội Thánh là “khí cụ của Đức Kitô” và là “bí tích của ơn cứu độ”, qua đó Đức Kitô chữa lành và giải thoát chúng ta.

Bài 6. CÁC BÍ TÍCH CỦA HỘI THÁNH

Mầu nhiệm Vượt Qua là nền tảng đức tin của chúng ta: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại”. Đức Kitô đã chết vì và cho chúng ta. Người sống lại thật. Người đang hiện diện. Những gì Người đã làm trong cuộc sống trần thế, Người vẫn tiếp tục làm, cách riêng qua các bí tích.

Hội Thánh dạy chúng ta rằng có bảy bí tích và những bí tích này “được Đức Giêsu Kitô thiết lập” (GLHTCG số 1114). Với một số bí tích, sự kiện Chúa Giêsu thiết lập bí tích và Người thiết lập như thế nào, mọi sự đã rõ. Chẳng hạn, Chúa truyền lệnh cho các tông đồ làm Phép Rửa (số 1223), và trong bữa Tiệc Ly, Chúa thiết lập bí tích Thánh Thể (số 1337). Chúng ta không thể xác định thời điểm Chúa lập các bí tích, tuy nhiên tất cả các bí tích đều có “điểm cố định” trong cuộc đời Chúa Giêsu, qua lời nói và hành động của Người. Ví dụ cụ thể là bí tích Xức dầu bệnh nhân. Chúa Giêsu thường dùng những dấu chỉ khả giác để chữa lành: Người chạm đến người bệnh và đặt tay trên họ (số 1504). Ngay từ thời đầu, khi tiếp xúc với các bệnh nhân, Hội Thánh đã có nghi thức cầu nguyện riêng và xức dầu cho bệnh nhân (1510). Cũng như Đức Kitô chạm đến người bệnh và chữa lành cho họ, thì Người vẫn làm như thế qua bí tích Xức dầu bệnh nhân.

Đến thế kỷ 12, Hội Thánh khẳng định rõ ràng bảy bí tích. Việc này cũng giống như việc xác định Quy Thư Kinh Thánh (số 120). Trong những thế kỷ đầu, Hội Thánh đã xem xét, phân định, và cuối cùng xác định những sách nào được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, và do đó là Lời Thiên Chúa. Cũng vậy, “theo dòng thời gian, Hội Thánh xác định trong số các cử hành phụng vụ của mình, có bảy cử hành là những bí tích, theo nghĩa hẹp của từ này, do Chúa thiết lập” (số 1117).

Một trong những đặc điểm của bảy bí tích là tất cả đều có mối liên hệ nào đó với thừa tác vụ linh mục. Điều này đặc biệt rõ ràng khi nói về bí tích Thánh Thể. Cử hành Thánh Thể “cho đến khi Chúa đến” là mệnh lệnh các tông đồ nhận lãnh từ nơi Chúa: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Việc ban phát các bí tích được trao phó cho các tông đồ và những người kế vị. Khi một linh mục giải tội cho ai thì không phải ngài tha tội nhân danh ngài nhưng là nhân danh Đức Kitô, “trong tư cách của Đức Kitô” (số 1461, 1548). Không có thừa tác vụ thánh chức (giám mục và linh mục) thì không có bí tích, ngoại trừ trong trường hợp khẩn cấp, ví dụ rửa tội, khi đó bất cứ ai cũng được làm (số 1256). Chức linh mục thừa tác ở tự nó cũng là một bí tích, qua đó Đức Kitô kiến tạo và dẫn dắt Hội Thánh (số 1547). Chức linh mục này “bảo đảm rằng trong các bí tích, chính Đức Kitô hành động nhờ Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh … Đây là sợi dây mang tính bí tích nối kết hành động phụng vụ với những gì các tông đồ đã nói và đã làm, và qua các tông đồ, với những gì Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch và nền tảng của các bí tích, đã nói và đã làm” (số 1120).

Bài 7. ĐỨC TIN VÀ BÍ TÍCH

Nếu Đức Kitô không sống lại, có lẽ sẽ không có Hội Thánh và cũng chẳng có bí tích. Đức Kitô đang hành động nơi các bí tích của Người. Bí tích là những dấu chỉ và khí cụ cho sự hiện diện của Chúa. Thế nhưng bí tích không hoạt động nếu không có chúng ta. Như Đấng Phục Sinh đã nói khi sai các môn đệ đi vào thế gian: “Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,16). Các bí tích không chỉ được trao ban mà còn được lãnh nhận. Việc thông ban ân sủng và sự sống của Thiên Chúa không tùy thuộc nơi chúng ta, thế nhưng có đón nhận và để cho ân sủng ấy trổ sinh hoa trái hay không, việc ấy lại tùy thuộc chúng ta.

Hội Thánh dạy rằng các bí tích có hiệu quả do sự (ex opere operato), “do chính hành động bí tích được thực hiện” (GLHTCG số 1128), nghĩa là do quyền năng của Chúa Kitô, do quyền năng của Thập Giá và sự Phục Sinh của Chúa, và do bí tích được cử hành cách thành sự. Khi một người làm phép Rửa tội, không phải người ấy rửa tội bằng quyền năng của riêng mình mà là chính Đức Kitô rửa tội qua người ấy. Phép Rửa không mang lại hiệu quả do cảm tính của chúng ta, cũng không do đức tin của chúng ta, nhưng do quyền năng của mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Đó là lý do tại sao hiệu quả của bí tích không tùy thuộc sự thánh thiện của cá nhân thừa tác viên. Kể cả khi một linh mục đang mắc tội – mà ai trong chúng ta không có tội – ban phép Giải tội, thì chính Thiên Chúa tha tội cho tôi qua vị linh mục ấy: “Bởi vì xét cho cùng, chính Đức Kitô là Đấng hành động và thực hiện ơn cứu độ qua thừa tác viên có chức thánh, nên sự bất xứng của vị này không ngăn cản được Đức Kitô hành động” (số 1584).

Tuy nhiên việc tôi lãnh nhận các bí tích như thế nào lại là điều quan trọng. Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Corintô đừng dự phần Bánh và Chén cách bất xứng, nếu không họ sẽ mang tội xúc phạm đến Mình và Máu Chúa (1 Cr 11,27). Vậy thế nào là lãnh nhận cách xứng đáng?

Trước hết là phải lãnh nhận bí tích bằng đức tin. Khi lên rước lễ, thừa tác viên trao Mình Thánh Chúa nói “Mình Thánh Chúa Kitô”, và tôi thưa “Amen”. Tiếng Amen ấy là hành vi đức tin, khẳng định sự sẵn sàng của tôi để trong đức tin, tôi đón nhận ân sủng Đức Kitô ban cho tôi trong bí tích.

Đức tin ấy cần được dưỡng nuôi và củng cố. Do đó học hỏi về ý nghĩa của các bí tích là điều cần thiết. Có những hình thức chuẩn bị thích hợp cho từng bí tích: học giáo lý để chịu phép Thêm Sức cũng quan trọng như những năm đào tạo để chịu chức thánh (số 1309 và 1589). Nếu không được chuẩn bị đầy đủ về ý nghĩa của bí tích hôn phối, làm sao các đôi vợ chồng hiểu được rằng họ đang cử hành bí tích cho nhau, Thiên Chúa đóng ấn dây hôn phối của họ, và Đức Kitô hiện diện giữa họ qua bí tích này (số 1632)? Việc chuẩn bị cũng cần thiết đối với những bí tích chúng ta lãnh nhận thường xuyên như bí tích Thánh Thể và bí tích Giao Hòa. Thế nhưng nhiều khi chúng ta rước lễ mà rất ít ý thức. Chẳng hạn, những giây phút thinh lặng sau khi rước lễ là điều cần thiết, nhưng ngày nay lại bị coi thường và lãng quên. Cuối cùng, toàn bộ đời sống chúng ta đều góp phần vào việc lãnh nhận các bí tích cách phong phú và hiệu quả nhất.

Bài 8. CÁC BÍ TÍCH: CỬA DẪN VÀO SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Trong mỗi bí tích, quá khứ, hiện tại và tương lai nối kết với nhau. Tất cả các bí tích đều nhắc nhớ một biến cố lịch sử cụ thể. Phép Rửa trong Kitô giáo nhắc nhớ Phép Rửa của Chúa Giêsu tại sông Giođan, và xa hơn nữa, việc dân Israel băng qua Biển Đỏ. Chúng ta nhớ đến sự kiện này cách đặc biệt trong Đêm Canh Thức Vượt Qua (GLHTCG số 281, 1221). Lại càng rõ ràng hơn nữa khi cử hành bí tích Thánh Thể: mệnh lệnh của Chúa là “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (số 1341). Cũng có thể nói như thế về mọi bí tích. Các bí tích cắm rễ sâu trong lịch sử Dân Chúa. Các bí tích là những “điểm nối kết” với cuộc đời Chúa Giêsu và không bao giờ tách rời khỏi đó. Các bí tích không chỉ là những biểu tượng trong đời sống con người, nhưng còn là những “dấu chỉ và khí cụ” của Đức Kitô cho chúng ta.

Trong sách hướng dẫn cử hành lễ Vượt Qua của Do Thái, có đoạn văn nói rằng mỗi người tham dự phải nghĩ về mình như là người hiện nay đang ra khỏi đất Ai Cập. Khi chúng ta nhớ lại điều đã xảy ra một lần thay cho tất cả (số 1085) thì sự kiện ấy trở thành hiện tại cho hôm nay; chúng ta là những người tham dự vào chính biến cố đó. Trong cử hành Thánh Thể, khi chúng ta thực hiện điều Chúa Giêsu đã truyền lệnh cho chúng ta làm cho đến khi Chúa lại đến, thì những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trong bữa Tiệc Ly trở thành hiện tại. Chúng ta có thể nói được rằng chúng ta là những người tham dự bữa Tiệc Ly ấy. Thời gian như biến mất. Hy lễ của Chúa trên Thánh Giá nay đang hiện diện. Chúng ta liên kết với Người tại bàn tiệc, trở thành “người cùng thời” với Người. Vâng, Thánh Thể là sự hiện diện của Chúa.

Tuy nhiên, quá khứ và hiện tại không phải là những chiều kích duy nhất của bí tích. Các bí tích còn hướng chúng ta đến tương lai. Nói theo ngôn ngữ của thánh Nicolaus Cabasilas, các bí tích là “cửa thiên đàng”, qua đó Đức Kitô đến gặp gỡ chúng ta. Trong tác phẩm sâu sắc và tuyệt đẹp của ngài về ba bí tích khai tâm: Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể, vị thầy thiêng liêng của thế kỷ 14 này đã mô tả các bí tích dẫn chúng ta vào tương lai ra sao, và nơi bí tích, thiên đàng mở ra cho chúng ta như thế nào. Thánh Phaolô nói về Chúa Thánh Thần như “hoa quả đầu mùa” của vinh quang sẽ tới. Chúng ta có thể áp dụng những từ này cho các bí tích: trong các bí tích, Hội Thánh nhận được bảo chứng gia tài của mình, nếm hưởng trước đời sống vĩnh cửu (số 1130).

Một bản văn của Hội Thánh sơ khai kể lại việc các Kitô hữu chờ đợi Chúa trở lại vào Đêm Vọng Phục Sinh như thế nào, cũng giống như ngày nay các tín hữu Do Thái giáo vẫn mong chờ Đấng Mêsia ngự đến vào Đêm Lễ Vượt Qua. Tràn ngập ước mong, các tín hữu sơ khai kêu lên “Maranatha” (Lạy Chúa, xin ngự đến). Khi đêm đã tàn và ngày mới xuất hiện mà vẫn không thấy Chúa trở lại như Người đã hứa, họ bắt đầu cử hành Thánh Thể. Đức Kitô, Đấng Phục Sinh, lại chẳng đến trong bí tích Thánh Thể đó sao? Dĩ nhiên là cách ẩn giấu, nhưng thực sự Người ở với chúng ta, ngày nay trong hình thức khiêm tốn của các bí tích, và mai ngày trong vinh quang của Chúa.

Bài 9. AI CỬ HÀNH PHỤNG VỤ?

Nhiều người sẽ trả lời câu hỏi này: Linh mục. Nếu chúng ta nghĩ đến việc cử hành Thánh Lễ thì đúng, theo nghĩa là nếu không có linh mục thì không có Thánh Lễ. Người khác sẽ nói: Toàn thể Hội Thánh, tất cả chúng ta đều cử hành phụng vụ. Câu trả lời này cũng đúng nếu hiểu cho đúng cụm từ “toàn thể Hội Thánh”. Thật vậy, “toàn thể cộng đoàn … cử hành phụng vụ” (GLHTCG số 1140). Hành động phụng vụ luôn luôn là “cử hành của Hội Thánh”. Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh đặc tính cộng đoàn của cử hành phụng vụ và nói đến “sự tham dự tích cực” của mọi tín hữu vào phụng vụ. Tuy nhiên trước khi bàn đến những vai trò khác nhau trong cử hành phụng vụ, chúng ta phải quan tâm đến một sự kiện có vẻ xa lạ nhưng hết sức quan trọng.

Trước câu hỏi “Ai cử hành phụng vụ?”, câu trả lời đầu tiên của sách Giáo Lý là: “Đức Kitô toàn thể” (số 1136), nghĩa là Đức Kitô là Đầu cùng với tất cả những chi thể của Người. Vị chủ sự là chính Đức Kitô và phụng vụ Người cử hành là phụng vụ thiên quốc. Công đồng cho chúng ta một mô tả sống động: “Trong phụng vụ trần thế, chúng ta tham dự như một cách nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giêrusalem, nơi chúng ta là lữ khách đang tiến về, ở đó, Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, là thừa tác viên của cung thánh và của nhà tạm đích thực” (số 1090).

Thật ngỡ ngàng khi biết rằng phụng vụ trần thế chúng ta đang cử hành lại là sự tham dự vào phụng vụ thiên quốc! Trong Thánh Lễ, phần cuối Kinh Tiền Tụng lại chẳng luôn nói rằng chúng ta hợp tiếng với các thiên thần và các thánh mà tung hô Chúa đó sao? Và trong mỗi Kinh Nguyện Thánh Thể, khi chúng ta nhớ đến Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa và các thánh, là để chúng ta hiệp thông với các ngài. Cộng đoàn phụng vụ tham dự vào vinh quang của Hội Thánh trên trời (số 957), cho dù chỉ là trong đức tin. Thực tại đó cho thấy phụng vụ có chiều rộng và chiều cao như thế nào! Nếu Đức Kitô ở giữa chúng ta thì cùng với Người là tất cả các chi thể trong Thân Mình Chúa, và tất cả chúng ta được hiệp nhất với nhau: những người đã ở thiên đàng cùng với Đức Kitô, những người đang còn trong hành trình dương thế, những người đang dự lễ ở giáo xứ, và tất cả những ai liên kết với chúng ta trong đức tin. Đó chính là “Đức Kitô toàn thể” đang cử hành phụng vụ.

Như thế, “sự tham dự tích cực” trước hết không phải là những hoạt động bên ngoài, nhưng là sự ý thức và tham dự từ bên trong vào cử hành phụng vụ, nhờ đức tin. Không có sự tham dự từ bên trong này thì sự tham gia bên ngoài cũng không thể biến chúng ta thành một cộng đoàn phụng vụ đích thực.

Cũng thế, “các chi thể không có cùng một chức năng” (số 1142). Như Công đồng nói, trong phụng vụ, mỗi người “chỉ làm và làm trọn vẹn những gì thuộc phận vụ của mình theo bản chất của sự việc và các quy tắc phụng vụ” (số 1144): linh mục, phó tế, đọc Sách Thánh, thừa tác viên Thánh Thể, người dự lễ. Tất cả chúng ta hiệp nhất với nhau trong cùng việc thờ phượng Chúa.

Bài 10. DẤU CHỈ VÀ BIỂU TƯỢNG

Năm 1927, Romano Guardini xuất bản cuốn sách mỏng, nhan đề là Những dấu chỉ thiêng thánh. Mục đích của tác phẩm là để đào tạo về phụng vụ, không phải bằng những giáo huấn trừu tượng, nhưng bằng những giải thích sống động về những cử chỉ, dấu chỉ và biểu tượng đơn giản gắn liền với phụng vụ. Ví dụ, ngài nói về việc quỳ và đứng, thềm cửa và cửa nhà thờ, nước thánh và hương, nến và chuông, bánh và rượu, chén thánh và khăn thánh.

Tất cả những điều này đều là thành phần của phụng vụ. Theo Guardini, điều quan trọng không phải là suy nghĩ về chúng mà đơn giản là làm những dấu chỉ thánh đó: Một người mẹ dạy con làm dấu thánh giá, cử chỉ nhúng tay vào nước thánh và bái gối khi đến nhà thờ. Những “ngôn ngữ cơ thể” đó tự nó nói lên nhiều điều.

Phải chăng ý nghĩa ấy vẫn còn tồn tại đến ngày nay? Năm 1987, trong Lời tựa cho tác phẩm của giám mục Kapellaris “Dấu chỉ thánh”, Hans Urs von Balthasar viết: “Những sự vật đơn giản chung quanh chúng ta hầu như không còn khả năng nói với chúng ta nữa. Và khi không còn nghe được điều mà những sự vật ấy nói nữa, thì chúng ta cũng giống như kẻ mù chữ không đọc được cuốn sách của tạo thành”. Nếu chúng ta muốn nghe ngôn ngữ của các bí tích, trước hết phải học lại ngôn ngữ của sự vật.

Sách Giáo Lý nhắc chúng ta rằng mọi dấu chỉ bí tích đều hàm chứa ba chiều kích. Trước hết, trong các bí tích, những dấu chỉ nền tảng là nước, bánh và rượu, dầu, là “hoa mầu ruộng đất và lao công của con người”. Maria Montessori, nhà giáo dục công giáo vĩ đại, tập cho trẻ em chuẩn bị bánh và rượu mà sau đó các em đem lên bàn thờ. Cách tập luyện này càng cần thiết hơn ngày nay vì do hoàn cảnh cuộc sống bị vây quanh bằng đủ thứ máy móc hiện đại, nhiều người trong chúng ta thiếu mối quan hệ sống động với thiên nhiên.

Kế đến, dấu chỉ bí tích không chỉ đơn thuần là dấu chỉ tự nhiên. Dấu chỉ tự nhiên ấy được đưa vào lịch sử của Dân Chúa (số 1150). Thiên Chúa ban cho Dân Ngài những “dấu chỉ của Giao Ước” như cắt bì, hy lễ, Lễ Vượt Qua.

Đức Kitô dùng cả những “dấu chỉ tự nhiên” (ví dụ: khi chữa bệnh) và những dấu chỉ từ Cựu Ước (ví dụ: bữa Tiệc Ly) và cả hai mang một ý nghĩa mới: chúng trở thành những dấu chỉ của Người, chính Người nói và hành động trong những dấu chỉ ấy.

Trong các bí tích của Hội Thánh, ba chiều kích này luôn hiện diện. Nếu chúng ta muốn hiểu biết sâu về các bí tích, nên tự hỏi xem chúng ta ý thức về ba chiều kích đó ra sao, và những dấu chỉ ấy được trình bày trong giáo lý và cử hành phụng vụ như thế nào. Có lẽ phương pháp sư phạm tốt nhất để hiểu các dấu chỉ bí tích là thực hành: khi ngọn nến phục sinh được thắp lên và tiến vào bóng tối đang bao trùm nhà thờ, thì chính kinh nghiệm ấy dẫn chúng ta đến với Đức Kitô, nguồn sáng của chúng ta. Dĩ nhiên là với đức tin.

Bài 11. THÁNH NHẠC

“Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và; ca tụng Người, họa tiếng cầm tiếng sắt. Ca tụng Chúa bằng vũ điệu trống đưa, ca tụng Người theo cung đàn nhịp sáo. Ca tụng Chúa đi với chũm chọe vang rền; ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi. Hỡi toàn thể chúng sinh, ca tụng Chúa đi nào”. Sách Thánh Vịnh đã kết thúc bằng những lời như thế.

