5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Bài này viết về bản thu âm gốc của ca khúc từ thiện năm 1985. Đối với các định nghĩa khác, xem We Are the World (định hướng).

Show

Nội dung chính Show

  • Ý tưởng, bối cảnh và quá trình sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]
  • Quá trình thu âm[sửa | sửa mã nguồn]
  • Âm nhạc và cấu trúc bài hát[sửa | sửa mã nguồn]
  • Các ca sĩ tham gia[sửa | sửa mã nguồn]
  • Phát hành và phản hồi[sửa | sửa mã nguồn]
  • Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]
  • Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]
  • Hoạt động hỗ trợ nhân đạo[sửa | sửa mã nguồn]
  • Biểu diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]
  • 25 for Haiti[sửa | sửa mã nguồn]
  • Giá trị[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xếp hạng và chứng nhận doanh số[sửa | sửa mã nguồn]
  • Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
  • Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
  • Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
  • Các tour du lịch có doanh thu cao nhất [Chỉnh sửa][edit]
  • $ 546,515,799[edit]
  • 1980s[edit][edit]
  • 1990s[edit][edit]
  • 2000s[edit][edit]
  • 2010s[edit][edit]
  • 2020s[edit][edit]
  • Tổng thực tế[edit]
  • Hồng[edit]
  • Notes[edit][edit]
  • References[edit][edit]
  • Buổi hòa nhạc được theo dõi nhiều nhất trong lịch sử là gì?
  • Điều gì được coi là hiệu suất trực tiếp tốt nhất mọi thời đại?
  • Buổi hòa nhạc lớn nhất từ trước đến nay là gì?
  • Ai giữ kỷ lục cho đám đông buổi hòa nhạc lớn nhất từ trước đến nay?

"We Are the World"

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Đĩa đơn của USA for Africa
từ album We Are the World
Mặt B"Grace"
Phát hành7 tháng 3 năm 1985
Định dạng7", 12", Đĩa đơn VHS
Thu âm28 tháng 1 năm 1985
A&M Recording Studios
(Los Angeles, California)
Thể loạiPop, gospel
Thời lượng7:14
Hãng đĩaColumbia
Sáng tácMichael Jackson
Lionel Richie
Chứng nhận4× Bạch kim (RIAA)

"We Are the World" là một ca khúc và đĩa đơn từ thiện do siêu nhóm nhạc USA for Africa thu âm năm 1985. Ca khúc do Michael Jackson và Lionel Richie sáng tác và được Quincy Jones cùng Michael Omartian sản xuất cho album We Are the World. Với doanh số bán trên 20 triệu bản, đây là một trong số 10 đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại trên toàn cầu.

Sau dự án "Do They Know It's Christmas?" của siêu nhóm nhạc Band Aid ở Anh, nhạc sĩ và nhà hoạt động xã hội Harry Belafonte nảy ra ý tưởng làm một đĩa đơn từ thiện của Mỹ để hỗ trợ công tác giảm thiểu nạn đói ở châu Phi. Ông, cùng với nhà gây quỹ Ken Kragen, là những người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ý tưởng này trở thành hiện thực. Hai người sau đó đã liên hệ với một số nhạc sĩ, và cuối cùng giao cho Jackson và Richie sáng tác ca khúc này. Cặp đôi này viết xong ca khúc "We Are the World" chỉ bảy tuần sau khi "Do They Know Its Christmas" được phát hành, và ngay ngày hôm sau (21 tháng 1 năm 1985), buổi thu âm đầu tiên của ca khúc được thực hiện. (Buổi cuối cùng là vào ngày 28 tháng 1 năm 1985). Sự kiện mang tính lịch sử này quy tụ một vài trong số những ca sĩ nổi tiếng nhất của nền công nghiệp âm nhạc thời bấy giờ.