Ngay từ thuở xa xưa, ca hát và âm nhạc đã là một phần trong đời sống Dân Chúa. Không thể nghĩ về Hội Thánh mà lại không nghĩ đến thánh nhạc. “Hát hay là cầu nguyện hai lần”, chúng ta rất quen với lời được gán cho thánh Augustinô. Trong Cựu Ước, cầu nguyện bằng tiếng hát được diễn tả qua nhiều hình thức, có thể tìm thấy trong sách Thánh Vịnh: than vãn, tạ ơn và khẩn cầu, những khúc hát hành hương và suy niệm về những công trình vĩ đại của Thiên Chúa (số 2588).

Mãi mãi Thánh Vịnh là trường học tuyệt vời dạy cầu nguyện. Điều quan trọng phải ghi nhớ là những khúc hát ấy diễn tả tâm tình cầu nguyện. Trong đời sống Hội Thánh Việt Nam, không thể không nhắc đến những bản thánh ca đi vào lòng người và nhiều thế hệ, những bản nhạc dâng kính Đức Mẹ và tôn vinh các mầu nhiệm lớn của đức tin Kitô giáo: Giáng Sinh, Mùa Chay và Phục Sinh.

Thêm vào gia sản thánh nhạc đã có trong Hội Thánh, còn phải nói đến những hình thức khác. Có một thời hầu như chỉ có ca đoàn trình diễn, còn cộng đoàn rơi vào thế thụ động. Ngày nay chúng ta đã vượt qua lối nhìn này. Ca đoàn có vị trí của mình và cộng đoàn cũng có vị trí của mình. Kể cả khi ca đoàn hát, vấn đề không phải là cộng đoàn rơi vào thế thụ động, nhưng là ca đoàn giúp cho cộng đoàn cầu nguyện sâu hơn. Muốn thế, ca đoàn phải hát thật hay và thật sốt sắng. Khi ấy, cộng đoàn cảm nghiệm rõ ràng tâm hồn mình được nâng cao và đi vào trong thế giới của Thiên Chúa. Thánh nhạc đích thực không chỉ là thỏa mãn nhu cầu văn hóa nhưng là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người.

Ngày nay người ta cũng bàn cãi về việc sử dụng “nhạc trẻ” trong phụng vụ. Có những nét hay và đẹp trong thứ âm nhạc này, nhưng cũng phải nhìn nhận có những yếu tố “rẻ tiền”, thiếu phẩm chất. Hãy thử suy nghĩ về sự kiện này: ngày nay, rất nhiều người trên thế giới thích nghe nhạc bình ca (ví dụ, những CD của cộng đoàn Santo Domingo de Silos ở Tây Ban Nha). Ở đó có cả một kho tàng mà chúng ta nên khôi phục. Giữa lòng sự ồn ào náo động của thời đại chúng ta, nền thánh nhạc đậm chất thiêng liêng lại xuất hiện như “phương thuốc của trời cao”.

“Bao lần con đã rơi lệ khi nghe các thánh thi, thánh ca của Chúa, những âm thanh dịu dàng vang lên trong thánh đường của Chúa, con đã xúc động biết bao. Những âm thanh ấy rót vào tai con, và chân lý được tinh luyện trong trái tim con, từ đó niềm hưng phấn đạo đức sục sôi lên, nước mắt tuôn trào, những điều đó làm cho con hạnh phúc” (Augustinô).

Bài 12. PHỤNG VỤ VÀ HÌNH ẢNH

Hình ảnh có thuộc về phụng vụ không? Nhiều nhà thờ mới xây dựng sau này hoàn toàn trống vắng hình ảnh, đến nỗi người ta có cảm tưởng như hình ảnh đã bị loại ra khỏi nhà thờ. Ngược lại, những nhà thờ cổ kính ngày xưa tràn ngập hình ảnh và tượng thánh đến nỗi có thể nói đến “một bữa tiệc làm no thỏa con mắt” (GLHTCG số 1162).

Qua nhiều thế kỷ, đã có cuộc tranh luận trong Hội Thánh về việc có nên dùng ảnh tượng trong phụng vụ hay không. Trong Cựu Ước đã có luật cấm tạc tượng (số 2132), liệu lệnh cấm ấy vẫn tiếp tục trong Tân Ước? Hội Thánh đã có câu trả lời từ sớm. Từ thế kỷ II và III, chúng ta đã thấy rất nhiều bức tranh nơi an táng các Kitô hữu, những hầm mộ. Những bức tranh ấy diễn tả những cảnh trong Cựu Ước, những cảnh trong cuộc đời Chúa Giêsu và Hội Thánh. Những hình ảnh này là những dấu chỉ cứu độ, làm chứng về ơn cứu độ Đức Kitô ban cho chúng ta, là những hình ảnh diễn tả niềm hi vọng sự sống đời đời.

Vào thế kỷ VII và VIII, nổ ra một cuộc tranh luận quyết liệt về việc sử dụng ảnh tượng: phải chăng dùng ảnh tượng trong nhà thờ là rơi vào ngoại giáo, một thứ tôn thờ ngẫu tượng? Vào thời đó, Hội Thánh đã đưa ra câu trả lời dứt khoát, câu trả lời vẫn còn giá trị đến ngày nay: Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô, Người Con hằng hữu của Thiên Chúa, đã làm người thực sự. Người có một khuôn mặt nhân loại, do đó có thể vẽ hình tạc tượng về Người (số 476).

Lệnh cấm trong Cựu Ước quy về Thiên Chúa là Đấng vô hình, bất khả đạt thấu. Lệnh cấm ấy cũng liên quan đến việc tạc hình tượng những loài thụ tạo (Xh 20,4) nhằm mục đích ngăn ngừa nguy cơ thờ ngẫu tượng (số 2129). Thế nhưng trong Tân Ước, chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Hình Ảnh đích thực của Ngài, đó là Chúa Con, Đấng đã làm người (số 1159). Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Đức Kitô là “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Col 1,15). Người là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa”.

Dựa vào lý do nào mà Hội Thánh chấp nhận bước chuyển từ mầu nhiệm Nhập Thể của Thiên Chúa đến việc cho phép vẽ hình tạc tượng Đức Kitô? Các giáo phụ trong Hội Thánh thích so sánh những ảnh tượng thánh với Kinh Thánh. Cũng như lời của Đức Kitô được truyền đạt bằng lời nói hoặc chữ viết của con người (các chứng nhân), thì theo một nghĩa nào đó, dung nhan của Đức Kitô cũng được các chứng nhân truyền lại cho chúng ta qua những hình ảnh. Không có ảnh tượng nào là hoàn hảo, tuy nhiên có những hình ảnh sống động và sâu sắc về Đức Kitô, nơi đó chiếu tỏa Ngôi vị thần linh của Người (số 1160).

Ngày nay, câu hỏi được đặt ra là: liệu nghệ thuật đương đại có can đảm và khả năng để trình bày Đức Kitô không? Nhiều người thích những biểu tượng và hình ảnh trừu tượng hơn là những những hình ảnh khách quan. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng sẽ không thể loại bỏ những hình ảnh về Đức Kitô, Đức Mẹ và các thánh. Hình ảnh cũng gắn với phụng vụ, với nhà của Chúa, với lòng đạo đức cá nhân. Những hình ảnh ấy giúp chúng ta in đậm Đức Kitô và các thánh vào ký ức của mình và nhờ đó, luôn sống trong sự hiện diện của các ngài.

Bài 13. “HÔM NAY”

Trong giờ kinh chiều lễ Hiện Xuống, Hội Thánh cầu nguyện: “Đây là ngày lễ Hiện Xuống, Alleluia. Hôm nay Chúa Thánh Thần hiện đến với các môn đệ dưới hình ngọn lửa và ban cho các ông những hồng ân đặc biệt. Ngài sai các ông đi vào thế giới, loan báo rằng bất cứ ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ, Alleluia”.

Từ “hôm nay” hầu như vang lên trong mọi ngày lễ lớn của Hội Thánh. Rõ nhất là lễ Giáng Sinh: “Hôm nay Chúa Kitô giáng sinh; hôm nay Đấng Cứu độ xuất hiện. Trái đất vang lên tiếng hát của các thiên thần và lời chúc tụng của các tổng lãnh thiên thần. Hôm nay trên trần thế, các bạn hữu của Chúa hát mừng: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, Alleluia”.

Tại sao Hội Thánh nhấn mạnh từ “hôm nay”? Không chỉ trong những ngày lễ lớn nhưng là hằng ngày. Ngày qua ngày Hội Thánh bắt đầu Các Giờ Kinh Phụng Vụ bằng thánh vịnh 95: “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa. Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như ở Massa trong sa mạc, nơi cha ông các ngươi từng thử thách Ta”. Thư Do Thái giải thích về “hôm nay” như sau: “Ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt. Quả thế, chúng ta đã được thông phần Đức Kitô, miễn là chúng ta giữ vững cho đến cùng căn bản của lòng tin đã có từ ban đầu” (3,13-14).

Đối với các tín hữu, ngày nào cũng là ngày “hôm nay” của Thiên Chúa. Bởi lẽ chính Đức Kitô đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Vì Đức Kitô đã sống lại, về cùng Cha, và gửi Thánh Thần đến với chúng ta, nên thời gian mà chúng ta đang sống đã trở nên mới mẻ (GLHTCG số 1165). Thời gian không còn là dòng chảy hướng đến sự chết nhưng thời gian ngập tràn lời hứa của Thiên Chúa “Thầy ở với anh em”. Chúng ta vẫn sống giữa thời gian và trải nghiệm mọi khó khăn thử thách của cuộc sống. Vấn đề là làm sao đừng để thời giờ trôi đi vô ích, làm sao sử dụng thời giờ đã được ban cho chúng ta cách đúng đắn nhất, hiểu biết “những dấu chỉ thời đại” (x. Lc 12,56) và hành động đúng thời đúng lúc.

Cách tốt nhất là sống “ngày hôm nay” của Chúa, Đấng đã dạy rằng “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khó của ngày ấy” (Mt 6,34). Người cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm naylương thực hằng ngày” (Mt 6,11). Nói cho cùng, sống “ngày hôm nay” của Chúa chính là sống yêu thương. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã diễn tả rất hay:

“Cuộc sống tôi chỉ trong khoảnh khắc,

Như một ngày đến rồi trôi qua.

Ôi lạy Chúa, Chúa biết điều này quá rõ.

Yêu mến Chúa trên cõi đời này,

Con chẳng có gì khác hơn ngày hôm nay”.

Bài 14. NĂM PHỤNG VỤ

Năm Phụng Vụ bắt đầu với Chúa nhật I Mùa Vọng và kết thúc bằng đại lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ. Năm Phụng Vụ có ý nghĩa gì? Phải chăng là bánh xe quay không ngừng nghỉ, cũng những việc ấy lặp đi lặp lại mãi không ngừng? Phải chăng năm nào cũng như năm nào, chỉ khác một điều là chúng ta thấy mình già đi và dường như thời gian trôi nhanh hơn? Những tôn giáo lớn của châu Á như Ấn giáo, Phật giáo, quan niệm thời gian như sự quy hồi vĩnh cửu, như bánh xe vĩ đại cứ quay qua những chu kỳ thời gian để rồi cuối cùng lại trở về điểm khởi hành. Quan niệm này gắn với quan niệm về luân hồi, kiếp sau, vốn được nhìn nhận trong những tôn giáo này và ngày nay, phổ biến ở cả các nước phương Tây.

Kitô giáo có quan niệm hoàn toàn khác về thời gian và quan niệm ấy được thể hiện trong Năm Phụng Vụ. Thời gian phụng vụ được xác định bởi biến cố vĩ đại và đổi mới tất cả, đó là cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, sự chết và phục sinh của Người. Kể từ biến cố Đức Kitô Phục sinh, thời gian mang một phẩm chất mới. Nó không còn là dòng chảy hướng về sự chết nhưng tràn ngập sự sống mới của Đức Kitô: “Mầu nhiệm Phục Sinh, nơi đó Đức Kitô tiêu diệt sự chết, thấm nhập vào thời gian già cỗi của chúng ta bằng sức mạnh đầy quyền năng của Người, cho đến khi mọi sự phải quy phục Người” (GLHTCG số 1169).

Cử hành phụng vụ với Hội Thánh theo dòng thời gian, chúng ta sẽ khám phá ra rằng cách hiểu của mình về thời gian dần dần được biến đổi. Ngày, tháng, năm mang một “hương vị” mới. Thời gian không còn trôi đi vô nghĩa nhưng trơ nên phong phú hơn, cô đọng hơn và tràn đầy sự sống. Trong thứ thời gian mới mẻ này, đại lễ Phục Sinh là nguồn ánh sáng soi tỏ mọi sự, là trung tâm và chóp đỉnh của Năm Phụng Vụ (số 1168). Từ đó, toàn bộ Năm Phụng Vụ được cấu thành. Ở tâm điểm là Tuần Thánh, được chuẩn bị bằng bảy tuần Mùa Chay là thời gian chúng ta chuẩn bị cho sự tái sinh nhờ sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Cuối cùng là bảy tuần Mùa Phục Sinh nhằm đưa chúng ta đi sâu vào sự sống mới trong Đức Kitô, đỉnh cao là lễ Hiện Xuống, khi chúng ta được sai đi trong quyền năng Thánh Thần để làm chứng cho Chúa.

Nhóm những ngày đại lễ thứ hai tập trung vào lễ Giáng Sinh, cử hành mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thân phận nghèo nàn của kiếp nhân sinh, để mang lại cho chúng ta ánh sáng và sự sống.

Trong Mùa Thường Niên, chúng ta cử hành tất cả những biến cố khác trong cuộc đời Chúa Giêsu: dâng Chúa trong đền thờ, 40 ngày trong hoang địa, Chúa chịu Phép Rửa và Biến Hình. Ngày qua ngày, Chúa nhật này sang Chúa nhật khác, chúng ta nhớ lại mọi lời nói và hành động của Chúa Giêsu như được ghi lại trong Sách Thánh.

“Năm Phụng Vụ là sự triển khai những khía cạnh khác nhau của Mầu Nhiệm Vượt Qua duy nhất” (số 1171). Vâng, Đấng Phục Sinh ở giữa chúng ta và Người soi sáng tất cả.

Bài 15. CHÚA NHẬT

“Vào ngày Mặt Trời như người ta thường gọi, mọi người ở thành phố hay nông thôn đều họp lại một nơi”. Thánh Giustinô tử đạo đã mô tả như thế về việc thờ phượng của các Kitô hữu, trong một văn bản được viết khoảng năm 155 (GLHTCG số 1345). Ngay từ đầu, cộng đoàn Kitô hữu quy tụ lại để làm việc thờ phượng vào mỗi Chúa nhật đã là đặc tính tiêu biểu của Hội Thánh. Và truyền thống ấy vẫn duy trì đến ngày nay.

Ngày thứ nhất trong tuần, Ngày Đức Kitô phục sinh, là “ngày lễ cội nguồn của các Kitô hữu”. Ngày ấy sẽ mãi mãi là ngày thứ nhất và quan trọng nhất đối với người Kitô hữu. Cho nên việc “giữ ngày Chúa nhật” phát sinh từ nhu cầu nội tại của đời sống đức tin, chứ không chỉ đơn thuần là lề luật áp đặt từ bên ngoài. Trong một giáo xứ, đời sống các Kitô hữu lên hay xuống đều gắn với Chúa nhật, bởi lẽ tâm điểm của đời sống Kitô giáo là việc cùng nhau đến làm việc thờ phượng Chúa. Người nào bỏ ngày Chúa nhật vì lười biếng sẽ khó lòng sống đức tin đích thực cho đến cùng.

“Chúng ta đừng bỏ những buổi hội họp như vài người quen làm; trái lại, phải khuyến khích nhau” (Dt 10,25). Lời khuyến dụ này trực tiếp nhắm vào Chúa nhật, cũng được gọi là “Ngày của Chúa”. Đây là Ngày Chúa Kitô phục sinh, nên là ngày của niềm vui. Thánh Lễ là trung tâm và chóp đỉnh của ngày ấy, “để khi nghe Lời Chúa và tham dự bí tích Thánh Thể, họ kính nhớ cuộc khổ nạn, sự sống lại và vinh quang của Chúa Giêsu. Đồng thời họ cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã tái sinh họ trong niềm hi vọng sống động, nhờ sự sống lại từ cõi chết của Chúa Giêsu Kitô” (số 1167). Trong Thánh Lễ, “toàn thể cộng đoàn các tín hữu được gặp Chúa Phục sinh, Đấng mời họ vào bàn tiệc của Người” (số 1166).

Ngày nay, tại Việt Nam, việc cử hành Ngày Chúa nhật tuy vẫn được các tín hữu trung thành gìn giữ nhưng đang có nguy cơ bị mờ nhạt vì nhiều lý do, nhất là tại các thành phố lớn. Chúa nhật chỉ được coi là ngày nghỉ cuối tuần để giải trí vui chơi hơn là Ngày Thứ Nhất trong tuần (báo “Tuổi Trẻ Chủ Nhật” bây giờ biến thành “Tuổi Trẻ cuối tuần”). Và trong ngày cuối tuần ấy, không có bóng dáng của Chúa. Cũng vì chỉ coi như ngày giải trí vui chơi nên nếu có đến nhà thờ, cũng chỉ đến cho xong bổn phận.

Vì thế, phải khơi dậy ý thức đức tin về Ngày Chúa nhật, Ngày của Chúa, để Ngày ấy trở thành nguồn sáng trung tâm cho cả tuần lễ: “Nếu người ngoại giáo gọi ngày này là ngày của mặt trời (Sunday), chúng ta cũng sẵn sàng công nhận như vậy, vì hôm nay, ánh sáng của trần gian đã mọc lên, các tia sáng của mặt trời này mang lại ơn chữa lành” (Hiêrônimô).

Bài 16. PHỤNG VỤ CÁC GIỜ KINH

Chúa Giêsu dạy các môn đệ Người phải cầu nguyện không ngừng (x. Lc 18,1; 21,36). Điều này không có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng ở trong nhà thờ đọc kinh! Nhưng có nghĩa là tâm hồn chúng ta lúc nào cũng gắn bó với Chúa, bằng nỗi ước mong của “trái tim không ngủ yên” (GLHTCG số 30).

Tuy nhiên, mệnh lệnh “cầu nguyện không ngừng” có thể được hiểu theo nghĩa đen khi nói về Hội Thánh. Là Hiền thê của Đức Kitô, Hội Thánh không ngừng cầu nguyện, không ngừng ca tụng Chúa, không ngừng cầu khẩn, bởi vì một Hội Thánh duy nhất đang cầu nguyện nơi mọi chi thể của mình, nơi những người còn đang trên đường hành hương dưới thế, và nơi những người đã nên hoàn thiện và đang được kết hợp với Chúa (GLHTCG số 954).

Nói theo nghĩa chặt thì với các Kitô hữu, không có chuyện “cầu nguyện riêng tư”. Mỗi lời cầu nguyện, dù mang tính cá nhân đến mấy đi nữa, vẫn mang chiều kích Hội Thánh. Bởi lẽ mỗi chúng ta đều là chi thể sống động trong Thân Mình Chúa Kitô. Bất cứ ai cầu nguyện cũng là cầu nguyện trong Hội Thánh và với Hội Thánh, và Hội Thánh cầu nguyện trong mỗi chúng ta.

Sự gắn kết giữa tính cá nhân và tính Hội Thánh trong cầu nguyện như thế được diễn tả cách đặc biệt trong Phụng Vụ Các Giờ Kinh. Các Giờ Kinh này trải dài trong suốt ngày, và như thế, thánh hóa thời gian trong ngày. Cách cầu nguyện như thế cũng có mặt trong nhiều tôn giáo. Phụng Vụ Các Giờ Kinh của chúng ta bắt rễ trong truyền thống Do Thái (GLHTCG số 1096). Vào thời sơ khai của Hội Thánh, chúng ta đã thấy các môn đệ họp nhau lại vào một thời điểm nào đó trong ngày để cùng cầu nguyện: giờ thứ ba (Cv 2,13), giờ thứ sáu (Cv 10,9), giờ thứ chín (Cv 3,1); tức là vào 9 giờ sáng, 12 giờ trưa và 3 giờ chiều. Chúng ta cũng thấy họ cầu nguyện và hát thánh vịnh dâng lên Chúa lúc nửa đêm (Cv 16,25). Ngoài ra, Kinh Sáng và Kinh Chiều là những giờ kinh truyền thống của người Do Thái. Phụng Vụ Các Giờ Kinh của chúng ta cũng được sắp xếp như thế và nối kết chúng ta với gốc rễ là dân Isarel (x. Roma 11,18).

Theo truyền thống lâu đời của Kitô giáo, Phụng Vụ Các Giờ Kinh được thiết lập “để suốt cả ngày đêm được thánh hiến bằng việc ca ngợi Thiên Chúa” (số 1174). Phụng Vụ Các Giờ Kinh là lời cầu nguyện của toàn thể Dân Chúa, cho dù không phải mọi người đều trực tiếp tham dự. Công đồng diễn tả ước muốn là ít nhất “những giờ kinh chính”, đặc biệt là Kinh Chiều, các ngày Chúa nhật và lễ trọng, “được cử hành chung trong nhà thờ. Khuyên các giáo dân hãy đọc Kinh Thần Vụ, hoặc cùng với các linh mục, hoặc khi họ họp nhau, và kể cả đọc riêng một mình nữa” (số 1175).

Phụng Vụ Các Giờ Kinh là bổn phận bó buộc đối với các linh mục, những người “chuyên cần cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa”. Cầu nguyện là việc tông đồ đầu tiên và quan trọng nhất vì chỉ có Chúa mới là Đấng ban cho chúng ta sự thành công và hiệu quả trong việc tông đồ: “Không có Thầy, anh em không làm được gì”.

Bài 17. TRONG NHÀ CHÚA

Nhà thờ là “Nhà cầu nguyện, nơi bí tích Thánh Thể được cử hành và cất giữ, nơi các tín hữu được quy tụ, nơi sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, được hiến dâng trên bàn thờ hy tế vì chúng ta, được tôn thờ để phù trợ và an ủi các tín hữu, nhà đó phải đẹp, phải thích hợp cho việc cầu nguyện và cho các nghi thức thánh thiêng” (GLHTCG số 1181).

Nhưng thế nào là nhà thờ đẹp? Kiến trúc thánh đường và việc sắp xếp trong thánh đường đã trải qua nhiều thay đổi: từ các nhà thờ kiểu Roman đến những nhà thờ chính tòa kiểu Gothic, từ vẻ lộng lẫy của kiến trúc Baroque đến sự phục hưng của Gothic, từ những thánh đường theo kiến trúc hiện đại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, dù có khác biệt trong phong cách kiến trúc nhưng điều hiển nhiên ở mọi thời là nhà thờ phải là nơi “thích hợp cho việc cầu nguyện và các nghi thức thánh thiêng”.

Nội thất của nhà thờ không phải muốn chất đầy cái gì cũng được. Không, đó là một cơ thể sống động được kiến tạo từ trung tâm. Tâm điểm của mọi nhà thờ là bàn thờ. Đó là biểu tượng, dấu chỉ của chính Đức Kitô. Đức Kitô là trung tâm điểm của mọi nhà thờ và cộng đoàn quy tụ chung quanh Người. Trung tâm và chóp đỉnh của phụng vụ là việc cử hành sự chết và phục sinh của Chúa. Chính Người là “Lễ tế, Linh mục, Bàn thờ”. Trên bàn thờ thập giá, Người hiến dâng chính mình lên Chúa Cha vì phần rỗi mọi người. Như thế nơi những của lễ chúng ta đem đến bàn thờ để cử hành Thánh Thể, chúng ta hiến dâng chính mình để được kết hợp với hy lễ của Đức Kitô.

Vào thời xa xưa, các bàn thờ được xây trên những nấm mộ của các vị tử đạo (ví dụ, trên mộ của thánh Phêrô ở Rôma). Ngày nay, thánh tích của các thánh được gắn vào bàn thờ. Đây là những dấu chỉ cho thấy sự sống và sự chết của người Kitô hữu đều đón nhận sức mạnh từ hy lễ duy nhất của Đức Kitô.

Bàn thờ cũng là bàn tiệc của Chúa, nơi đó Đấng Phục Sinh quy tụ các Kitô hữu lại để ban sức mạnh cho họ nhờ Mình và Máu Thánh Chúa.

Tòa giảng, nơi công bố Lời Chúa, gắn kết mật thiết với bàn thờ. Đức Kitô cũng hiện diện nơi Lời của Người. Công đồng nói đến “bàn tiệc Lời Chúa và Thân Thể Đức Kitô” (nên nhớ chỉ có một bàn tiệc duy nhất – số ít: the one table of God’s Word and Christ’s Body). Điều đó nhấn mạnh sự duy nhất nội tại của Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể. Trong cả hai phần này của Thánh Lễ, Đức Kitô là trung tâm.

Một yếu tố thiết yếu của nhà thờ là Nhà tạm, “phải được đặt ở nơi cao quý nhất và cách tôn kính nhất”. Sự cao quý, vị trí và sự an toàn của nhà tạm Thánh Thể phải tạo sự thuận lợi cho việc thờ phượng Chúa đang hiện diện thực sự trong bí tích cực thánh trên bàn thờ (số 1183). Đây chính là điểm độc đáo nhất trong nhà thờ: Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta trong hình thức khiêm tốn của bí tích Thánh Thể.

Bài 18. HIỆP NHẤT VÀ ĐA DẠNG TRONG PHỤNG VỤ

Những bài tìm hiểu trên đã cung cấp một cái nhìn tổng quát về Phụng vụ. Trong những bài kế tiếp, người đọc sẽ tìm hiểu từng bí tích một. Tuy nhiên, trước khi đi vào phần này, cần nói đến một vấn đề được sách Giáo Lý đề cập đến: ý nghĩa của sự đa dạng trong những nghi lễ phụng vụ.

Trong Hội Thánh Công giáo ngày nay, những truyền thống phụng vụ quan trọng nhất là: phổ biến nhất là nghi lễ Rôma, tức là của Hội Thánh công giáo Rôma; kế đến là nghi lễ Byzantinô, được cử hành không những trong Giáo hội Chính thống mà còn trong “Hội Thánh Công Giáo Hi Lạp”, nghĩa là những Giáo hội cử hành nghi lễ Byzantinô nhưng hoàn toàn hiệp thông với Rôma; cuối cùng, có những nhóm nhỏ hơn theo các nghi lễ Copticô, Syriacô, Armêniô, Marônita và Chalđêô (GLHTCG số 1203).

Sự đa dạng trong những truyền thống phụng vụ này được Công đồng minh nhiên nhìn nhận, coi tất cả đều “bình đẳng trên pháp lý và được tôn trọng như nhau”. Hơn nữa, Công đồng còn mong muốn “các nghi lễ ấy được duy trì trong tương lai và được cổ võ bằng mọi cách” (số 1203).

Về mặt lịch sử, sự đa dạng này phát triển do nỗ lực “hội nhập văn hóa” của Hội Thánh vào các dân tộc, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau trên thế giới. Nỗ lực này đã bắt đầu ngay từ thời đầu tiên của Hội Thánh. Tin Mừng đi đến đâu, Hội Thánh được thiết lập ở đâu, thì ở đó xuất hiện mối quan hệ hỗ tương giữa Tin Mừng và văn hóa, giữa Hội Thánh truyền giáo và các tân tòng. Những nghi lễ phụng vụ khác nhau là hoa trái của nỗ lực hội nhập văn hóa nói trên. Đó là những cách diễn tả đặc trưng của mỗi nền văn hóa về mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô (số 1202).

Nếu bạn tình cờ tham dự việc cử hành Thánh Thể theo nghi lễ Byzantinô, bạn sẽ thấy nghi lễ ấy được xây dựng trên cùng một cấu trúc nền tảng như Thánh Lễ trong nghi lễ Rôma, tuy nhiên có những cách diễn tả khác. Trong cả hai nghi lễ Byzantinô và Rôma, chỉ có một mầu nhiệm duy nhất được cử hành. Sự đa dạng này làm cho Hội Thánh thêm phong phú bao lâu còn duy trì được sự hiệp nhất trong đức tin (số 1201).

Trên khắp thế giới ngày nay, người ta tranh luận về việc Phụng vụ và Hội Thánh cần phải hội nhập vào những nền văn hóa mới, ở đó Hội Thánh đang hiện diện và hoạt động. Tại châu Phi và châu Á, đây là những vấn đề nổi cộm. Ngay cả ở phương Tây, nhiều người cũng yêu cầu Phụng vụ phải thích nghi với những thay đổi về văn hóa.

Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi người, mọi dân tộc và mọi nền văn hóa. Trong Thánh vịnh 2, được Hội Thánh áp dụng cho Đức Kitô, Thiên Chúa nói với Đấng Mêsia: “Ta sẽ làm cho muôn dân nước thành sản nghiệp của con, toàn cõi đất làm phần lãnh địa của con”. Bất cứ nơi đâu, khi một nền văn hóa gặp gỡ Tin Mừng, thì giống như một cuộc “trở về nhà”, trở về với Đấng đang đợi chờ nền văn hóa ấy trong chiều sâu thẳm của nó, tức là trở về với Đức Kitô. Đương nhiên điều này không thể xảy ra nếu không có sự “hoán cải” của văn hóa, nghĩa là nó cần được thanh tẩy khỏi những ngẫu tượng. Phụng vụ là nơi mà những gì tốt đẹp nhất trong nền văn hóa của các dân tộc tìm được nẻo đường đến với Đức Kitô

Bài 19. BẢY BÍ TÍCH

Câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: Tại sao lại là 7 chứ không phải 8 hay 10?

Các bí tích ban tặng cho đời sống Kitô hữu sự khởi đầu cũng như sự tăng trưởng, sự chữa lành cũng như sứ vụ phải hoàn thành. Các bí tích chạm đến mọi giai đoạn và mọi thời điểm quan trọng trong cuộc đời người Kitô hữu. Đó là lý do tại sao người ta thường so sánh những giai đoạn trong đời sống thể lý với những giai đoạn trong đời sống thiêng liêng. Chẳng hạn như thánh Tôma Aquinô viết như sau trong cuốn Tổng luận thần học:

“Đời sống thiêng liêng có sự tương hợp nào đó với đời sống tự nhiên ... Trong đời sống tự nhiên, con người nên hoàn hảo qua hai cách. Cách thứ nhất là trong tương quan với chính bản thân. Cách thứ hai là trong tương quan với cộng đoàn và xã hội mà mình đang sống, vì con người tự bản chất là một sinh vật có tính xã hội.

Ở tự nó, đời sống tự nhiên nên hoàn hảo bằng ba nẻo đường. Thứ nhất là bằng sinh sản, qua đó một con người bắt đầu hiện hữu và sống. Tương ứng với điều này trong đời sống thiêng liêng là bí tích Rửa tội, tức là sự tái sinh thiêng liêng. Thứ hai là bằng sự tăng trưởng, nghĩa là con người phát triển đến tầm vóc và sức mạnh đầy đủ. Tương ứng với đời sống thiêng liêng là bí tích Thêm Sức, làm cho ta mạnh sức nhờ Thánh Thần. Thứ ba là bằng lương thực, nhờ đó sự sống và sức khỏe của con người được bảo toàn. Tương ứng với điều này trong đời sống thiêng liêng là bí tích Thánh Thể. Và như thế coi như đã đủ cho con người, cả về thể xác lẫn tinh thần.

Tuy nhiên, lúc này lúc khác, con người bị đau yếu cả về thể xác lẫn linh hồn (do tội lỗi), cho nên con người cần được chữa lành. Việc chữa lành có hai mặt. Thứ nhất, chữa lành theo nghĩa là hồi phục sức khỏe. Tương ứng với điều này trong đời sống thiêng liêng là bí tích Giao Hòa (Giải tội). Thứ hai, chữa lành theo nghĩa là phục hồi sức khỏe và năng lực qua việc tập luyện và kiêng cữ. Tương ứng với điều này trong đời sống thiêng liêng là bí tích Xức dầu bệnh nhân.

Trong mối tương quan với cộng đoàn, con người nên hoàn hảo qua hai mặt. Thứ nhất là đảm nhận quyền bính để điều hành dân chúng và thực thi việc công. Trong đời sống thiêng liêng, điều này tương ứng với bí tích Truyền Chức Thánh. Thứ hai là bảo tồn nòi giống. Điều này diễn ra trong bí tích Hôn Phối, cả về mặt tự nhiên lẫn thiêng liêng, vì đây không chỉ là một bí tích mà còn là bổn phận tự nhiên.

Dĩ nhiên đây chưa phải là câu trả lời trọn vẹn nhưng dẫu sao cũng cung cấp cho chúng ta một tầm nhìn về sự hiện diện của bảy bí tích trong đời sống Kitô hữu.

Bài 20. CÁC BÍ TÍCH KHAI TÂM

Ba bí tích khai tâm dẫn vào đời sống Kitô giáo là Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể (Rước lễ lần đầu). Ngày nay người Kitô hữu thường quên mất điều này là cả ba bí tích trên tạo thành một thể thống nhất. Khi chúng ta tham dự nghi thức rửa tội cho người lớn, sẽ thấy sự duy nhất này cụ thể hơn. Thông thường, các dự tòng lãnh nhận cùng lúc cả ba bí tích: được rửa tội, chịu phép Thêm sức và rước lễ.Trong sách Công Vụ, có những trường hợp gia nhập Đạo rất nhanh. Chẳng hạn viên cai ngục ở Trôa: ngay đêm hôm đó, ông ta và cả gia đình tin vào Chúa, được rửa tội và tham dự Bữa Tối của Chúa (16,23-24). Viên hoạn quan xứ Êthiôpia cũng thế (8,26-40). Thế nhưng Hội Thánh sơ khai cũng cho thấy thông thường thời gian chuẩn bị để chịu Phép Rửa phải kéo dài lâu hơn, đến 3 năm. Các dự tòng phải học giáo lý, thông thường là chính giám mục dạy. Họ học kinh Tin Kính, đón nhận kinh Lạy Cha, rồi còn phải xem xét cách ăn nết ở và sự hiểu biết đức tin của họ. Hội Thánh còn cử hành nghi thức trừ quỷ để xua đuổi quyền lực tối tăm khỏi các dự tòng. Cuối cùng, thường là vào Đêm Vọng Phục Sinh, họ mới được rửa tội và được xức dầu thánh. Đây là lần đầu tiên họ được phép tham dự việc cử hành Thánh Thể và Bàn tiệc của Chúa. Trước đó, họ đến nhà thờ dự lễ nhưng sau phần Phụng Vụ Lời Chúa thì phải ra ngoài. Chia sẻ việc cử hành “mầu nhiệm đức tin” chỉ được dành riêng cho những người đã được rửa tội.

Vào thế kỷ IV và V, khi con số trẻ sơ sinh được rửa tội chiếm đại đa số thì tiến trình chuẩn bị nói trên cũng bị dần rơi vào quên lãng. Giáo Hội Đông phương vẫn duy trì việc ban cả ba bí tích cho trẻ nhỏ. Giáo Hội Tây phương đi theo một hướng khác, tức là tách bí tích Thêm Sức và Rước lễ lần đầu khỏi việc rửa tội. Làm như thế để nối kết những giai đoạn khác nhau trong tiến trình phát triển của một người với những giai đoạn đào tạo đời sống Kitô hữu. Các mục tử có nhiệm vụ phải giải thích cho anh chị em tín hữu hiểu biết về sự duy nhất nội tại của ba bí tích này như Đức Phaolô VI diễn tả:

“Việc tham dự vào bản tính Thiên Chúa mà ân sủng của Đức Kitô ban cho con người, có một sự tương tự nào đó với đời sống tự nhiên, là được sinh ra, lớn lên, và được nuôi dưỡng. Thật vậy, được tái sinh bằng bí tích Rửa Tội, các tín hữu được củng cố bằng bí tích Thêm Sức, sau cùng được bồi bổ bằng Bánh trường sinh trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm Kitô giáo, càng ngày họ càng được lãnh nhận những kho tàng của đời sống thần linh và tiến đến sự trọn hảo của đức mến” (GLHTCG số 1212).

Bài 21. PHÉP RỬA CỦA CHÚA GIÊSU - PHÉP RỬA CỦA CHÚNG TA

Bí tích Rửa Tội là cổng dẫn vào toàn bộ đời sống Kitô hữu, là nền tảng của mọi bí tích khác, cũng là “nền tảng sự hiệp thông giữa các Kitô hữu” (GLHTCG số 1213, 1271). Nhưng tại sao lại cần đến nghi thức này để trở thành Kitô hữu? Tin vào Đức Kitô và phó thác bản thân cho Người và Lời của Người, phải chăng chưa đủ sao? Việc cử hành nghi thức rửa tội - với nước, dầu, nến - lại chẳng mang nét “ma thuật”, tàn dư từ thuở hồng hoang sao? Vậy nghi thức này có ý nghĩa gì?

Trong tiếng Hi Lạp, từ baptizein mà chúng ta dịch là Rửa Tội có nghĩa là “dìm xuống”. Hãy bắt đầu từ những kinh nghiệm sống của con người. Nước là một trong những yếu tố uyên nguyên của tạo thành. Không có nước thì không có sự sống. Bất cứ ai có chút kinh nghiệm về sa mạc hoặc thời kỳ khô hạn đều hiểu được nước quý giá như thế nào. Nước không những ban tặng sự sống mà còn tẩy sạch. Đồng thời vì con người là “tinh thần nhập thể”, hai yếu tố xác-hồn liên kết với nhau, cho nên sự tẩy rửa thân xác cũng có nghĩa là thanh tẩy tâm hồn. Ngoài ra, trong những cơn lũ lụt, nước lại là vũ khí chết người, nước có thể nhận chìm tất cả và hủy hoại sự sống trong dòng thác lũ (số 1217¬1220).

Cả ba ý nghĩa nói trên đều hiện diện trong bí tích Rửa Tội: (1) dòng thác hủy diệt: Phép Rửa là sự tham dự vào sự chết và chôn táng của Chúa Giêsu (Rôma 6,3-4); (2) tẩy rửa: Phép Rửa tái sinh (số 1215); (3) sự sống: Phép Rửa như là sự phục sinh với Đức Kitô trong đời sống mới (số 1214).

Nghi thức làm phép Rửa từ đâu mà có? Ngay từ những ngày đầu, các môn đệ của Chúa đã làm phép Rửa cho những ai đón nhận Lời được loan báo, cụ thể là ba ngàn người trở lại vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv 2,41). Phép Rửa được coi như cổng dẫn vào đời sống Kitô hữu, và điều ấy chưa bao giờ bị đặt thành nghi vấn, ngoại trừ do một vài nhóm nhỏ ngoài lề. Lời giải thích tỏ tường nhất cho việc cử hành phép Rửa là chính mệnh lệnh của Chúa Giêsu trao cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19-20).