"We Are the World" được phát hành vào ngày 7 tháng 3 năm 1985 và là đĩa đơn duy nhất của album này. Ca khúc đã thu được thành công về thương mại trên toàn cầu, đứng đầu các bảng xếp hạng trên khắp thế giới và trở thành đĩa đơn pop của Mỹ bán nhanh nhất trong lịch sử. Là đĩa đơn đầu tiên được chứng nhận bạch kim nhiều lần, "We Are the World" được chứng nhận bốn lần Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ca khúc chỉ nhận được đánh giá trung bình từ các nhà báo và các nhà phê bình âm nhạc. Người hâm mộ cảm thấy thích thú khi được nghe các ca sĩ đến từ nhiều chủng tộc và hát nhiều thể loại nhạc khác nhau cùng hoà giọng trong một bài hát, và cảm thấy hài lòng khi mua ca khúc "We Are the World" vì biết rằng doanh thu sẽ được dùng cho mục đích từ thiện. Một số người, trong đó có các nhà bình luận của những tờ báo chuyên về rock, tỏ ra thất vọng vì ngay từ đầu ca khúc đã không đề cập tới những lý do vì sao xảy ra nạn đói, và cho rằng lời bài hát có yếu tố tự đề cao.

"We Are the World" nhận được nhiều giải thưởng —bao gồm ba giải Grammy, một giải thưởng Âm nhạc Mỹ và một giải Sự lựa chọn của Công chúng. Ca khúc được quảng bá bằng một video âm nhạc được đánh giá chuyên môn tốt, một video giải trí tại gia, một tạp chí số đặc biệt, một chương trình phát thanh đồng thời quy mô lớn, cùng rất nhiều sách, áp phích và áo phông. Chương trình quảng bá và các sản phẩm phụ trên đã góp phần vào thành công của "We Are the World" và quyên góp được trên 63 triệu USD cho các chương trình hỗ trợ nhân đạo ở châu Phi và Hoa Kỳ.

Sau những tổn thất do trận động đất mạnh 7,0 Mw (tương đương 7,0 độ Richter) xảy ra ở Haiti vào ngày 12 tháng 1 năm 2010, một bản phối lại của ca khúc cũng do một dàn "sao" khác thể hiện được thu âm vào ngày 1 tháng 2 năm 2010. Được đặt tên là "We Are the World 25 for Haiti", ca khúc mới này được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 12 tháng 2 năm 2010, và lợi nhuận từ đĩa đơn mới này được sử dụng để hỗ trợ những người sống sót ở quốc gia rất nghèo Haiti.

Ý tưởng, bối cảnh và quá trình sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Michael Jackson, ảnh chụp năm 1984, vài tháng trước khi anh cùng Lionel Richie sáng tác ca khúc "We Are the World".

Trước khi "We Are the World" được sáng tác, nhân vật giải trí và nhà hoạt động xã hội người Mỹ Harry Belafonte đã ấp ủ ý tưởng tìm một dịp để mời các ca sĩ nổi tiếng nhất của nền công nghiệp âm nhạc thời bấy giờ thu âm chung một ca khúc. Ông dự định sẽ dùng lợi nhuận thu được để thành lập một tổ chức mới có tên gọi Liên hiệp các nghệ sĩ ủng hộ châu Phi (United Support of Artists for Africa - USA for Africa). Tổ chức phi lợi nhuận này sau đó sẽ cung cấp thực phẩm và hỗ trợ những người dân đang thiếu đói ở châu Phi, đặc biệt là đất nước Ethiopia, nơi đã có khoảng một triệu người thiệt mạng trong nạn đói xảy ra năm 1983–1985 ở quốc gia này.[1][2] Và ý tưởng này đã được hiện thực hoá sau khi Belafonte nghe nói đến dự án "Do They Know It's Christmas" của nhóm nhạc Band Aid ở Vương quốc Anh.[ct 1][4] Theo kế hoạch của nhà hoạt động xã hội này, một phần lợi nhuận thu được cũng sẽ được dùng để giúp giảm thiểu nạn đói ở Hoa Kỳ. Belafonte liên hệ với Ken Kragen, bạn ông đồng thời là một giám đốc giải trí và nhà gây quỹ. Kragen đã mời hai ca sĩ Lionel Richie và Kenny Rogers—họ cũng chính là hai ca sĩ thuộc quyền quản lý của Kragen—tham gia dự án âm nhạc của Belafonte. Kragen và hai nghệ sĩ này đồng ý giúp đỡ Belafonte thực hiện ý tưởng, và đổi lại, họ yêu cầu mời thêm Stevie Wonder để giúp dự án có tiếng vang hơn với sự xuất hiện của những tên tuổi nổi tiếng.[1] Quincy Jones được phân công đồng sản xuất ca khúc, và do đó ông đã tạm hoãn công việc của mình cho bộ phim The Color Purple.[1][5] Richie còn gọi điện thoại cho Michael Jackson, người vừa ra mắt album rất thành công về thương mại có tên gọi Thriller và mới trở về từ tour diễn Victory Tour cùng các anh em của mình.[1]