Chính Chúa Giêsu đã chịu phép Rửa tại sông Giođan. Điều gì đã thúc đẩy Chúa Giêsu nhận phép Rửa từ tay Gioan (Mt 3,13)? Thánh Gioan đã ngần ngại khi làm phép Rửa cho Đấng đến giữa đám đông những người thu thuế, lính tráng, gái điếm, làm như thể chính Người cũng là một tội nhân đang sám hối (số 535). Thế nhưng Chúa Giêsu đã nói với Gioan rằng cứ làm như thế để “làm trọn đức công chính” (Mt, 3,15). Bắt đầu thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã xác định rõ vị trí của Người: ở giữa những kẻ tội lỗi. Chính vì những tội nhân mà Người chịu phép Rửa sám hối, và phép Rửa ấy báo trước một “phép Rửa khác” mà Người phải chịu, đó là trao hiến mạng sống làm “giá

chuộc cho muôn người” (Mc 10,45) và để “tha thứ tội lỗi” (Mt 26,28).

Như thế, nghi thức phép Rửa của chúng ta đã bắt nguồn từ phép Rửa của Chúa Giêsu. Quyền năng và hiệu quả mầu nhiệm của phép Rửa bắt nguồn từ Thập Giá Đức Kitô: chúng ta được “rửa tội” trong sự chết của Chúa để sự sống của Chúa khơi nguồn nơi chúng ta (số 1225, 1227).

Bài 22. NGHI THỨC RỬA TỘI NHƯ LÀ “NHIỆM HUẤN”

Ở tự nó, nghi thức làm Phép Rửa đã nói lên tất cả: những lời nói và cử chỉ đan kết với nhau và diễn tả tất cả, không cần giải thích dài dòng, miễn là được cử hành cách nghiêm túc.

Nguyên tắc tổng quát là: những nghi thức bí tích biểu thị, diễn tả hiệu quả mà bí tích mang lại. Bằng những dấu chỉ bên ngoài, bí tích thực hiện hiệu quả bên trong. Chính vì thế, phải cử hành bí tích làm sao để việc cử hành ấy trở thành một thứ “nhiệm huấn”, nghĩa là khai tâm các tín hữu về sự phong phú mà bí tích này biểu lộ và thực hiện (GLHTCG số 1234).

Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta tìm hiểu nghi thức rửa tội thời Hội Thánh sơ khai như thánh Ambrôsiô hoặc thánh Cyrillô thành Giêrusalem giải thích. Ngày nay, cho dù nghi thức rửa tội được cử hành đơn giản hơn, nhưng những yếu tố chính yếu nhất vẫn y nguyên.

Việc cử hành bắt đầu ở cửa nhà thờ, với việc hỏi tên, xin chịu Phép Rửa, xin ân sủng, xin sự sống đời đời. Sau đó, Lời Chúa được công bố soi sáng ý nghĩa những gì sắp cử hành và khơi dậy đức tin, vốn là điều không thể tách rời Phép Rửa (số 1236). Trong Hội Thánh sơ khai, các dự tòng quay về hướng Tây - là biểu tượng của tăm tối, để từ bỏ ma quỷ, còn sự trở lại với Đức Kitô được biểu tượng hóa bằng việc quay về hướng Đông là hướng mặt trời mọc. Ngày nay, không có việc quay về hướng Tây hay hướng Đông nhưng các dự tòng tuyên bố từ bỏ ma quỷ và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời tuyên xưng này được chuẩn bị bằng việc ghi dấu Thánh Giá, lời nguyện trừ tà, và việc xức dầu dự tòng. Không nên coi nhẹ những điều này, vì những việc này muốn diễn tả trong bí tích Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm và được dẫn vào ánh sáng của Đức Kitô.

Kế tiếp là nghi thức chính yếu của bí tích Rửa Tội với những biểu tượng rất phong phú. Việc làm phép nước (trong Đêm Vọng Phục Sinh hoặc mỗi khi rửa tội) nhắc lại mối liên kết giữa nghi thức Phép Rửa và những biến cố trong lịch sử cứu độ. Giếng nước rửa tội làm theo hình bát giác, tượng trưng cho tám ngày trong công trình tạo dựng mới của Đức Kitô. Trong quá khứ và cả ngày nay, việc rửa tội được cử hành bằng cách dìm xuống nước ba lần, hoặc đổ nước trên đầu người được rửa tội ba lần, nhân danh Ba Ngôi. Việc xức dầu (Chrisma) sau đó biểu thị hồng ân của Chúa Thánh Thần được ban cho người tân tòng.

Những gì diễn ra trong bí tích Rửa Tội được diễn nghĩa qua việc trao áo trắng và cây nến được thắp sáng từ nến phục sinh (số 1242-1243): người chịu Phép Rửa đã “mặc lấy Đức Kitô” và trở nên “ánh sáng cho trần gian”. Dĩ nhiên chỉ với đức tin chúng ta mới hiểu được và đón nhận trọn vẹn ân sủng của bí tích khai tâm này.

Bài 23. RỬA TỘI CHO TRẺ NHỎ

Tại sao lại rửa tội cho trẻ nhỏ? Tại sao không để cho trẻ nhỏ lớn lên và tự nó quyết định chịu Phép Rửa hay không? Có người còn cho rằng rửa tội cho trẻ nhỏ là đi ngược lại mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ” (Mt 16,16). Mệnh lệnh ấy hàm nghĩa phải có đức tin cá vị thì mới chịu Phép Rửa, nhưng trẻ thơ làm gì đã có đức tin ấy! Đã từng có cuộc tranh luận về việc Hội Thánh sơ khai có nhìn nhận việc rửa tội cho trẻ nhỏ không. Phải chăng việc rửa tội này chỉ mới được áp dụng sau này?

Chúng ta có bằng chứng về việc rửa tội cho trẻ nhỏ ngay từ thế kỷ II. Sách Công Vụ 16,15-33 kể lại việc rửa tội “cho cả nhà”, hàm nghĩa có cả trẻ thơ được rửa tội. Đúng là vào thế kỷ III và IV, có những dè dặt về việc rửa tội cho trẻ nhỏ. Lý do chính để giải thích cho điều này là việc thực hành sám hối rất nghiêm khắc trong thời đó. Với những người phạm tội nặng, họ bị tuyệt thông trong thời gian rất dài, đôi khi cả đời, và chỉ được đón nhận ơn tha tội một lần mà thôi. Do đó nhiều người lấy làm ngầnngại trong việc chịu Phép Rửa vì khi đó, phải sống thật nghiêm túc. Họ đợi cho đến khi những cơn dông bão của tuổi thanh xuân qua đi rồi, đã đến tuổi già yên ổn rồi mới xin rửa tội.

Ngày nay, sự chống đối việc rửa tội cho trẻ nhỏ không phát xuất từ chỗ sợ hãi những đòi buộc phải giữ khi được rửa tội, nhưng từ ý nghĩ cho rằng trẻ nhỏ chưa cần đến Phép Rửa. Đằng sau cả hai thái độ này cũng vẫn là một điểm chung, đó là sự hiểu lầm rằng Phép Rửa là sự giới hạn tự do của con người. Nhìn như thế là chỉ nhìn hời hợt bên ngoài.

Rửa tội cho trẻ nhỏ là một “phép thử” cho cách hiểu của chúng ta về các bí tích. Nếu chúng ta nhìn các bí tích trước hết và trên hết như hành động của Đức Kitô và ân sủng của Người luôn đi trước chúng ta, thì trong việc rửa tội cho trẻ nhỏ, phải thấy điều quan trọng này: Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước (x. 1Ga 4,10). Ngài chết và sống lại vì chúng ta, và ân sủng này được ban xuống trong bí tích Rửa Tội. Hiểu như thế, bất cứ bậc cha mẹ nào yêu thương con mình sẽ mong ước cho con mình được rửa tội, được đón nhận ân sủng và tình yêu của Chúa (GLHTCG số 1250).

Việc rửa tội cho trẻ nhỏ còn nói lên một sự thật khác: mọi người đều cần được cứu độ, kể cả trẻ sơ sinh. Do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, không ai là “lành mạnh” ở tự mình cả. Sự lành mạnh theo nghĩa là ơn cứu độ, chỉ có được nơi Đức Giêsu Kitô (Cv 4,12). Tất cả chúng ta đều cần đến Chúa Giêsu. Chính vì chúng ta mà Ngài đã làm người và nên Đấng cứu độ chúng ta.

“Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, đừng ngăn cấm chúng” (Mc 10,14). Tại sao lại không đem con cái chúng ta đến với Chúa, để trong bí tích Rửa Tội, Ngài “ôm lấy chúng” và “chúc lành cho chúng” (Mc 10,16)? Đồng thời các bậc cha mẹ cũng phải ý thức rằng khi đã đem con đi rửa tội, chúng ta cũng phải chăm sóc đời sống đức tin cho con cái. Nếu thiếu sót điều này, ân sủng của bí tích sẽ không thể phát triển phong phú.

Bài 24. ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI

Nghi thức rửa tội biểu thị điều thực sự diễn ra trong bí tích Rửa Tội (GLHTCG số 1262). Giác quan, mắt và tai, chỉ nhìn thấy những dấu chỉ bên ngoài. Chỉ có đức tin mới có thể nhận ra cái thực sự đang diễn ra nơi người được rửa tội qua những dấu chỉ. Nghi thức rửa tội biểu thị hai hiệu quả này: chết và tái sinh. Cả hai trở thành thực tại trong bí tích Rửa Tội.

“Đức tin là xác tín vào những điều không thấy” (Dt 11,1). Trong bí tích Rửa Tội, điều chính yếu không phải là kinh nghiệm nhưng là một “hiệu quả sâu hơn”, một cái gì đó mà có lẽ chúng ta “cảm nhận” nhưng chỉ thực sự nắm bắt được từ chiều sâu tâm hồn, một cái gì đó trong sâu thẳm con người.

Giáo huấn công giáo về các bí tích phân biệt hiệu quả của bí tích ở hai mặt. Hiệu quả thứ nhất diễn ra ngay khi lãnh nhận bí tích, còn hiệu quả thứ hai đòi hỏi sự cộng tác của người lãnh nhận bí tích. Hiệu quả thứ nhất do Đức Kitô trực tiếp ban cho, còn hiệu quả thứ hai chỉ phát huy nếu chúng ta thực sự đón nhận quà tặng của Đức Kitô. Sự phân biệt này giúp chúng ta thấy bí tích không đem lại thứ hiệu quả “ma thuật”. Các bí tích là những hồng ân Thiên Chúa ban, và cũng như những nén bạc trong dụ ngôn Tin Mừng, nó phải được phát triển và sinh lời.

Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, Truyền Chức Thánh ghi trên người lãnh nhận một “dấu ấn thiêng liêng không thể tẩy xóa”, gọi là ấn tín (số 1272), dấu chỉ cho thấy họ thuộc về Đức Kitô. Người chịu Phép Rửa thuộc về Đức Kitô, họ là Kitô hữu, họ được giải thoát khỏi những lầm lỗi cũ và trở nên một “thụ tạo mới”.

Đức tin dạy chúng ta rằng không ai sinh ra đã là người công chính nhưng tất cả đều cần được cứu độ, cần Đấng Cứu độ. Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu độ nhân loại (số 389). Chính vì thế bí tích Rửa Tội cần thiết để được cứu độ (số 1257). “Nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh Thần thì không thể vào Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5). Đức Kitô chính là cửa dẫn vào sự sống. Ngài đã làm cho bí tích Rửa Tội thành con đường dẫn vào sự sống của Ngài. Ngài có thể ban tặng sự sống này mà không cần Phép Rửa, ví dụ trường hợp những người không biết chút gì về Tin Mừng. Thế nhưng Ngài đã truyền cho chúng ta mệnh lệnh làm Phép Rửa: “Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ” (Mc 16,16).

Nếu bí tích Rửa Tội giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi thì tại sao khuynh hướng nghiêng về tội lỗi vẫn tồn tại nơi ta? Hội Thánh dạy rằng người mới chịu Phép Rửa được giải thoát hoàn toàn khỏi tội, nhưng những “hậu quả của tội” thì vẫn còn: đau khổ, bệnh tật, cái chết, kể cả sự yếu đuối và “hướng chiều về tội lỗi”. Chính vì thế đời sống của người chịu Phép Rửa là một cuộc chiến đấu không ngừng.

Người chịu Phép Rửa cũng trở nên chi thể trong Thân Mình Chúa Kitô: “Phép Rửa tháp nhập chúng ta vào Hội Thánh” (số 1267). Để ân sủng của bí tích được phát huy, chúng ta cần đến sự hiệp thông của toàn thể Hội Thánh: sự trợ giúp của các thánh, sự hướng dẫn của các mục tử, tình huynh đệ đối với nhau trong cộng đoàn.

Bài 25. RỬA TỘI VÀ THÊM SỨC

“Phải giải thích cho các tín hữu rằng việc lãnh nhận bí tích Thêm Sức là cần thiết để ân sủng bí tích Rửa Tội được hoàn tất” (GLHTCG số 1285). Có mối liên hệ chặt chẽ giữa hai bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, và có lẽ chúng ta chưa quan tâm đủ. Trước hết hãy nhìn xem mối liên hệ này phát triển như thế nào trong lịch sử, sau đó sẽ bàn đến ý nghĩa sâu xa hơn.

Xức dầu chrisma là thành phần trong nghi thức ban Phép Rửa (số 1241). Việc xức dầu ấy có nghĩa là ghi dấu Thánh Thần. Người được rửa tội trở thành “người được xức dầu”. Họ thuộc về Đức Kitô, Đấng Mêsia, Đấng được xức dầu của Thiên Chúa (số 1296). Thời xưa ở Rôma, Hội Thánh có thói quen là việc xức dầu khi rửa tội được hoàn tất hoặc được “thêm sức” bằng việc Đức giám mục xức dầu thánh trên trán người mới chịu Phép Rửa (số 1291). Việc xức dầu này làm cho người chịu Phép Rửa được tham dự bí tích Thánh Thể, được rước lễ lần đầu tiên.

Khi số tín hữu gia tăng ở thành thị cũng như nông thôn, giám mục không thể “thêm sức” cho tất cả các tân tòng ngay sau khi họ chịu Phép Rửa. Thế nên khi các giám mục đi thăm các nơi thì ngài mới ban bí tích Thêm Sức cho tất cả những ai chưa được “thêm sức” kể từ lần viếng thăm trước. Và chỉ khi ấy, họ mới được rước lễ lần đầu. Như thế mới hiểu được tại sao trong nhiều thế kỷ, trẻ em phải đợi chờ rất lâu mới được rước lễ lần đầu, vì phải được giám mục “thêm sức” đã rồi mới được rước lễ. Khi Đức Piô X cho phép rước lễ lần đầu sớm hơn và kêu gọi các tín hữu rước lễ thường xuyên hơn, thì mới có sự thay đổi kéo dài cho tới ngày nay: rước lễ lần đầu trước, rồi thêm sức sau. Sự thay đổi này là điều khó hiểu đối với các Kitô hữu Chính Thống: làm sao lại được rước lễ khi chưa chịu Phép Thêm Sức?

Hội Thánh Đông phương đã gìn giữ sự duy nhất nội tại của “ba bí tích khai tâm” cách rõ ràng, nghĩa là luôn luôn ban bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, và Thánh Thể chung với nhau, dù là cho người lớn hay trẻ nhỏ (số 1292). Về phía Hội Thánh Công Giáo, sự duy nhất này chỉ thể hiện rõ ràng khi cử hành Phép Rửa cho người lớn (số 1291).

Vào thế kỷ 16, những người Tin Lành Cải Cách phủ nhận Thêm Sức như là bí tích, vì họ cho rằng làm như thế là hạ giá bí tích Rửa Tội, coi bí tích ấy là chưa đủ nên cần phải bổ túc và hoàn tất. Khi chúng ta không làm nổi bật được mối liên hệ giữa hai bí tích này, thì dễ bị phê phán như thế. Thực ra Hội Thánh không hạ giá bí tích Rửa Tội. Công Đồng Vaticanô II nêu rõ mối liên hệ giữa hai bí tích Rửa Tội và Thêm Sức: “Nhờ bí tích Thêm Sức, những người đã chịu Phép Rửa được liên kết với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn, được dư đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và như vậy, với tư cách là những nhân chứng đích thực của Đức Kitô, họ càng có bổn phận khẩn thiết hơn phải loan truyền và bảo vệ đức tin bằng lời nói cũng như việc làm” (số 1285).

Bài 26. BÍ TÍCH THÊM SỨC: TUỔI TÁC, NGƯỜI ĐỠ ĐẦU, THỪA TÁC VIÊN

Vấn đề về tuổi thích hợp để lãnh nhận bí tích Thêm Sức là vấn đề được bàn đến khá nhiều. Giáo Luật chỉ nói cách tổng quát: Vì các bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể tạo thành một thể thống nhất, nên “các tín hữu buộc phải lãnh nhận bí tích Thêm Sức vào thời gian thích hợp” (GLHTCG số 1306). Theo thói quen lâu đời của Hội Thánh Rôma, tuổi thích hợp là tuổi “biết phân biệt tốt xấu”. Như vậy là khá sớm. Đang khi đó, Giáo Luật lại nói rằng người chịu Phép Thêm Sức phải có khả năng làm lại lời hứa khi chịu Phép Rửa (Điều 889), và như thế, giả thiết thụ nhân phải ở độ tuổi trưởng thành.

Ở đây thánh Tôma Aquinô cho chúng ta sự phân biệt giữa tuổi trưởng thành trong đức tin và tuổi trưởng thành về tự nhiên: “Tuổi tác phần xác không xác định tuổi tác phần hồn. Bởi đó ngay cả trong tuổi thơ, con người cũng có thể đạt đến sự trưởng thành thiêng liêng” (số 1308). Thánh Tôma cũng nhắc đến những trẻ thơ, trong tác động của Chúa Thánh Thần, đã dám đổ máu mình ra làm chứng cho Đức Kitô. Cho nên sự trưởng thành Kitô giáo không nhất thiết lệ thuộc tuổi tác tự nhiên. Tại Việt Nam, thông thường tuổi lãnh nhận bí tích Thêm Sức là từ 12 đến 15.

Điều quan trọng là phải chuẩn bị kỹ càng cho những người chịu Phép Thêm Sức. Qua bí tích này, người đã chịu Phép Rửa được gắn bó với Hội Thánh cách hoàn hảo hơn (số 1285), cho nên việc dạy giáo lý Thêm Sức phải “khơi dậy ý thức thuộc về Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô, Hội Thánh phổ quát cũng như cộng đoàn giáo xứ” (số 1309). Dĩ nhiên, điều này phải song hành với việc giúp người chịu Phép Thêm Sức “kết hợp thân mật hơn với Đức Kitô, với Chúa Thánh Thần và hoạt động của Ngài”.

Cha Mẹ đỡ đầu đóng vai trò quan trọng trong việc đồng hành thiêng liêng với người chịu Phép Thêm Sức: “Các ứng viên phải có cha hay mẹ đỡ đầu, để được trợ giúp thiêng liêng” (số 1311). Đồng thời nên chọn người đỡ đầu khi rửa tội vì hai bí tích Rửa Tội và Thêm Sức gắn bó với nhau. Ngày nay càng ngày chúng ta càng ý thức hơn về vai trò của cộng đoàn, cụ thể là giáo xứ: chính cộng đoàn giáo xứ chia sẻ trách nhiệm trong hành trình đức tin của những người chịu Phép Thêm Sức.

Là những người kế vị các tông đồ, các giám mục là “thừa tác viên thông thường” của bí tích Thêm Sức. Cũng như các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần đã đặt tay ban Thánh Thần cho các tín hữu, thì các giám mục cũng làm như thế khi ban phép Thêm Sức. Chỉ trong những trường hợp cần thiết, các linh mục mới được phép ban bí tích Thêm Sức. Như thế bí tích Thêm Sức thắt chặt mối giây liên kết người được thêm sức với giám mục của mình. “Việc các giám mục cử hành bí tích Thêm Sức nói lên cách rõ ràng rằng, bí tích Thêm Sức đem lại hiệu quả là những người lãnh nhận bí tích này được kết hợp cách chặt chẽ hơn với Hội Thánh, với các nguồn gốc tông truyền của Hội Thánh và với sứ vụ của Hội Thánh là làm chứng cho Đức Kitô” (số 1314).

Bài 27. ÂN SỦNG CỦA BÍ TÍCH THÊM SỨC

“Bí tích Thêm Sức thêm gì cho ân sủng trong bí tích Rửa Tội?” Đó là câu hỏi Đức hồng y Yves Congar, vốn là nhà thần học nổi tiếng của Công Đồng Vaticanô II, đặt ra. Ngài nói tiếp: “Phép Rửa Kitô giáo là phép Rửa trong Thánh Thần, ban cho ta sự tái sinh và đưa ta đi vào đời sống của Đức Kitô, của Thân Mình Người. Cử hành phụng vụ diễn tả nội dung đó và các giáo phụ dạy như thế. Thánh Thần đã được ban xuống trong bí tích Rửa Tội rồi, vậy tại sao lại phải cần thêm một nghi thức nữa để đón nhận Thánh Thần?”

Mối tương quan giữa bí tích Rửa Tội và Thêm Sức đôi khi được so sánh với mối tương quan giữa lễ Phục Sinh và lễ Hiện Xuống. Vào ngày Phục Sinh, Đấng Phục Sinh hiện đến, đứng giữa các môn đệ và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Vào ngày lễ Ngũ Tuần (Hiện Xuống), các môn đệ cũng nhận được những ân huệ Thánh Thần như Chúa Giêsu đã hứa khi Người sống lại: “Anh em sẽ lãnh nhận quyền năng khi Thánh Thần ngự xuống trên anh em, và anh em sẽ làm chứng về Thầy” (Cv 1,8).

Như thế, cả hai bí tích Rửa Tội và Thêm Sức đều thông ban Thánh Thần và các ân huệ của Ngài, tuy nhiên cũng như không thể lẫn lộn giữa “sinh ra” và “lớn lên”, thì cũng không thể lẫn lộn giữa Rửa Tội và Thêm Sức. Bí tích tái sinh (Rửa Tội) phải đi trước rồi mới đến bí tích tăng trưởng trong Thánh Thần (Thêm Sức).

Sách GLHTCG trình bày nét đặc thù của ân sủng trong bí tích Thêm Sức bằng những từ ngữ so sánh: “Bí tich Thêm Sức giúp chúng ta bén rễ sâu hơn vào việc làm con cái Thiên Chúa ... kết hợp chúng ta với Đức Kitô cách khăng khít hơn, gia tăng trong chúng ta các hồng ân của Chúa Thánh Thần, làm cho dây liên kết của chúng ta với Hội Thánh được hoàn hảo hơn” (số 1303). Nghĩa là tất cả những ân sủng này đã được ban trong bí tích Rửa Tội, nhưng bí tích Thêm Sức làm cho ân sủng ấy được sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn, hoàn hảo hơn. Cái “hơn” ấy dẫn người Kitô hữu đến đâu?

Ân sủng của bí tích Thêm Sức là ơn sai đi, sai đi thi hành sứ vụ, làm việc tông đồ, và bí tích ấy “thêm sức” cho ta để thi hành sứ mệnh cao cả đó. Khi nói đến “việc tông đồ”, Công Đồng VaticanôII muốn nói đến tất cả những hoạt động của Hội Thánh nhằm thánh hóa con người và quy hướng họ về với Đức Kitô. “Nhờ kết hợp với Đức Kitô là Đầu, người giáo dân có quyền và bổn phận làm việc tông đồ. Bởi lẽ một khi đã được tháp nhập vào Thân Mình mầu nhiệm của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Tẩy, và được mạnh mẽ nhờ quyền năng Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức, họ được chính Chúa trao nhiệm vụ làm tông đồ” (Tuyên ngôn về Việc Tông Đồ của giáo dân, số 3). Trong ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã làm cho các môn đệ đang sợ hãi trở thành những chứng nhân can đảm. Cũng vậy, bí tích Thêm Sức làm cho chúng ta nên mạnh mẽ trong sứ mạng làm chứng cho Chúa.

Bài 28. BÍ TÍCH CỦA CÁC BÍ TÍCH

Bảy bí tích làm nên một toàn thể, trong đó mỗi bí tích có vị trí riêng của mình. Và dĩ nhiên, bí tích quan trọng nhất và vĩ đại nhất là bí tích Thánh Thể. Cũng chính vì thế, được gọi là “Bí tích của các bí tích”: “Tất cả các bí tích khác đều quy hướng về bí tích Thánh Thể như về cùng đích” (GLHTCG số 1211).

“Mầu nhiệm đức tin” Mysterium fidei!

Linh mục chủ tế kêu lên như thế sau phần Truyền Phép.

Tiếng kêu ấy có nghĩa gì? Phải chăng chúng ta đang chạm đến một mầu nhiệm đức tin? Đúng thế, có nhiều mầu nhiệm đức tin, nghĩa là những thực tại mà chúng ta chỉ có thể chạm đến và đón nhận nhờ đức tin. Chẳng hạn, mầu nhiệm về chính Thiên Chúa, Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi, rồi mầu nhiệm về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật.

Ngoài ra, tiếng kêu ấy muốn nói rằng chính Thánh Thể là mầu nhiệm đức tin. Trong bí tích Thánh Thể, Hội Thánh cử hành tất cả những gì Hội Thánh tin, toàn bộ đời sống Hội Thánh. Chính vì thế, Công Đồng Vaticanô II gọi bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu” (số 1324). Ở đây chúng ta gặp được sự giao thoa giữa hai chuyển động trong đời sống Kitô hữu: một đàng là Thiên Chúa “đi xuống” với con người, đàng khác là con người “đi lên” với Chúa.

Thiên Chúa đi xuống với con người vì bí tích Thánh Thể là quà tặng lớn lao nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ngài ban chính Con của Ngài: “Bánh của Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống và ban sự sống cho thế gian. Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn Bánh này sẽ sống muôn đời; và Bánh Ta ban chính là Thịt Mình Ta cho thế gian được sống” (Ga 6,33). Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của mọi ân huệ Thiên Chúa ban vì “chứa đựng” chính Đức Kitô (số 1324), Đấng mà Chúa Cha “trao nộp vì chúng ta” và nơi Đấng ấy, Thiên Chúa ban cho chúng ta “mọi sự” (Rm 8,32). Nơi bí tích Thánh Thể, Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. Ngài ngỏ Lời của Ngài cho chúng ta. Ngài giao hòa chúng ta với Ngài qua hy lễ tình yêu; Ngài ban tặng sự sống của Ngài cho ta qua Bánh hằng sống; Ngài sai chúng ta đi làm sứ giả của Ngài (số 1332).

Đồng thời con người đi lên với Thiên Chúa, vì bí tích Thánh Thể cũng là “suối nguồn và chóp đỉnh” của lời con người đáp lại Thiên Chúa. Đó là lời cầu nguyện tuyệt hảo vì bí tích Thánh Thể hiện tại hóa sự hiến dâng chính mình của Chúa Giêsu lên Chúa Cha. Đó là hy lễ tuyệt hảo vì nơi bí tích này, chúng ta tháp nhập của lễ và chính bản thân mình vào hy lễ của Chúa Kitô. Đó là bí tích của “việc hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất của Dân Thiên Chúa” (số 1325).

Tóm lại, bí tích Thánh Thể là bản toát yếu và tổng luận của đức tin Kitô giáo.

Bài 29. CHÚA GIÊSU CỬ HÀNH BỮA TIỆC LY

Có thật là Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể không? Điều chắc chắn là cả bốn trình thuật của Tân Ước về Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu đều giống nhau về mặt lịch sử, nghĩa là kể lại những gì Chúa Giêsu đã làm tại Nhà Tiệc Ly vào đêm trước khi chịu khổ nạn. Thế nhưng vẫn phải nhìn nhận là có một vài khác biệt trong những trình thuật này, khiến người ta nêu lên nhiều câu hỏi: Tại sao chỉ có Tin Mừng Nhất Lãm (Matthêu, Marcô, Luca) và thánh Phaolô kể lại sự việc này, còn thánh Gioan thì không? Tại sao thay vì kể lại việc Chúa lập phép Thánh Thể, thánh Gioan lại nói đến “Diễn từ về Bánh hằng sống” ở hội trường Capharnaum (Ga 6), cũng như việc Chúa rửa chân cho các môn đệ và “Diễn từ ly biệt” (Ga 13-17)? Phải chăng Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu chính là lễ Vượt Qua của người Do thái (như Tin Mừng Nhất Lãm cho biết) hay Bữa Tiệc ấy đã xảy ra vào ngày trước đó (như Gioan 18,28 cho biết)?

Điều chắc chắn là ngay từ thuở đầu Hội Thánh đã cử hành Thánh Thể. Việc cử hành Bữa tối của Chúa luôn luôn là tâm điểm trong đời sống của Hội Thánh. Việc cử hành này đã mang những tên gọi khác nhau: từ “việc bẻ bánh” (Cv 2,42) đến “Thánh Thể”, “Phụng Vụ thánh” trong nghi lễ Đông phương và “Thánh Lễ” trong truyền thống La tinh (GLHTCG số 1328-1332). Tuy nhiên điểm chung nhất trong việc cử hành này là thực hiện lệnh truyền của Chúa: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cor 11,24).

Chúa Giêsu đã làm gì trong Bữa Tiệc Ly? Người đã làm hai điều khác thường ở hai thời điểm. Ở đầu bữa ăn, thông thường người ta xin Chúa chúc lành cho bánh, thì Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: “Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp vì anh em”. Vào cuối bữa ăn, khi người Do Thái xin Chúa chúc lành cho “chén chúc tụng” thì Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu và nói: “Đây là Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu, đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội”.

Những lời và hành động của Chúa Giêsu ở đây có ý nghĩa gì? Thưa những lời và hành động ấy muốn nói đến cái chết sắp tới của Chúa Giêsu, đồng thời nối kết với những lời nói và hành động trong tiệc Vượt Qua của Do Thái. Cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu sẽ là cuộc Vượt Qua mới, không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ Ai Cập, nhưng giải thoát khỏi tội lỗi. Cuộc Vượt Qua của chính Chúa Giêsu - Người bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha - là cuộc Xuất Hành mới và dứt khoát (số 1340). Cũng như người Do Thái cho đến ngày nay vẫn tưởng nhớ biến cố xuất hành khỏi Ai Cập khi họ mừng lễ Vượt Qua, thì chúng ta cũng cử hành sự chết và phục sinh của Chúa “cho tới khi Chúa đến” (số 1344).

Những lời nói và hành động của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly không chỉ hướng về cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, nhưng đã gắn liền với biến cố đó rồi. Khi làm cho bánh và rượu nên Mình và Máu của Người, Chúa Giêsu đã ban cho cho chúng ta điều mà Người hoàn tất nơi mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh, tức là ơn cứu độ.

Bài 30. TÍNH LIÊN TỤC VÀ NHỮNG THAY ĐỔI TRONG THÁNH LỄ

“Chính trong Phụng Vụ mà Hội Thánh bày tỏ sự hiểu biết của mình về Thánh Thể, theo cách sâu xa và đầy đủ nhất”. Nhà thần học H. Vorgrimler nhận xét như thế. Cũng vì vậy, cần phải quan tâm đến cấu trúc và hình thức cử hành Thánh Thể, qua đó hiểu được ý nghĩa của Thánh Lễ.

Không cần phải nói, trong nhiều thế kỷ, đã có nhiều thay đổi trong việc cử hành Thánh Lễ. Thánh Phaolô đã nói thế nào về “việc bẻ bánh” trong những cộng đoàn Kitô hữu thời của ngài (x. Cv 20,7¬12)? Trong những hang toại đạo ở Rôma, các tín hữu cử hành Thánh Lễ ra sao? Rồi ai cũng biết có những nghi lễ khác nhau, chẳng hạn người đã quen với Phụng vụ Byzantine của Giáo Hội Đông phương sẽ thấy Giáo Hội Công giáo Rôma cử hành Thánh Lễ khác quá.

Tuy nhiên, giữa những khác biệt ấy, luôn có một hình thức căn bản và thường hằng khi cử hành Thánh Thể. Sách Giáo Lý trích dẫn nguyên văn bài tường thuật của thánh Giustinô ở thế kỷ II, mô tả việc cử hành Thánh Lễ (số 1345). Ở đây chúng ta có thể nhắc lại những nét chính yếu.

Thánh Giustinô cho biết mỗi Chúa nhật, các Kitô hữu từ nhiều nơi tập họp lại (số 1348). Rồi ngài mô tả phần mà ngày nay được gọi là Phụng Vụ Lời Chúa: các bài đọc từ sách các tiên tri hoặc ký sự của các Tông đồ. Vị chủ sự “giảng” dựa trên những bài đọc. Cuối cùng, có lời cầu nguyện cho mọi người. Phần thứ nhất khép lại với cái hôn bình an, điều mà Giáo Hội Đông phương vẫn duy trì (số 1349).

Ở trung tâm của việc cử hành là lời nguyện mà thánh Giustinô gọi là “kinh tạ ơn dài” (eucharistia, chính là tên gọi của cử hành Thánh Thể) do vị chủ sự đọc. Ngày nay chúng ta gọi là “Kinh nguyện Thánh Thể”. Trước đó có phần dâng lễ vật và quyên góp cho những người thiếu thốn (số 1350¬1351). Kinh nguyện Thánh Thể bắt đầu bằng lời chúc tụng Chúa Cha về những sự lạ lùng Ngài đã làm cho chúng ta, nhất là đã ban tặng Con của Ngài cho chúng ta, cũng như về sự chết và phục sinh của Chúa. Đó là nội dung của “Kinh Tiền Tụng”.

Trong kinh nguyện Do Thái giáo, việc tưởng niệm không chỉ là nhớ lại nhưng còn là làm cho những biến cố ấy thành hiện tại. Vì thế, cuộc khổ nạn, sự chết và phục sinh của Đức Kitô trở thành hiện tại khi chúng ta tưởng niệm (số 1357). Trong tác động của Chúa Thánh Thần và nhờ quyền năng của Lời Chúa (Này là Mình Thầy. Này là Máu Thầy), thì chính Đức Kitô thực sự hiện diện dưới hình bánh rượu (số 1353). Việc cử hành hoàn tất với “Bữa Tối của Chúa” mà thánh Giustinô mô tả là phân phát bánh và rượu pha nước “đã được thánh thể hóa”, nghĩa là đã trở nên Mình và Máu Đức Kitô (số 1355).

Dù có những thay đổi theo thời gian, thì qua nhiều thế kỷ, những yếu tố căn bản này vẫn không thay đổi. Lý do là vì “chúng ta biết mình bị ràng buộc bởi mệnh lệnh Chúa đã ban, hôm trước ngày Người chịu khổ hình: Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (số 1356).

Bài 31. THÁNH LỄ LÀ HY TẾ

Từ ngữ “Hy tế Thánh Thể” xem ra hơi khó hiểu, thế nhưng từ ngữ này diễn tả điều thiết yếu về ý nghĩa của Thánh Thể mà chúng ta không được phép quên. Từ “hy tế” ở đây có nghĩa gì? Công Đồng Vaticanô II trình bày: “Đang khi ăn Bữa Tiệc Ly, trong đêm Người bị nộp, Đấng Cứu độ chúng ta đã thiết lập hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, hy tế thập giá trường tồn qua mọi thời đại, cho tới khi Người đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh, việc tưởng nhớ sự chết và sống lại của Người” (GLHTCG số 1323).

Trong bản văn này, cần lưu ý ba điểm chính: (1) Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một hy tế, cũng như việc cử hành Người thiết lập trong Bữa Tiệc Ly là một hy tế; (2) Hai sự kiện trên gắn kết với nhau, chính qua hy tế Thánh Thể mà hy tế thập giá được trường tồn; (3) Sự trường tồn này diễn ra dưới hình thức một “việc tưởng nhớ”.

Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã sống trọn cuộc đời trên trần thế như một của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha (GLHTCG số 606). Cuộc sống và những đau khổ của Người diễn tả sứ mạng “phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Khi chúng ta cử hành Thánh Lễ như một hy tế, phải nhớ rằng Đức Kitô đã đổ máu cho chúng ta và mọi người “để tha thứ tội lỗi”. Không có ai trong nhân loại này mà Đức Kitô không chịu đau khổ cho họ (số 605). Thập giá của Chúa là hy tế tuyệt hảo và độc nhất. Hy tế ấy trước hết không phải là nỗ lực của con người nhằm được Thiên Chúa xót thương, nhưng đúng hơn là quà tặng của Chúa Cha ban cho chúng ta. Ngài bày tỏ tình yêu hòa giải của Ngài với chúng ta khi Đức Kitô “cất đi” toàn bộ gánh nặng của tội lỗi bằng tình yêu vâng phục của Người.

Đức Kitô đã muốn rằng điều Người hoàn tất sẽ được trường tồn (số 616) qua muôn thế hệ cho tới khi Người đến. Vì thế, trước khi chịu khổ nạn, Người đã thiết lập Hy Tế mà ngày nay chúng ta cử hành theo huấn lệnh của Người. Khi nói Thánh Lễ là một hy tế, chúng ta hiểu ra sao? Thánh Lễ là sự tưởng niệm Hy tế độc nhất của Đức Kitô: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Tưởng niệm ở đây không chỉ là hồi tưởng, nhớ lại quá khứ, mà là “làm cho thành hiện tại” (số 1363). Cho nên trong Thánh Lễ, khi chúng ta tưởng nhớ và loan báo sự chết, sự phục sinh của Chúa, thì những biến cố ấy trở thành hiện tại.

Hy tế của Đức Kitô chỉ diễn ra một lần là đủ. Thế nhưng trong Thánh Lễ, hy tế ấy được hiện tại hóa và thông ban hiệu quả cho chúng ta: “Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó Đức Kitô đã chịu hiến tế làm Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta, được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (số 1364). “Đức Kitô đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như bản tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được thực hiện một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy tế đẫm máu đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày” (số 1366).

Bài 32. THÁNH LỄ, HY TẾ CỦA ĐỨC KITÔ VÀ HY TẾ CỦA HỘI THÁNH

Từ xưa, tiên tri Malaki đã loan báo: “Quả thật, từ đông sang tây, Danh Ta thật cao cả giữa chư dân; và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta, bởi vì Danh Ta thật cao cả giữa chư dân” (1,11). Ngay từ thuở đầu của Kitô giáo, các tín hữu đã đọc những lời này như lời tiên báo về Thánh Thể, được dâng trên khắp trái đất, do những người đã tin vào Đức Kitô. Kinh nguyện Thánh Thể III cũng lấy lại tâm tình của tiên tri Malaki: “Chúa đã không ngừng quy tụ cho Chúa một dân, để từ lúc mặt trời mọc cho đến khi lặn xuống, họ dâng lên Chúa một hiến lễ tinh tuyền”.

Chúng ta phải giải thích làm sao về sự kiện: Hy tế của Đức Kitô chỉ dâng một lần là đủ, vậy tại sao cứ phải dâng đi dâng lại mãi? Nhà thần học Karl Rahner đã viết một cuốn sách có tựa đề “Một Hy Tế - Nhiều Thánh Lễ”. Hội Thánh giải thích như sau: “Cũng cùng một hiến vật, cũng cùng một Đấng xưa đã tự hiến trên thập giá, nay cũng chính Người dâng lên qua thừa tác vụ tư tế, chỉ khác biệt về cách tiến dâng” (GLHTCG số 1367). Khác biệt trong cách tiến dâng vì “Cũng chính Đức Kitô, Đấng đã tự hiến một lần bằng cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay được hiến dâng và sát tế một cách không đổ máu, nên hy tế này thực sự có giá trị đền tội”.