Jackson tiết lộ với Richie rằng anh không chỉ muốn biểu diễn ca khúc mà còn muốn tham gia vào việc sáng tác.[1][6] Ban đầu, "We Are the World" dự định sẽ do Jackson, Richie, và Wonder sáng tác. Tuy nhiên, do Wonder không có nhiều thời gian tham gia dự án, nên chỉ có Jackson và Richie tiếp tục đảm nhiệm công việc này.[6] Họ bắt đầu sáng tác "We Are the World" ở Hayvenhurst, trong ngôi nhà của gia đình Jackson tại Encino. Trong suốt một tuần, cả hai người đêm nào cũng thức để sáng tác lời ca và giai điệu của ca khúc trong phòng ngủ của Jackson. Họ ý thức rằng họ phải viết một ca khúc vừa dễ hát và dễ nhớ. Cả hai nghệ sĩ muốn viết một bài hát theo kiểu thánh ca. Chị gái của Jackson La Toya quan sát hai người sáng tác, và để ý rằng Richie chỉ sáng tác có vài dòng cho ca khúc.[5] Cô cho rằng em trai mình đã viết đến 99% lời bài hát, "nhưng cậu ấy cảm thấy không cần phải cho mọi người biết việc này".[5] La Toya còn bình luận thêm về quá trình sáng tác bài hát trong một buổi phỏng vấn với tạp chí tin tức về các nhân vật nổi tiếng của Mỹ People. "Tôi vào phòng khi họ đang sáng tác và thấy rất yên tĩnh, điều này thật khác thường, bởi khi làm việc Michael thường rất vui vẻ. Có lẽ lúc đó họ đang rất xúc động."[6]

Richie đã thu âm lại hai giai điệu cho ca khúc "We Are the World" do Jackson thực hiện, bổ sung thêm nhạc và lời cho ca khúc, tất cả trong cùng một ngày. Jackson từng nói, "Tôi thích làm việc một cách nhanh chóng. Tôi làm mà thậm chí ngay cả Lionel cũng không biết, vì tôi không đợi được. Tôi vào phòng rồi bước ra với ca khúc đã hoàn thiện—với trống, piano, dàn dây, và lời cho phần điệp khúc—ngay trong một đêm."[7] Sau đó Jackson đưa bản thu thử (demo) tới cho Richie và Jones nghe, cả hai đều bị sốc; họ không ngờ ngôi sao nhạc pop lại có thể vạch ra cấu trúc cho bài hát nhanh tới vậy. Các buổi làm việc tiếp theo giữa Jackson và Richie không mấy hiệu quả; bộ đôi nghệ sĩ không sáng tác thêm được lời ca nào mới và mọi việc không có gì tiến triển. Phải đến đêm 21 tháng 1 năm 1985 Richie và Jackson mới hoàn thành lời ca và giai điệu cho "We Are the World" chỉ trong vòng hai tiếng rưỡi, một ngày trước buổi thu âm đầu tiên của ca khúc.[7]

Quá trình thu âm[sửa | sửa mã nguồn]

Buổi thu âm đầu tiên diễn ra vào tối ngày 22 tháng 1 năm 1985 với an ninh nghiêm ngặt, khi Richie, Jackson, Wonder, và Jones bắt đầu thực hiện ca khúc "We Are the World" tại Phòng thu Lion Share Recording Studio của Kenny Rogers. Phòng thu nằm trên Đại lộ Beverly ở California này chật kín các ca sĩ, kỹ thuật viên, quay phim, các trợ lý và các nhà tổ chức khi bốn nghệ sĩ trên bước vào. Bắt đầu buổi làm việc, một đoạn băng "hát mẫu" ca khúc "We Are the World" được Richie và Jackson thu âm rồi sao ra cho mỗi nghệ sĩ được mời tới một bản. Bản hát mẫu này phải thu tới lần thứ sáu mới xong, bởi Quincy Jones cảm thấy các bản thu âm trước đó có phần hơi "suy tư" nhiều quá.[8]

Quincy Jones là một trong những nhân vật chủ chốt trong quá trình sản xuất và thu âm ca khúc "We Are the World".