Vậy chúng ta tham dự vào hy tế của Đức Kitô bằng cách nào? “Trong bí tích Thánh Thể, hy tế của Đức Kitô cũng trở thành hy tế của các chi thể trong Thân Thể Người. Đời sống của các tín hữu, lời ca ngợi, sự đau khổ, lời cầu nguyện, việc lao động của họ, được kết hợp với cùng những điều đó trong đời sống của Đức Kitô và với toàn bộ lễ tế của Người; nhờ đó chúng mang một giá trị mới” (số 1368). Trong cử hành phụng vụ, ý nghĩa này được diễn tả cách biểu tượng qua việc pha chút nước vào rượu cùng với lời đọc: “Nhờ mầu nhiệm nước và rượu này, xin cho chúng con được chia sẻ thần tính với Đức Kitô, Đấng đã hạ mình chia sẻ nhân tính với chúng con”.

Cũng chính ở đây, người Công giáo hiểu được ý nghĩa của việc “xin lễ” và “bổng lễ”. Người Công giáo có thói quen xin lễ cho người chết cũng như kẻ sống, cho những ý nguyện của Hội Thánh, của cá nhân hay cộng đoàn. Khi xin lễ như thế, họ cũng dâng một chút tiền gọi là “bổng lễ”. Tại nhiều nơi trên thế giới, bổng lễ là cách duy nhất giúp cho các thừa tác viên trong Hội Thánh có phương tiện để sinh sống và làm việc tông đồ. Thật ra, người ta không thể mua hay bán “thánh lễ”, nhưng việc dâng bổng lễ là cách cụ thể để chúng ta tham dự vào hy tế của Đức Kitô. Chúng ta kết hợp với hy tế của Đức Kitô bằng sự đóng góp và hy sinh của mình, qua đó chúng ta hiến dâng chính mình cùng với Đức Kitô “trên bàn thờ tâm hồn” của mình.

Bài 33. SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ

Đức Kitô vẫn đang hiện diện trong Hội Thánh Người dưới nhiều hình thức: trong Lời của Người, trong kinh nguyện của Hội Thánh, trong các bí tích, trong người nghèo khổ, trong các bệnh nhân. Thế nhưng, sự hiện diện của Người trong Thánh Thể là sự hiện diện độc nhất vô nhị (GLHTCG số 1373-1374). Khi giảng lễ hay dạy giáo lý, cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, thỉnh thoảng lại quay nhìn về Nhà Tạm và kêu lên: “Chúa ở đó”. Những lời lẽ đơn giản nhưng đầy tinh thần đức tin như thế có sức thuyết phục hơn những giảng khóa thần học về sự hiện diện của Chúa trong bí tích Thánh Thể. Công Đồng Triđentinô dạy rằng Đức Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể cách đích thực, thật sự, và theo bản thể”. Người hiện diện ở đó với Mình và Máu Người, với thần tính và nhân tính. Chính Đức Kitô hiện diện thật sự, không chỉ như một phần của Người, cũng không chỉ là một biểu tượng, nhưng là chính Người hiện diện, dĩ nhiên không phải là sự hiện diện hữu hình như khi Người còn ở dưới thế nhưng là “dưới hình bánh và rượu”. Chúng ta nói đến “hiện diện cách bí tích” nghĩa là sự hiện diện ẩn giấu về mặt giác quan nhưng là hiện diện thật sự và hiệu quả. Sự hiện diện này “không thể nhận biết bằng giác quan nhưng chỉ bằng đức tin, một đức tin dựa vào thẩm quyền của Thiên Chúa” (số 1381).

Nếu chỉ nhờ đức tin, chúng ta mới có thể nhận biết sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể, thì cũng thế, chỉ nhờ đức tin chúng ta mới có thể hiểu sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Đức Kitô. Theo quan sát tự nhiên, những sự vật bị biến đổi vẫn tiếp tục là nó dưới một dạng thức khác: sắt tan chảy khi bị nung nóng, nước đông đặc khi quá lạnh, chất liệu được biến đổi dưới tay họa sĩ, con người biến đổi hình dạng bên ngoài theo thời gian nhưng vẫn là chính họ. Thế nhưng ở đây là một điều hoàn toàn khác: bánh và rượu không thay đổi hình dạng bên ngoài, mùi vị, đặc tính. Nhưng chính bản thể của nó được biến đổi: “Này là Mình Thầy - Này là Máu Thầy”. Hình dáng bên ngoài của bánh và rượu vẫn còn đó nhưng bản thể đã được biến đổi thành Mình và Máu Đức Kitô. Các giáo phụ so sánh sự biến đổi này với việc Thiên Chúa tạo dựng mọi sự “từ hư vô” (số 1375, 298). Chỉ có Thiên Chúa toàn năng mới có thể thực hiện điều lạ lùng này.

Khi vị chủ sự nâng cao Mình và Máu Thánh Chúa, người Công giáo cúi mình hoặc quỳ gối thờ lạy. Trước khi rước lễ cũng thế. Những cử chỉ đó diễn tả niềm tin sâu xa và mạnh mẽ rằng chính Đức Kitô đang hiện diện ở đó, dưới hình bánh và rượu. Niềm tin ấy cần được nối dài bằng sự tôn thờ Thánh Thể: “Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong bí tích tình yêu này. Đừng từ chối thời gian đến gặp Người để tôn thờ, để chiêm ngắm và sẵn sàng đền tạ những tội lỗi và tội ác nặng nề của trần gian. Chúng ta hãy không ngừng tôn thờ Thánh Thể” (Đức Chân phước giáo hoàng Gioan Phaolô II).

Bài 34. RƯỚC LỄ

Sách Xuất Hành mô tả một quang cảnh huyền nhiệm: Môsê thông báo cho dân những lời của giao ước, những điều răn của Thiên Chúa. Rồi ông dựng một bàn thờ, và những con vật được hiến dâng làm của lễ. Ông lấy máu của những con vật rẩy trên bàn thờ và dân chúng: “Đây là máu giao ước .” Cuối cùng ông lên núi cùng với các trưởng lão: “Họ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, rồi họ ăn và uống” (Xh 24,1-11).

Hy tế và bữa ăn gắn bó với nhau: hy tế diễn tả tâm tình tạ ơn và hòa giải, khôi phục sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa (GLHTCG 2099). Việc rẩy máu biểu thị mối hiệp thông sự sống, còn bữa ăn đóng dấu cụ thể cho mối hiệp thông ấy. Hiệp thông ở bàn thờ dẫn đến hiệp thông trong bữa ăn. Đây là điểm chung giữa bí tích Thánh Thể với Cựu Ước và với cả nhiều tôn giáo khác (GLHTCG 28). Tuy nhiên nơi bí tích Thánh Thể có một điều không gì sánh nổi, ấy là hy tế ở đây cũng như bữa ăn sau đó là hy tế độc nhất vô nhị: chính Đức Kitô vừa là của lễ vừa là thầy cả và là của ăn. Người giao hòa chúng ta với Chúa Cha, Người hiến dâng chính mình làm của ăn, như quà tặng của Chúa Cha ban cho chúng ta.

Do đó, mục đích đầu tiên của việc rước lễ là sự hiệp thông mật thiết với Đức Kitô: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người ấy” (Ga 6,56). Dĩ nhiên sự hiệp nhất với Đức Kitô đòi hỏi phải có đức tin thì mới tăng trưởng và đào sâu. Lời “Amen” mà chúng ta thưa khi nghe câu “Mình Thánh Chúa Kitô” chính là lời diễn tả đức tin: Vâng, tôi tin (GLHTCG 1064).

Trong thực tế ngày nay, khi tham dự Thánh Lễ, rất nhiều giáo dân lên rước lễ. Đó là điều đáng mừng. Tuy nhiên điều quan trọng nữa là phải chuẩn bị. Trước kia, khi việc rước lễ không phải là thường xuyên, người tín hữu chuẩn bị rất cẩn thận mỗi lần lên rước lễ. Bởi lẽ rước lễ không chỉ đơn thuần là đón nhận “bánh thánh” nhưng là đón nhận chính Đấng đã xưng mình là “Bánh hằng sống” (Ga 6,51). Chính vì thế, linh mục thầm thĩ cầu nguyện trước khi rước lễ, và cả cộng đoàn tuyên xưng: “Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự đến nhà con”. Lòng tôn kính trước sự hiện diện thiêng thánh của Chúa trong Thánh Thể cần phải được thể hiện qua những cử chỉ xứng đáng khi lên rước lễ (GLHTCG 1387).

Rước lễ còn đưa chúng ta đến chỗ hiệp thông với nhau: “Vì chỉ có một bánh, nên chúng ta tuy nhiều nhưng làm nên một thân thể, vì tất cả cùng ăn một bánh” (1Cor 10,17). Từ nhiều hạt lúa miến mới làm nên một tấm bánh, và tuy nhiều tín hữu nhưng chỉ là một Thân Thể. Do đó, rước lễ chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn khi là sự hiệp thông trong chia sẻ, nhất là với những người nghèo nhất trong số anh em của Đức Kitô: “Hãy là chi thể của Thân Thể Đức Kitô, để lời đáp Amen của anh em là chân thật” (Thánh Augustinô).

Bài 35. CHẦU THÁNH THỂ

“Hội Thánh Công giáo đã và vẫn luôn tôn thờ Thánh Thể, không chỉ trong mà còn ngoài Thánh Lễ nữa” (GLHTCG 1378). Từ sự hiện diện của Đức Kitô trong cử hành Thánh Thể đến chỗ thờ phượng Đức Kitô dưới hình bánh, xem ra là bước đi mà nhiều người Công giáo ngày nay không dễ đón nhận. Lại càng khó hiểu hơn nữa đối với anh em Kitô hữu Tin Lành, còn Chính Thống giáo thì coi đây là nét đặc thù của Công giáo. Nhiều người cho rằng tốt nhất là bỏ hình thức đạo đức này đi.

Mặt khác, chúng ta lại thấy việc canh tân Giáo Hội ngày nay gắn bó chặt chẽ với việc thờ phượng Thánh Thể. Chẳng hạn, thử nhớ lại nữ tu Miriam Prager ở tu viện Biển Đức. Chị là người Do Thái và đã nghe được tiếng gọi trở lại của Chúa trong giờ chầu Thánh Thể, vốn là điều chị không hiểu gì. André Frossard cũng thế, ông nghe được tiếng gọi của Chúa khi tình cờ ghé vào một nhà nguyện chầu Thánh Thể liên lỉ, ở đường Ulm, Paris.

Người ta thường đưa ra hai lập luận để chống lại việc tôn thờ Thánh Thể. Một là Chúa Giêsu chỉ nói “Hãy cầm lấy mà ăn” (chứ có bảo “hãy quỳ gối mà thờ” đâu!). Thứ hai là việc đạo đức này mới chỉ được phát triển sau này chứ lúc đầu đã có đâu.

Về lập luận thứ hai, chúng ta nên nhớ rằng hầu hết những gì đã thành quen thuộc với chúng ta trong phụng vụ ngày nay đã chỉ được phát triển tiệm tiến. Điều đó không có nghĩa là những phát triển này không đúng đắn. Đúng hơn, chính việc đào sâu đức tin vào sự hiện diện của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể đã dẫn đến những hình thức mới trong việc tôn thờ Thánh Thể, từ việc rước kiệu Thánh Thể cho đến những giờ chầu Thánh Thể. Thúc đẩy những việc đạo đức này trong dòng lịch sử không phải là sự sai lạc.

Về lập luận thứ nhất, nên hiểu rằng lý do sâu xa nhất của việc tôn thờ Thánh Thể là ở chính bí tích Thánh Thể. Bánh là để ăn, đúng rồi, và Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ ăn tấm bánh đã trở thành Thân Thể Người. Thế nhưng nếu chúng ta suy nghĩ sâu hơn về ý nghĩa của tấm bánh thì sẽ hiểu được ý nghĩa của việc tôn thờ Thánh Thể. Trong bài giảng về Bánh hằng sống ở Capharnaum, Chúa Giêsu tuyên bố Người là “Bánh hằng sống” (Ga 6,35). Toàn bộ đời sống của Người là “bánh từ trời”, bánh ban sự sống vì Người ban tặng chính mình. Sự hiện diện của Chúa Giêsu dưới hình bánh biểu thị ý nghĩa sâu xa nhất trong sứ vụ của Người, đó là Người vẫn hiện diện giữa chúng ta như tấm bánh được bẻ ra và ban tặng cho chúng ta, hiến mình vì chúng ta. Khi thờ phượng Thánh Thể dưới hình bánh, trong thinh lặng, sứ vụ của Chúa Giêsu cũng in dấu trên cuộc đời chúng ta, ấy là giống như Chúa, trở thành tấm bánh được bẻ ra cho sự sống của nhân loại.

Bài 36. BẢO CHỨNG CHO VINH QUANG TƯƠNG LAI

Khi cử hành Thánh Thể, cặp mắt người tín hữu không chỉ nhìn về quá khứ, nhìn về Bữa Tiệc Ly, nhìn về đêm Chúa thiết lập và trao cho Hội Thánh việc tưởng niệm cuộc tử nạn và sự Phục sinh của Người. Trong Bữa Tiệc Ly, chính Chúa đã nhìn tới tương lai, không chỉ là tương lai khi các môn đệ “làm việc này mà nhớ đến Thầy” như Người truyền lệnh, nhưng còn vượt lên trên, hướng đến “ngày Người uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa” (Mt 26,29. GLHTCG 1403).

Trong bí tích Thánh Thể, không những sự chết và phục sinh của Chúa, mà cả việc Người sẽ trở lại trong vinh quang, cũng trở thành hiện tại. Việc Người đến trong bí tích báo trước việc Người đến trong tương lai (số 331). Người đến thực sự, cho dù sự hiện diện của Người còn bị che phủ (số 1404).

Ngày nay cảm thức của chúng ta về chiều kích tương lai này xem ra yếu ớt. Thế nhưng đây là một trong những khía cạnh thiết yếu của bí tích Thánh Thể và là “bảo chứng cho vinh quang tương lai”, nghĩa là trong bí tích Thánh Thể, Trời cao đã ngự xuống đất thấp, và Hội Thánh ở trần gian mở lòng hướng đến quê hương trên trời. Sau đây là vài gợi ý nhằm khơi dậy cảm thức về chân lý này.

Hội Thánh sơ khai có một ý thức sống động về chiều kích “cánh chung” của Hội Thánh. Người Do thái, dù ở bất cứ nơi đâu, cũng đều hướng về Giêrusalem cầu nguyện, còn các Kitô hữu, ngay từ thuở đầu, đã cầu nguyện bằng cách hướng về phía Đông, phía mặt trời mọc, vì đối với họ, đó là biểu tượng của việc Đức Kitô ngự đến lần thứ hai. Các hội đường Do thái được xây hướng về Giêrusalem, còn các nhà thờ hướng về phía Đông. Đây là ý nghĩa của từ orientation (mà chúng ta dịch là định hướng) với nghĩa nguyên thủy là “hướng về phía đông”. Ngày nay chúng ta đánh mất “định hướng” này. Chúng ta không còn ý thức cách sống động rằng trong cử hành Thánh Thể, chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô, Đấng đang đến. Trong nhiều thế kỷ, các linh mục và giáo dân hướng về phía Đông khi cầu nguyện. Ý tưởng này được Công đồng Vaticanô II nhắc lại khi dạy rằng Hội Thánh là một dân lữ hành, một dân có mục đích tối hậu là Vương quốc Thiên Chúa. Khi dân lữ hành cầu nguyện và cử hành Thánh Thể, họ đang trên đường hướng đến mục đích ấy. Quả là một hình ảnh đẹp khi linh mục và dân Chúa cùng hướng về phía Đông cầu nguyện. Trước kia, khi cử hành Thánh Lễ, linh mục và cộng đoàn phụng vụ cùng hướng về phía Chúa chứ linh mục không đứng ngược chiều với dân.

Tuy nhiên hình thức cử hành hiện nay (linh mục hướng về phía cộng đoàn) vẫn có thể nhắc nhở chúng ta về việc Chúa đến. Công Đồng dạy chúng ta rằng linh mục hành động “trong tư cách của Chúa Kitô” (in persona Christi). Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, khi cử hành Thánh Thể, linh mục đại diện cho Đức Kitô, Đấng đang đến gặp gỡ các tín hữu qua Lời và bí tích. Do đó cả hai hướng đều hàm chứa những ý nghĩa sâu xa.

Điều quan trọng là chúng ta ý thức cách mới mẻ và sâu sắc rằng trong cử hành Thánh Thể, tất cả các thiên thần và các thánh trong vinh quang Nước Trời cũng đang cử hành với chúng ta, vì chính Đức Kitô ở giữa chúng ta. “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).

Bài 37. ĐƯỢC CHỮA LÀNH NHỜ CÁC BÍ TÍCH

Sách Giáo Lý phân chia các bí tích thành 3 nhóm: ba bí tích dẫn vào đời sống Kitô hữu (Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể), hai bí tích chữa lành (Giao Hòa và Xức Dầu), và những bí tích phục vụ cộng đoàn (Truyền Chức Thánh, Hôn Phối). Sự phân chia này đã bị phê bình là giả tạo. Chẳng phải mọi bí tích đều là phục vụ cộng đoàn sao? Thật vậy, Rước Lễ Lần Đầu là “một trong những bí tích dẫn vào đời sống Kitô giáo”, thế nhưng cộng đoàn lại chẳng thường xuyên cử hành Thánh Thể đó sao? Và nhất là người ta lập luận rằng mọi bí tích đều có hiệu quả chữa lành.

Dựa trên kinh nghiệm phong phú của một linh mục và một nhà tâm lý trị liệu, cha Michael Marsch, O.P., đã viết cuốn Được chữa lành nhờ các bí tích (Styria, 1987). Ông cho thấy trong thời Hội Thánh sơ khai, việc dạy giáo lý về bí tích muốn quy chiếu về những phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu. Cũng thế, trong Sách GLHTCG, hiệu quả chữa lành của các bí tích được trình bày qua hình ảnh chữa lành người phụ nữ bị bệnh loạn huyết. Người phụ nữ mang bệnh lâu năm đã được chữa lành nhờ “năng lực phát ra từ Chúa” khi bà chạm đến gấu áo của Chúa. Ngày nay các bí tích tiếp tục điều Chúa đã làm trong cuộc sống trần thế của Người. Qua các bí tích, chính Đức Kitô chạm đến, ban sức mạnh, và chữa lành chúng ta. Có thể nói các bí tích là những bàn tay dưới đất của Đấng Phục Sinh đang ngự trên trời, và cái gì Người chạm đến thì được chữa lành.

Đức Kitô không chữa lành bằng cách chỉ cất đi những triệu chứng của bệnh tật, nhưng Người đi sâu hơn, như Người nói với kẻ bất toại: “Tội của con đã được tha” (Mc 2,5). Đức Kitô chữa lành con người toàn diện. Ơn chữa lành của Chúa bắt đầu từ gốc rễ những gì không lành mạnh, tức là tội lỗi ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa là nguồn sự sống (số 1421). Chính vì thế ơn tha thứ tội lỗi là thành phần của mọi bí tích. Chúng ta chỉ thật sự lành mạnh khi được giao hòa với Thiên Chúa, hiệp nhất với Đức Kitô, và tràn đầy Thánh Thần. Vì thế đau đớn và bệnh tậy cũng có hiệu quả “cứu độ” tích cực.

Trong đức tin, chúng ta càng khám phá Hội Thánh như bí tích của tình yêu Thiên Chúa, thì chiều kích chữa lành nơi các bí tích càng mở rộng cho chúng ta. Hội Thánh là lương y và từ mẫu cung cấp cho chúng ta “phương dược chữa lành” của Đức Kitô. Như cha Marsch nói: “Các bí tích không có mục đích làm cho chúng ta nghĩ rằng thế giới này đã được chữa lành. Cũng không phải là thuốc kích thích hoặc bùa chú. Chúa Giêsu không hứa cho chúng ta một vườn hồng. Nhưng qua sự gặp gỡ Đấng Cứu độ, các bí tích có thể góp phần quyết định vào việc chữa lành mỗi cá nhân trong một thế giới ngày càng như bất trị”. Trong những bài tiếp theo, chúng ta sẽ nói đến năng lực chữa lành của hai bí tích: Giao Hòa và Xức Dầu Bệnh Nhân.