Sau khi thực hiện bản thu mẫu xong, Jackson và Jones bắt đầu nghĩ tới các phương án thay thế khác cho câu hát "There's a chance we're taking, we're taking our own lives" (Có một cơ hội chúng ta đang huỷ hoại, chúng ta đang huỷ hoại chính sinh mạng của chính mình): cả hai đều cho rằng vế sau của câu hát trên có thể bị coi là một sự ám chỉ tới hành động tự sát. Khi cả nhóm cùng nghe lại bản thu âm điệp khúc, Richie cho rằng vế sau của câu hát trên nên sửa lại thành "We're 'saving' our own lives" (Chúng ta đang 'cứu lấy' cuộc sống của chính mình), ý kiến này được các nghệ sĩ đồng nghiệp của anh tán thành. Nhà sản xuất Jones cũng gợi ý rằng nên sửa cả vế trước của câu hát. "Một điều chúng ta không muốn làm, nhất là với một dàn nghệ sĩ như thế này, đó là làm ra vẻ chúng ta đang tự vỗ lưng nhau. Vậy nên sửa là, 'There's a choice we're making' (Chúng ta đang đứng trước một sự lựa chọn)."[9] Đến khoảng một rưỡi sáng, bốn nghệ sĩ kết thúc đêm thu âm bằng việc hoàn thiện đoạn điệp khúc hòa giọng của ca khúc, bao gồm cả những âm thanh đệm vào như "sha-lum sha-lin-gay".[9] Jones tuyên bố với cả nhóm rằng họ sẽ không thêm thắt gì vào bản thu âm cũ nữa. Ông nói: "Nếu chúng ta làm tốt, sẽ có người đưa bài hát lên sóng radio phát thanh".[9]

Ngày 24 tháng 1 năm 1985, sau một ngày nghỉ ngơi, Jones gửi bản hát mẫu của Richie và Jackson cho tất cả các nghệ sĩ tham gia thu âm ca khúc "We Are the World". Kèm theo gói hàng là một bức thư của Jones, gửi tới "Những người nghệ sĩ đồng nghiệp của tôi":[9]

Các băng cassette đều đã được đánh số, và tôi không thể diễn tả hết tầm quan trọng của việc giữ gìn cẩn thận cuộn băng này và không để nó lọt ra ngoài. Xin đừng sao chép chúng, và hãy gửi lại nó cho tôi vào đêm ngày 28. Trong một vài năm nữa, khi con cái anh chị hỏi, 'cha mẹ đã làm gì cho cuộc chiến chống lại đói nghèo trên thế giới?', các anh chị có thể tự hào trả lời rằng, đây chính là đóng góp của anh chị.[9]

Ken Kragen chủ trì một buổi gặp mặt bàn về kế hoạch sản xuất tại một căn nhà một tầng trên Đại lộ Sunset vào ngày 25 tháng 1 năm 1985. Tại đây, Kragen và nhóm của ông thảo luận xem nên chọn nơi nào để tổ chức buổi thu âm với siêu ban nhạc gồm rất nhiều nghệ sĩ sắp tới. Ông phát biểu, "Thông tin đáng ngại duy nhất bây giờ là chúng ta sẽ làm việc này ở đâu. Nếu ai cũng biết địa điểm thu âm đó, chúng ta sẽ phải đối mặt với tình trạng hỗn loạn có thể khiến dự án của chúng ta phá sản hoàn toàn. Khi mà Prince, Michael Jackson hay Bob Dylan—tôi đảm bảo với các bạn!—lái xe tới và thấy một đám đông tập trung trước cửa phòng thu, anh ấy sẽ chẳng bao giờ bước vào đâu."[9] Cùng đêm đó, trợ lý sản xuất và cũng là người sắp xếp giọng hát của Quincy Jones, Tom Bahler, được giao nhiệm vụ chọn từng giọng ca thích hợp cho mỗi câu hát solo. Bahler nói, "Việc này giống như được sắp xếp giọng hát trong một thế giới vốn đã hoàn hảo."[9] Jones không đồng ý, nói rằng nhiệm vụ này giống như "cho một quả dưa hấu vào một chai Coca-Cola".[9] Tối hôm sau, Lionel Richie tổ chức một buổi "họp dàn dựng" ở nhà riêng của anh, để thống nhất xem nghệ sĩ nào sẽ đứng ở đâu trong phòng thu.[9]

Buổi thu âm cuối cùng của ca khúc diễn ra vào tối ngày 28 tháng 1 năm 1985, tại phòng thu A&M Recording Studios ở Hollywood.[3][9] Michael Jackson tới lúc 9 giờ tối, sớm hơn các nghệ sĩ khác, để thu âm phần hát solo (đơn ca) của anh và thu âm một đoạn điệp khúc một mình.[9] Sau đó các nghệ sĩ khác của USA for Africa mới tới phòng thu, trong đó có Ray Charles, Billy Joel, Diana Ross, Cyndi Lauper, Bruce Springsteen và Smokey Robinson. Cũng có mặt vào lúc đó là năm anh em nhà Jackson: Jackie, La Toya, Marlon, Randy và Tito.[10] Nhiều người vừa trực tiếp trở về từ lễ trao giải thưởng âm nhạc Mỹ được tổ chức cùng đêm đó.[5] Ca sĩ khách mời Prince, người dự định sẽ có một đoạn song ca cùng với Michael Jackson, không có mặt tại buổi thu âm.[11] Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích sự vắng mặt của anh. Một tờ báo cho rằng nam ca sĩ không muốn thu âm cùng các đồng nghiệp còn lại.[12] Một báo khác tường thuật, vào thời điểm thu âm ca khúc "We Are the World", giải thích rằng ca sĩ này không muốn tham gia buổi thu âm vì Bob Geldof, thành viên ban tổ chức đã gọi anh ta là "một người đáng ghét" ("creep").[13] Tuy nhiên, Prince có đóng góp một ca khúc riêng có tựa đề "4 The Tears In Your Eyes" cho album We Are the World.[12] Tổng cộng, có hơn 45 ca sĩ hàng đầu của nước Mỹ tham gia thu âm, và nhà sản xuất phải từ chối 50 người khác vì quá đông.[11][14] Khi tới phòng thu, các nghệ sĩ nhìn thấy một tấm biển đính trên cửa ra vào với dòng chữ, "Xin hãy xem lại cái tôi của mình trước khi bước vào" (Please check your egos at the door).[15] Ngoài ra họ còn được Stevie Wonder chào đón, ông tuyên bố rằng nếu ca khúc không được hoàn thành trong một lần thu, ông và Ray Charles, hai ca sĩ mù, sẽ lái xe chở mọi người về nhà.[16]

"Tôi nghĩ những gì đang xảy ra ở châu Phi là một tội ác mang tầm vóc lịch sử... Bạn bước vào một trong những túp lều tôn nhăn nhúm ấy và bạn thấy những bệnh nào là viêm màng não rồi sốt rét rồi thương hàn vo ve trong không khí. Rồi bạn thấy những xác chết nằm la liệt cạnh nhau và cạnh cả những người còn sống. Trong một số trại. bạn còn thấy chỉ có 15 bao bột mì cho 27 nghìn người. Và tôi cho rằng đó là lý do tại sao chúng ta có mặt ở đây đêm nay...".

-Bob Geldof nói chuyện với các ca sĩ đồng nghiệp trong siêu ban nhạc USA for Africa trong một trong số những buổi thu âm ca khúc "We Are the World" ngày 28 tháng 1 năm 1985.[17]

Vào khoảng 10 rưỡi tối, các ca sĩ đứng vào vị trí đã sắp xếp sẵn của mình và bắt đầu hát. Vài tiếng sau Stevie Wonder nói rằng ông muốn thay âm thanh "sha-lum sha-lin-gay" bằng một câu hát tiếng Swahili.[17][18] Đúng lúc này, Waylon Jennings rời phòng thu trong một khoảng thời gian ngắn trong khi một số người gợi ý nên hát ca khúc này bằng tiếng Swahili.[17][18] Một cuộc tranh luận căng thẳng nổ ra, nhiều ca sĩ khác phản đối đề nghị này. Tiếng "sha-lum sha-lin-gay" cũng bị phản đối và sau đó đã được loại bỏ khỏi bài hát. Jennings trở về phòng thu và tham gia thu âm cùng, do đó sau này anh cũng được ghi tên. Cuối cùng, các ca sĩ tham gia quyết định sẽ tìm một câu hát nào đó có nghĩa bằng tiếng Anh để thay thế. Họ chọn hát câu "One world, Our children" (Một thế giới, những đứa trẻ của chúng ta), được hầu hết mọi người hưởng ứng.[17]