Bài 38. AI CÓ THỂ THA TỘI?

“Ai có quyền tha tội trừ một mình Thiên Chúa?” (Mc 2,7). Câu hỏi này của các kinh sư dẫn đến tâm điểm của tội lỗi, đó là sự khước từ Thiên Chúa. Và vì thế chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ (GLHTCG số 1441).

Ngày nay kinh nghiệm chỉ cho thấy việc nhìn nhận tội lỗi (đúng như nó là) không phải là chuyện dễ dàng. Chúng ta nhìn nhận lỗi lầm khuyết điểm của mình, ân hận về những sai sót của mình và ân hận vì đã làm tổn thương người khác. Thế nhưng việc này có liên quan gì đến Thiên Chúa? Đúng là chúng ta cần phải giao hòa, phải tha thứ cho nhau. Tuy nhiên thật là khó khi nói rằng chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa! Nhìn nhận chiều kích xã hội của tội lỗi còn dễ hơn là nhìn nhận rằng mình đã phạm tội với Chúa. Thế nhưng tác giả Thánh Vịnh lại cầu nguyện: “Con đã phạm tội chống lại Chúa, duy một mình Chúa” (Tv 51).

Ngay từ đầu sách Tin Mừng đã xuất hiện lời kêu gọi sám hối và hoán cải ((Mc 1,15). Hoán cải bao gồm hai điều không thể tách rời nhau: mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và thái độ của chúng ta với tha nhân. Đời sống mới theo Tin Mừng được tóm tắt trong lệnh truyền có hai mặt là yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Tuy nhiên chúng ta phải thấy thứ tự rõ ràng: phải yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực” (Mc 12,30), và phải yêu mến tha nhân “như chính mình” (Mc 12,31).

Cũng thế, tội lỗi bao hàm hai mặt: khước từ tình yêu Thiên Chúa và làm tổn thương tình yêu tha nhân. Và chúng ta chỉ thật sự ý thức về tội lỗi khi gặp gỡ tình yêu của Chúa. Đó là lý do tại sao các thánh là những người có ý thức sâu sắc về tội lỗi: càng được tình yêu Chúa chiếm hữu, các ngài càng cảm thấy đau đớn vì đã xúc phạm đến tình yêu ấy.

Chúng ta không thể “xúc phạm” đến Thiên Chúa theo kiểu chúng ta chửi bới nhau. Nhưng lòng sám hối có thể dẫn chúng ta đến chỗ khám phá ra rằng mình đã đáp lại tình yêu Chúa quá ít, đã chưa yêu mến Chúa “hết lòng”. Và nỗi buồn phiền này cũng có thể xuất hiện khi chúng ta nhận ra mình đã thiếu yêu thương đối với tha nhân là những người được Chúa yêu thương. Theo ý nghĩa đó, tội lỗi luôn luôn liên hệ đến Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài có thể tha thứ.

Sứ vụ đặc biệt của Chúa Giêsu là đem đến cho nhân loại ơn tha thứ tội lỗi. Chính tên gọi của Người có nghĩa là “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội” (Mt 1,21). Vào cuối cuộc đời trần thế, Người nói: “Đây là Máu Thầy.. .đổ ra cho nhiều người được tha tội” (Mt 26,28). Vì Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa nên Người có thể nói về chính mình: “Con Người có quyền tha tội” (Mt 9,6). Người còn làm điều lớn lao hơn, đó là trao cho các môn đệ của Người quyền năng vốn thuộc về một mình Thiên Chúa, để nhân danh Người, họ thi hành “thừa tác vụ giao hòa” (2Cor 5,18) và tha thứ tội lỗi (x. Ga 20,21-23).

Đây là một trong những điều vĩ đại và đẹp đẽ nhất mà con người có thể làm nhân danh Chúa Giêsu: công bố cách hiệu quả lời chữa lành của Thiên Chúa: “Cha tha tội cho con”.

Bài 39. GIẢI TỘI - BÍ TÍCH BỊ LÃNG QUÊN?

Quà tặng đầu tiên mà Đấng Phục Sinh đem đến cho các môn đệ là bình an và niềm vui. Khi hiện đến với các ông, Người nói: “Bình an cho anh em”, và “các ông vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20,19-20). Tuy nhiên bình an và niềm vui ấy không chỉ dành riêng cho các ông, vì thế Chúa nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21) và trao cho các ông nhiệm vụ: “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì

78

tội người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23). Vậy các tông đồ và Hội Thánh hiểu về lệnh truyền của Chúa thế nào?

Sách GLHTCG viết: “Đức Kitô đã muốn toàn thể Hội Thánh của Người, trong kinh nguyện, đời sống và các hoạt động của mình, là dấu chỉ và dụng cụ cho ơn tha thứ và giao hòa mà Người đã thủ đắc cho chúng ta, bằng máu châu báu của Người. Tuy nhiên Người đã ủy thác việc thực thi quyền tha tội cho thừa tác vụ Tông Đồ. Chính thừa tác vụ này đã lãnh nhận “chức vụ giao hòa” (2Cor 5,18). Vị Tông Đồ được sai đi nhân danh Đức Kitô, và chính Thiên Chúa, qua vị Tông Đồ, khuyên bảo và nài xin: “Hãy làm hòa cùng Thiên Chúa” (2Cor 5,20).

Dọc dài qua nhiều thế kỷ, hình thức bên ngoài của “thừa tác vụ giao hòa” này đã có nhiều thay đổi. Với những Kitô hữu sau khi chịu Phép Rửa, lại phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng (ví dụ thờ ngẫu tượng, giết người hay ngoại tình), thánh Phaolô cho rằng phải trừng phạt nghiêm khắc bằng cách trục xuất, để ít ra người đó còn “được cứu thoát trong Ngày của Chúa” (1Cor 5,5). Cách chung Hội Thánh sơ khai đã áp dụng việc thực hành đền tội nghiêm khắc, và đối với những tội nặng công khai thì phải đền tội công khai, có khi cả đời. Việc đền tội này, gồm cả việc bị loại ra khỏi sự hiệp thông Thánh Thể, được coi như “cái phao cứu độ thứ hai sau khi đắm tầu, tức là sau khi đánh mất ân sủng” (số 1446).

Về mặt nhân bản cũng như mục vụ, kỷ luật quá khắt khe này không hoàn toàn thích hợp. Vì thế từ thế kỷ 7 trở đi, cách riêng dưới ảnh hưởng của các tu sĩ người Ailen, hình thức “thống hối riêng” được phát triển, hối nhân được tha tội ngay sau khi xưng tội với linh mục, không cần đợi đến khi kết thúc thời gian đền tội. Từ đó xuất hiện hình thức xưng tội như ngày nay, vẫn được duy trì những nét chính sau hơn ngàn năm (số 1448).

Liệu ngày nay chúng ta sẽ có sự thay đổi nào khác không? Trong những năm gần đây, không có cử hành bí tích nào lại sút giảm như bí tích Giao Hòa (Giải Tội). Phải chăng ý thức về tội đã không còn? Hay đã có quá nhiều kinh nghiệm tiêu cực về việc xưng tội? Hay chỉ vì thiếu linh mục? Đàng khác, không nhận ra và không sám hối tội lỗi sẽ đem lại những tai hại cho đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn.

Ở bất cứ nơi đâu trong Hội Thánh đang có những dấu hiệu hồi sinh, thì cũng có sự tái khám phá bí tích Giao Hòa. Và điều các môn đệ trải nghiệm vào buổi chiều Ngày Phục Sinh lại được tái diễn: Đấng Phục Sinh, bằng Thần Khí của Người, ban ơn giao hòa và bình an.

Bài 40. ĂN NĂN TỘI VÀ XƯNG TỘI

Có ba bước trong bí tích Giao Hòa: ăn năn tội, xưng tội, làm việc đền tội. Thiếu một trong ba bước này, việc hoán cải chưa được thực hiện thật sự và bí tích không mang lại hoa trái.

Vậy ăn năn tội là gì? Trong tác phẩm Hoán cải và tái sinh, triết gia Max Scheler đã viết những điều soi sáng tuyệt vời về điều này. Trước hết ông cho thấy ngày nay có nhiều trở ngại khiến người ta không hiểu cho đúng về ăn năn tội. Chẳng hạn quan niệm cho rằng: “Tại sao lại phải ăn năn về một điều không thể thay đổi? Chuyện đã xong rồi. Đừng tiếc nuối gì nữa, tốt hơn là đi tới. Ăn năn chỉ là sự sợ hãi hình phạt, sợ bị phát hiện; đó là thứ cảm giác chán nản sau khi làm điều gì đó; đó là thứ cố gắng làm yên lương tâm bằng cách tự hành hạ bản thân”. Có nhiều quan niệm tương tự như thế, nhưng thật ra chúng chỉ là những biếm họa của sự ăn năn đích thực. Vậy ăn năn đích thực là gì?

Công đồng Trentô nói đến ba yếu tố. Ăn năn tội là “đau đớn trong lòng và chê ghét tội đã phạm, dốc lòng chừa từ nay không phạm tội nữa”. Con đường hoán cải có thể là con đường dài. Lúc khởi đầu, có lẽ chỉ là một tình cảm mơ hồ, hồi tưởng điều gì đó không hay. Rồi bất ngờ hoặc từ từ, mọi sự trở nên rõ ràng hơn khi ta nhận ra rằng mình đã làm điều gì đó sai. “Làm sao tôi có thể làm chuyện đó?” Câu hỏi đó đánh vào sự tự mãn của chúng ta. Một khi nhìn nhận mình đã làm điều sai trái hoặc bỏ sót không làm điều tốt, thì hậu quả là chúng ta thấy hối hận và kinh tởm điều xấu xa mình đã làm.

Chính ở đây, lòng ăn năn có thể dẫn đến sự tái sinh. Tôi nhìn nhận tội lỗi của mình (mà lúc phạm, tôi đã không thấy rõ). Đồng thời tôi nhận ra mình có thể và nên hành động cách khác. Cũng ở đây xuất hiện niềm hi vọng lớn lao. Điều tốt tôi đã không làm bây giờ cuốn hút tôi. Tôi có thể làm mới lại cuộc đời mình. Như thế lòng ăn năn mở ra một tương lai mới cho tôi.

Việc ăn năn tội như thế luôn luôn là một hồng ân của Thiên Chúa, một thúc đẩy của Chúa Thánh Thần (GLHTCG số 1453). Ăn năn tội cách trọn khi đó là sự hối hận vì đã xúc phạm đến tình yêu. Ăn năn tội “cách chẳng trọn” khi hối hận vì sợ hãi hình phạt.

Lòng ăn năn thúc đẩy chúng ta đi xưng tội, nói rõ thứ tội mà mình đã phạm và hối hận. Chỉ nhờ việc xưng tội, tôi mới lãnh trách nhiệm về tội lỗi của mình và vượt qua nó, nhờ đó mở ra cánh cửa giao hòa (số 1455).

Nhưng tại sao lại phải xưng tội với linh mục? “Nếu bệnh nhân xấu hổ không cho thầy thuốc coi vết thương, thì thuốc không chữa được đúng bệnh” (Thánh Giêrônimô). Khi xưng tội, tôi chỉ cho linh mục thấy những thương tích ẩn kín nơi tôi vì tội lỗi, để ngài có thể chữa lành tôi bằng ơn tha thứ của Chúa.

Bài 41. NHỮNG HÌNH THỨC THỐNG HỐI KHÁC

Số người đi xưng tội đã ít đi so với trước đây, nhưng khắp nơi người ta lại tìm người nâng đỡ về mặt tâm lý và tinh thần. Nhiều người đến với các bác sĩ và nhà trị liệu. Xưng tội cá nhân với linh mục và việc linh hướng xem ra ngày càng ít. Có thật sự như thế không? Nhiều dấu hiệu cho thấy không hẳn như thế. Một điều gì đó mới mẻ đang diễn ra, kho tàng cổ xưa nay đang được khám phá lại.

Trước hết, điều này diễn ra nơi những hình thức khác của sự thống hối. “Việc xưng các lỗi phạm hằng ngày (các tội nhẹ), tuy không thật sự cần thiết, vẫn được Hội Thánh thiết tha khuyến khích” (GLHTCG số 1458). Có những hình thức thống hối khác, qua đó chúng ta có thể được tha các “tội nhẹ”. Ba việc đạo đức được kê ra trong Kinh Thánh là ăn chay, cầu nguyện, làm việc bác ái. “Vác thánh giá hằng ngày và bước theo Chúa Giêsu là con đường chắc chắn nhất của sự thống hối” (số 1435). Điều cốt yếu là sẵn sàng hoán cải và yêu thương vì “tình yêu che lấp muôn vàn tội lỗi” (1Pet 4,8). Đây cũng là lý do Hội Thánh khuyên chúng ta năng xưng tội: “Năng hưởng nhờ hồng ân của lòng Chúa thương xót, chúng ta được thúc đẩy để trở nên hay thương xót như Ngài” (số 1458).

Việc cộng đồng cử hành thống hối không đi ngược lại ý hướng này. Tội lỗi gây tổn thương cho sự hiệp thông, và vì thế hoán cải và thống hối luôn mang tính cộng đoàn (số 1429, 1443). Việc cử hành cộng đoàn có thể giúp chúng ta ý thức chân lý này và có thể dẫn đến thống hối cá nhân và lời khẩn cầu chung để xin ơn tha thứ (số 1482). Dĩ nhiên việc giải tội tập thể chỉ giới hạn trong những trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng. Đây không phải là sự giới hạn mang tính áp đặt của Hội Thánh. Có những lý do sâu xa khiến Hội Thánh làm như thế. Đức Kitô không bao giờ chữa lành tập thể. Người đích thân ngỏ lời với từng hối nhân. “Người là thầy thuốc cúi mình trên từng bệnh nhân đang cần Người chữa lành” (số 1484). Cũng thế, việc tha tội luôn mang tính cá nhân: “Cha tha tội cho con”.

“Ngồi tòa”: Trong đời sống linh mục, không có nhiệm vụ nào mà ở đó linh mục cảm nghiệm cách sâu xa thừa tác vụ của Đấng chăn chiên lành cho bằng khi ngồi tòa giải tội. Nếu thừa tác vụ này mất đi thì suối nguồn đời linh mục cũng vơi cạn.Chính ở tòa giải tội, linh mục nhận ra rằng ngài có đặc quyền thi hành thừa tác vụ của người Samari nhân hậu, rằng ngài thật sự là khí cụ của tình yêu tha thứ nơi Thiên Chúa (số 1465). Cũng nơi đó, hối nhân nhận ra nơi linh mục hình ảnh người tôi tớ của lòng thương xót. Đồng thời họ phải tin rằng họ thật sự gặp gỡ Đức Kitô nơi linh mục mà họ đến xưng tội và nhận ơn xá giải.

“Việc linh hướng” không gắn kết chặt chẽ với bí tích Giao Hòa. Công việc này giả thiết ơn “phân định các thần khí”. Và ở đây là cả một lãnh vực rộng lớn mở ra cho người giáo dân, cả nam lẫn nữ.

Bài 42. BÍ TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN

Bệnh tật và đau khổ là một phần của đời sống con người. Một đàng, chúng ta cố gắng chống lại, xa tránh và giảm bớt đau khổ, bệnh tật; đàng khác, chúng ta phải chấp nhận chúng. Mọi sự đau yếu đều nhắc nhớ rằng cái chết đang chờ đợi chúng ta (GLHTCG số 1500).

Thái độ của con người trước đau khổ và bệnh tật đã trải qua nhiều thay đổi, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Ngày xưa, người hấp hối như được bao bọc bằng những lời kinh. Nhiều người công giáo Việt Nam vẫn còn thuộc những kinh cầu cho kẻ hấp hối. Ngày nay, người bệnh được đưa vào bệnh viện, ở đó chỉ có chữa trị phần xác chứ không có bầu khí thiêng liêng. Nhưng dù cố gắng chữa trị đến đâu, con người vẫn phải chấp nhận rằng sự chết là bước đi cuối cùng và thiết yếu mình phải bước trong đời.

Về cử hành phụng vụ, cũng có những thay đổi. Ngày xưa, các linh mục bị coi như những “thiên thần báo tử” và người ta cố gắng trì hoãn việc xức dầu muộn hết sức có thể. Ngày nay, khi Công đồng gọi tên bí tích này là “Xức dầu bệnh nhân”, Hội Thánh muốn nhấn mạnh đây là bí tích cho bệnh nhân chứ không chỉ cho người hấp hối (số 1499).

Mẫu mực của bí tích này là hành động chữa lành của Chúa Giêsu. Người luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy các bệnh nhân, và Người cho các môn đệ tham dự vào “thừa tác vụ cảm thương và chữa lành” (số 1506) của Người: “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh” (Mc 6, 12-13).

Ngay từ đầu, các Kitô hữu đã coi trọng việc chăm sóc bệnh nhân. Nơi người bệnh, chúng ta phục vụ chính Đức Kitô (Mt 25,36). Cầu nguyện cho bệnh nhân là một phần của tác vụ này. Chúng ta được kêu gọi làm việc đó cách ý thức và tự do. Trong những trường hợp bệnh nặng, khi “tín hữu bắt đầu lâm cơn nguy tử vì bệnh tật hay già yếu”, đó là lúc thích hợp để các linh mục xức dầu (số 1514¬1516).

Sách Giáo lý nói đến ba hiệu quả của bí tích này: (1) được Chúa Thánh Thần ban sức mạnh giữa những khó khăn vì bệnh tật hay già yếu; (2) ban ơn kết hợp đau khổ của mình với cuộc khổ nạn của Chúa, cách nào đó được thánh hiến để mang lại hoa trái cho công trình cứu độ của Chúa; (3) qua đau khổ được đón nhận bằng đức tin, góp phần mưu ích cho Dân Chúa. Chúng ta dễ dàng quên mất điều này là: nhờ ân sủng Đức Kitô, đón nhận bệnh tật là việc tông đồ ẩn kín và có hiệu quả sâu xa. Mẹ Têrêxa Calcutta nhấn mạnh rằng đàng sau công việc phục vụ của các chị em trong dòng, có một người nào đó đang trợ giúp việc tông đồ của các chị, bằng cách hiến dâng đau khổ họ phải chịu.

Bài 43. BÍ TÍCH TRUYỀN CHỨC THÁNH

“Truyền Chức Thánh là bí tích qua đó sứ vụ Đức Kitô đã ủy thác cho các Tông đồ của Người được tiếp tục thực thi trong Hội Thánh cho đến tận thế: vì vậy, đây là bí tích của thừa tác vụ tông đồ” (GLHTCG số 1536). Định nghĩa vắn gọn này trình bày điều mà ngày nay nhiều người không dễ chấp nhận. Chẳng hạn, người ta lập luận rằng: Đúng là Chúa Giêsu đã gọi và sai các tông đồ đi. Thế nhưng Chúa có muốn có các giám mục và linh mục không? Người có muốn có bí tích Truyền Chức Thánh không? Chẳng phải mọi Kitô hữu đều thi hành sứ mệnh của Đức Kitô sao? Nhiệm vụ chính của giám mục, linh mục là gì? Phẩm trật có thật là do Đức Kitô thiết lập không hay chỉ là công trình của con người?

Những câu hỏi trên đã trở thành nóng bỏng, ít nhất là từ thời Cải cách ở thế kỷ 16, và ngày nay lại được đặt ra quyết liệt.

Trong Giao Ước Mới, chỉ có một Thượng tế duy nhất là Đức Giêsu Kitô, “Đấng Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người” (1Tim 2,5). Hy tế của Người là hy tế độc nhất, được dâng một lần là đủ trên Thánh giá và cho toàn thể nhân loại. Vậy làm sao lại có các linh mục và bí tích Truyền Chức Thánh? Như vậy chẳng phải là sai lạc và bẻ gẫy truyền thống nguyên thủy sao? Sách Giáo lý đưa ra một so sánh hữu ích: “Hy lễ cứu chuộc của Đức Kitô là duy nhất, được thực hiện một lần cho mãi mãi. Tuy nhiên hy lễ này hiện diện trong hy lễ Thánh Thể của Hội Thánh. Cũng có thể nói y như vậy về chức tư tế duy nhất của Đức Kitô: chức tư tế của Người hiện diện nhờ chức tư tế thừa tác mà không làm suy giảm tính duy nhất của chức tư tế nơi Đức Kitô” (số 1545). Sau đó, Sách Giáo lý trích lại lời của thánh Tôma để giải thích rõ hơn: “Chỉ có Đức Kitô là vị Tư tế đích thực, còn những người khác chỉ là thừa tác viên của Người”.

Chức tư tế thừa tác hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô và chức tư tế duy nhất của Người, và được thiết lập vì con người và vì cộng đoàn Hội Thánh (số 1551). Chỉ khi đó những lời linh mục đọc “Này là Mình Thầy”, “Này là Máu Thầy” mới có ý nghĩa. Linh mục không kể câu chuyện của quá khứ nhưng linh mục nói và hành động “trong cương vị Đức Kitô là Đầu” (in persona Christi) (số 1548).

Linh mục cũng cầu nguyện và cử hành phụng vụ “nhân danh toàn thể Hội Thánh”, không phải vì ngài được bầu ra làm đại diện cho cộng đoàn, nhưng vì ngài đại diện cho Đức Kitô, Đấng là “Đầu của Thân Thể, Hội Thánh”, Đấng hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa Cha cùng với và cho tất cả chúng ta, chuyển cầu cho chúng ta trước nhan Thiên Chúa (số 1553).

Lại không phải là quá đáng khi đòi hỏi những con người yếu đuối và tội lỗi làm “đại diện cho Đức Kitô” sao? Nhưng chính vì thế mà Truyền Chức là một bí tích; đó không phải là sự phô diễn của con người, nhưng là ân huệ Thiên Chúa ban qua bàn tay và trái tim con người.

Bài 44. THỪA TÁC VỤ GIÁM MỤC

Giám mục, linh mục, phó tế, là thừa tác vụ có chức thánh, ở ba cấp bậc trong Hội Thánh. Đây là điều đã có từ thời xa xưa (GLHTCG số 1554). Trong ba bài tới, chúng ta sẽ bàn về ba cấp bậc này, để xem ba cấp thừa tác vụ này phát xuất từ đâu, có liên hệ với nhau ra sao, và có ý nghĩa gì.

Xét về hình thức bên ngoài, chức giám mục đã có những thay đổi qua nhiều thế kỷ, nhưng nhiệm vụ chính yếu thì vẫn thế cho đến ngày Chúa trở lại. “Sứ mệnh thần linh đã được Chúa Kitô trao phó cho các Tông đồ phải tồn tại cho đến tận thế (x. Mt 28,20), bởi lẽ Tin Mừng mà các ngài có nhiệm vụ rao truyền là nguyên lý ban sự sống trọn vẹn trong Hội Thánh qua mọi thời đại. Vì thế, các Tông đồ đã quan tâm đặt người kế vị. Thật vậy, không những các ngài có nhiều phụ tá giúp thi hành chức vụ, nhưng để sứ mệnh trao phó cho các ngài được tiếp tục sau khi các ngài qua đời, các Tông đồ còn ủy thác, như một di chúc, cho các cộng sự viên trực tiếp của mình, nhiệm vụ hoàn tất và củng cố công trình các ngài đã khởi sự. Bởi vậy, các ngài đã chỉ định những người như thế, rồi truyền lệnh cho họ sẽ làm tương tự, để khi họ chết, sẽ có những người có năng lực tiếp nối thừa tác vụ của họ” (Giáo Hội, 20).

Hiến chế tín lý về Giáo Hội đã trình bày như trên về sự chuyển tiếp từ các Tông đồ đến những người kế vị các ngài là các giám mục. Giáo huấn này được nâng đỡ bằng những tư liệu cổ xưa nhất, khẳng định về sự chuyển tiếp này. Ngoài các thư của thánh Phaolô và sách Công vụ các Tông đồ, tư liệu quan trọng nhất là thư của thánh Clêmentê thành Rôma, người kế vị thứ ba của thánh Phêrô, gửi cho cộng đoàn Côrintô năm 96. Trong các thư của thánh Inhaxiô thành Antiôkia, giám mục tử đạo (năm 110), chúng ta đã thấy thừa tác vụ có chức thánh được cấu trúc thành ba cấp bậc: “Chớ gì mọi người tôn trọng các phó tế như Chúa Giêsu Kitô, tôn trọng Giám mục như hình ảnh của Chúa Cha, và tôn trọng các linh mục như nghị viên của Thiên Chúa và như công hội các Tông đồ: không có những vị này, không thể nói về Hội Thánh”. Ở thời điểm muộn hơn (năm 180), thánh Irênê đã nói với chúng ta về danh sách giám mục của các Hội Thánh địa phương do các Tông đồ thiết lập, và ngài kể tên những đấng kế vị thánh Phêrô ở Rôma cho tới thời của ngài.

Với tính liên tục như thế, sự kế nhiệm tông đồ đã trải dài từ thời đầu của Hội Thánh cho đến ngày nay. Sức sống và sức mạnh nội tại của tính liên tục này là ân sủng bí tích. Để chu toàn sứ mệnh, các Tông đồ “được Đức Kitô đổ tràn đầy Thánh Thần cách đặc biệt, và chính các Tông đồ trao ban hồng ân thiêng liêng cho các cộng sự viên của mình qua việc đặt tay, điều đó được lưu truyền cho đến chúng ta qua việc thánh hiến giám mục” (số 1556). Công đồng dạy rằng: “Việc thánh hiến giám mục mang lại sự viên mãn của bí tích Truyền Chức Thánh” (số 1557). Và như thế, dù có những mặt mạnh hay yếu về nhân loại, các giám mục thật sự là những người kế vị các Tông đồ.

Bài 45. THỪA TÁC VỤ LINH MỤC

Chẳng phải tất cả những ai chịu phép Rửa Tội đều chia sẻ chức tư tế của Đức Kitô sao? Dân Chúa lại chẳng được gọi là dân tư tế sao? Vậy, tại sao lại phải có một bí tích đặc biệt cho việc phong chức linh mục? Trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội, có một đoạn văn thường xuyên gây tranh cãi, nguyên văn thế này: “Mặc dù chức tư tế cộng đồng của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật của linh mục khác nhau về bản chất, nhưng cả hai tùy thuộc lẫn nhau” (GH số 10, Sách GLHTCG số 1547). Thế nhưng, khác biệt về bản chất nghĩa là gì? Phải chăng các linh mục hoàn toàn khác với những người đã chịu Phép Rửa? Công Đồng lại không muốn quá nhấn mạnh đến linh mục tới mức coi linh mục như ở trên và chống lại giáo dân sao?

Ở đây, cách đơn giản nhất để giải thích giáo huấn Công đồng là phân biệt giữa mục đích và phương tiện. Mọi sự trong Hội Thánh đều nhằm phục vụ mục đích này: kết hợp con người với Thiên Chúa và với nhau. Nói cách khác, toàn bộ mục đích của Hội Thánh là sự thánh thiện: “Thánh ý của Thiên Chúa là anh em được thánh hóa” (1Thes 4,3). Dĩ nhiên Hội Thánh không phải là cứu cánh tự tại, nhưng như Công đồng nói, Hội Thánh là một “bí tích” nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất nhân loại”. Chúng ta thể hiện “chức tư tế cộng đồng” qua việc sống ân sủng của bí tích Rửa Tội trong đời sống của mình, “đời sống tin, cậy, mến, theo Thánh Thần” (số 1547). Như thế, có thể nói rằng “chức tư tế cộng đồng” trở thành thực tại sống động nơi sự thánh thiện của các Kitô hữu.

Hội Thánh có những phương thế nhờ đó đời sống ân sủng được phát triển, những phương thế do chính Đức Kitô thiết lập và Hội Thánh phát triển lên. Lời của Thiên Chúa và các bí tích chính là những “phương thế cứu độ” do Thiên Chúa ban. Ngoài ra, những cơ cấu, luật lệ, tổ chức của Hội Thánh cũng là những phương thế. Tất cả đều nhằm phục vụ cùng một mục đích: cứu độ con người và thánh hóa họ. Hiểu như thế, chức linh mục thừa tác là để phục vụ chức tư tế cộng đồng. Chức tư tế thừa tác “giúp làm tăng trưởng ân sủng Phép Rửa của mọi Kitô hữu. Đó là một phương thế qua đó Đức Kitô xây dựng và dẫn dắt Hội Thánh của Người. Vì vậy chức tư tế thừa tác được trao ban qua một bí tích riêng, là bí tích Truyền Chức Thánh” (số 1547).

Bây giờ chúng ta có thể hiểu tại sao chức linh mục là một thừa tác vụ: “Chức tư tế thừa tác hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô và vào chức tư tế duy nhất của Người, và được thiết lập vì con người và cộng đoàn Hội Thánh”; “Quyền thánh chức không là gì khác hơn quyền năng thánh thiêng của Đức Kitô” (số 1551). Đó là lý do tại sao Đức Kitô đã hỏi thánh Phêrô ba lần ‘Con có yêu mến Thầy không’ trước khi trao cho Phêrô sứ vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa (Ga 21,15-17).

Bài 46. BÍ TÍCH HÔN PHỐI

Như người ta vẫn nói, hôn nhân là chuyện xưa như trái đất, là điều hết sức tự nhiên trong đời sống. Điều đó có nghĩa là hôn nhân không phải là phát hiện mới của văn hóa, nhưng là điều vốn đã có sẵn. Dĩ nhiên, theo dòng lịch sử, hôn nhân đã có những thay đổi, thế nhưng cái cốt lõi vẫn được duy trì. Nền tảng sâu xa nhất của hôn nhân đã được chỉ rõ: “Chính Thiên Chúa là tác giả của hôn nhân” (GLHTCG số 1603). Hôn nhân là thành phần của trật tự tạo thành, do chính Thiên Chúa muốn. Chính vì thế ngay chương đầu của Kinh Thánh đã cho chúng ta biết: Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài, có nam có nữ (St 1,27). Thiên Chúa chúc phúc cho sự kết hợp của họ và làm cho nó sinh sôi nảy nở (St 1,28).

Bản văn này cũng trình bày sứ điệp cốt yếu về hôn nhân: “Thiên Chúa thấy điều đó tốt lành”. Hôn nhân không phải là sự sắp xếp theo tính toán loài người, hoặc sự nhượng bộ trước yếu đuối của con người, nhưng chính là “hình ảnh và giống như Thiên Chúa”. “Vì Thiên Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ, nên tình yêu hỗ tương của họ là một hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt Thiên Chúa dành để yêu con người” (số 1604). Điều đó cũng có nghĩa là hôn nhân và gia đình, trong hình thức cốt yếu của nó, không tùy thuộc vào quyết định của Nhà nước hay xã hội. Hôn nhân và gia đình là nền tảng của mọi cộng đồng. “Quyền bính, sự bền vững và sự sống của các tương quan trong gia đình làm nên những nền móng cho tự do, sự an toàn và tình huynh đệ trong xã hội” (số2207).

Hôn nhân đang bị đe dọa, và những đe dọa ngày nay chẳng phải là những đe dọa đầu tiên mà hôn nhân phải đối diện. Ngay từ khi người nam và người nữ chung sống với nhau trong hôn nhân, đã có những xung đột, thảm kịch, bất trung, ghen tị, áp bức và đổ vỡ. Giáo huấn đức tin dạy chúng ta rằng những điều đó không do chính hôn nhân, không phải là bằng chứng rằng hôn nhân là xấu, nhưng đúng hơn là do những người phối ngẫu cũng là những tội nhân, mang gánh nặng tội tổ tông truyền và những hậu quả của nó, và hậu quả đầu tiên là sự rạn nứt của gia đình đầu tiên trong vườn địa đàng. Trật tự tạo thành trong hôn nhân bị xáo trộn, thế nhưng vẫn không bị tiêu diệt (số 1608). Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân, về mối hiệp thông sự sống giữa người nam và người nữ, về sự sinh sôi nảy nở ... tất cả đã không bị hủy diệt nhưng cần được khám phá lại.

Toàn bộ Cựu Ước giống như một ngôi trường giúp người nam và người nữ học lại kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa. Theo đó, những lề luật nhằm bảo vệ hôn nhân trở thành những tấm bảng chỉ đường dẫn đến hạnh phúc nguyên thủy (số 1609). Kinh Thánh không thể tìm hình ảnh nào mạnh mẽ hơn tình yêu vợ chồng để diễn tả giao ước giữa Thiên Chúa và loài người. Thế nhưng chỉ nơi Đức Kitô chúng ta mới hiểu được cái giá của tình yêu: trên thập giá, Người đã hiến mình vì Hội Thánh, Hiền thê của Người. Chính từ dòng suối này, tuôn chảy mọi bí tích, kể cả bí tích Hôn phối.

Bài 47. HÔM NAY VÀ MÃI MÃI

“Tình yêu mãnh liệt như sự chết, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể” (Diễm Ca 8,6-8). Yêu là mãi mãi, là tín trung, là trọn vẹn, không gì có thể áp đặt tình yêu. Nỗi đau lớn nhất là thất tình, tình yêu bị tổn thương.

Theo Kinh Thánh, sự chung thủy này phản ánh ý muốn của Đấng Tạo hóa: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ và gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt” (St 2,24). “Chính Chúa cho thấy câu này nói lên sự hợp nhất cuộc đời hai người cách bất diệt, khi Người nhắc lại ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa: Như vậy, họ không còn là hai, nhưng là một xương một thịt” (GLHTCG số 1605).

“Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Những lời này nhắc nhớ sự trường tồn của tình yêu, nhưng nó không trường tồn ở tự nó. Tình yêu bị đe dọa từ bên trong cũng như từ bên ngoài. Tình yêu có thể nhạt nhòa, trở thành dửng dưng, thậm chí biến thành thù hận. Ngày nay, khi điều đó xảy ra, người ta có khuynh hướng viết giấy khai tử cho tình yêu, thế là gọn nhất. Thế nhưng điều mà chúng ta không thấy là hôn nhân đã tạo nên một thực tại mới, và thực tại ấy tiếp tục hiện hữu cho dù cảm xúc không còn. Qua sự ưng thuận kết hôn, dây hôn phối liên kết hai người mãi mãi: “Dây hôn phối được chính Thiên Chúa thiết đặt đến độ hôn nhân thành sự và hoàn hợp giữa hai người đã được rửa tội, không bao giờ có thể được tháo gỡ. Dây liên kết này phát sinh từ một hành vi nhân linh tự do của đôi phối ngẫu và do sự hoàn hợp hôn phối, là một thực tại từ nay không thể rút lại, và là nguồn gốc của một giao ước được bảo đảm bởi sự trung tín của Thiên Chúa” (số 1640). Dù xã hội hay Giáo hội hay đôi hôn phối, đều không có quyền tháo cởi mối dây này (số 1644).

Trong thực tế đời sống, tính bất khả phân ly này thường bị cho là một đòi hỏi quá đáng, một lệnh truyền không thể thi hành. Chẳng phải là vô lý mà các môn đệ bị “sốc” khi nghe Chúa Giêsu khẳng định điều này (Mt 19,10). Càng ngày càng có nhiều đổ vỡ trong hôn nhân, kể cả những người được coi là mẫu mực. Càng ngày càng có nhiều những người làm cha hay mẹ đơn thân. Phải chăng các đôi vợ chồng ngày nay không thể sống tình yêu thủy chung và trọn vẹn nữa? Chính ở đây, phải khám phá lại Tin Mừng này: Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh viễn và không rút lại, đôi phối ngẫu được dự phần vào tình yêu đó của Thiên Chúa, một tình yêu hướng dẫn và nâng đỡ họ, và nhờ sự chung thủy với nhau, họ có thể là chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa. “Những đôi phối ngẫu nào, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, làm chứng được như vậy, ngay cả trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn, họ đáng được cộng đoàn Hội Thánh biết ơn và hỗ trợ” (số 1649).

Bài 48. TRÂN TRỌNG SỰ SỐNG

“Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian” (Ga 16,21). Trong diễn từ Từ Biệt, Chúa Giêsu vận dụng kinh nghiệm sinh nở của phụ nữ để cung cấp cho các môn đệ một hình ảnh sống động về “Giờ” mà Người và các môn đệ đang trải qua trước cuộc Khổ nạn. Đau buồn và mừng vui, khổ sở và hạnh phúc rất gần nhau. Thập giá và Phục sinh cũng giống như nỗi đau và niềm vui khi sinh con.

Sự lạ lùng trong việc sinh nở cũng cho thấy sự lạ lùng của việc “tái sinh” trong ân sủng (Tit 3,5). “Niềm vui vì có một con người sinh ra trong cuộc đời” khiến chúng ta ngỡ ngàng. Không ai đến trong cuộc đời này mà không qua con đường thụ thai và sinh nở. Mọi người đều là con của một bậc cha mẹ, dù họ bất toàn chăng nữa, và không ai thấy ánh sáng trong thế giới này mà lại không có một người mẹ chăm sóc và sinh hạ.

Tuy nhiên trong tiến trình hết sức tự nhiên này, điều kỳ lạ là một con người, một nhân vị độc đáo, được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương tự ngàn đời, nay được sinh hạ. Linh hồn thiêng liêng bất tử làm cho một con người là một nhân vị, linh hồn ấy được Thiên Chúa tạo dựng vào chính thời điểm sự sống bắt đầu (GLHTCG số 366).

Trách nhiệm thông truyền sự sống, một trách nhiệm hết sức nghiêm túc, làm cho đôi phối ngẫu thành “những người cộng tác tự do và có trách nhiệm với Đấng Tạo Hóa” (Thông điệp Sự Sống Con Người). Không có một hành vi nhân linh nào, qua đó con người cộng tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa cách trực tiếp và huyền nhiệm cho bằng hành vi thông truyền sự sống. Như Đức Chân phước Gioan Phaolô II nói: “Ở khởi điểm của mọi con người đều có hành động tạo dựng từ phía Thiên Chúa. Không ai bước vào cuộc đời này do may rủi, nhưng luôn luôn là mục đích của tình yêu tạo dựng nơi Thiên Chúa”. Chính tầm nhìn vĩ đại nhưng cũng rất thực tiễn này giúp chúng ta hiểu điều gì đang diễn ra trong hành vi thông truyền sự sống: “Từ chân lý nền tảng này của đức tin và lý trí, chúng ta hiểu rằng năng lực sinh sản đã được ghi khắc trong tính dục của con người. là sự cộng tác với năng lực tạo dựng của Thiên Chúa”.

Dù có những tranh cãi về thông điệp Sự Sống Con Người, thì điểm cốt lõi - tức là mối liên hệ nội tại giữa sự kết hợp trong tình yêu và sự thông truyền sự sống - chỉ có thể hiểu được ở mức độ sâu thẳm nhất trong viễn tượng này, đó là tình yêu hôn nhân luôn gắn với sự sinh sôi nảy nở, cho dù vì những lý do thể lý hoặc vì muốn sinh con có trách nhiệm (số 1654, 2368), hành động yêu thương ấy không dẫn đến việc thông truyền sự sống. “Chúng ta là một vì tình yêu làm cho nên một; chúng ta là hai vì tình yêu bày tỏ sự kính trọng; chúng ta là ba vì tình yêu vượt lên trên chính nó”, cha Moliné viết như thế và thật đáng suy nghĩ.