Khoảng rạng sáng, hai người phụ nữ Ethiopia và là khách của Stevie Wonder, được đưa vào phòng thu—các nhà sản xuất đã quyết định sẽ trích một phần lợi nhuận thu được để hỗ trợ những nạn nhân chịu ảnh hưởng của nạn đói vừa xảy ra tại Ethiopia.[18][19] Họ thay mặt đất nước mình cảm ơn các ca sĩ, khiến vài người cảm động khóc.[18][19] Ca sĩ mù Wonder tìm cách làm cho không khí trở nên vui vẻ hơn bằng cách đùa rằng buổi thu âm đã cho ông cơ hội được "nhìn thấy" người bạn và cũng là một ca sĩ mù Ray Charles. "Chúng tôi dường như đã đâm sầm vào nhau vậy!"[16] Các đoạn đơn ca (solo) của ca khúc được thu âm suôn sẻ mà không gặp bất cứ vấn đề gì.[19] Bản thu hoàn chỉnh của ca khúc "We Are the World" được hoàn thành lúc 8 giờ sáng.[19][20]

Âm nhạc và cấu trúc bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

"We Are the World" được hát từ góc nhìn của ngôi thứ nhất, gợi cho người nghe tiếp thu thông điệp của bài hát nhờ việc hát đi hát lại từ we (chúng ta).[21] Ca khúc được miêu tả là "một sự lay động tới lòng trắc ẩn của con người".[22]

Những câu hát đầu tiên trong đoạn điệp khúc được lặp lại của bài hát, "We are the world, we are the children, we are the ones who make a brighter day, so let's start giving" (Chúng ta là một thế giới, chúng ta là những đứa trẻ, chúng ta là những người sẽ gây dựng nên tương lai tươi sáng hơn, vậy nên hãy bắt đầu biết sẻ chia).[22] "We Are the World" mở đầu bằng giọng ca của Lionel Richie, Stevie Wonder, Paul Simon, Kenny Rogers, James Ingram, Tina Turner và Billy Joel hát đoạn một.[23] Michael Jackson và Diana Ross nối tiếp, cùng nhau hát đoạn điệp khúc thứ nhất.[23] Dionne Warwick, Willie Nelson và Al Jarreau hát đoạn hai, trước khi Bruce Springsteen, Kenny Loggins, Steve Perry và Daryl Hall hoà giọng trong đoạn điệp khúc thứ hai.[23]

Đồng sáng tác Jackson, Huey Lewis, Cyndi Lauper và Kim Carnes tiếp tục với đoạn cầu nối (bridge) của bài hát.[23] Cách cấu trúc ca khúc như thế này được nhận xét là đã "tạo ra cảm giác bất ngờ liên tiếp và khiến cho cảm xúc lên cao dần".[3] "We Are the World" kết thúc bằng đoạn điệp khúc đầy đủ do Bob Dylan và Ray Charles thể hiện, Wonder và Springsteen song ca, và phần ngẫu hứng (ad libitum) của Charles và Ingram.[23]

Trích đoạn lời hát tiếng Anhtạm dịch
There comes a time,

When we heed a certain call,
When the world must come together as one,
There are people dying
Oh, and it's time to lend a hand, To life, the greatest gift of all
...And the truth, you know, love is all we need
....When you're down and out, there seems no hope at all
But if you just believe, there's no way we can fall
Well, well, well, let us realize
Oh, that a change can only come, When we stand together as one, yeah, yeah, yeah

Có lúc

Chúng ta nghe thấy một lời kêu gọi,
Khi thế giới phải đoàn kết lại cùng nhau,
Có nhiều người đang chết
Và đã đến lúc giúp đỡ một tay, Cho cuộc sống, món quà tuyệt vời nhất hơn tất cả
... Và thật ra, bạn biết đấy, tình thương yêu là tất cả những gì chúng ta cần
...Khi bạn sa cơ lỡ vận, có vẻ như chẳng còn gì để hy vọng
Nhưng nếu bạn chỉ cần tin, chúng ta sẽ chẳng thất bại đâu
Nào nào, chúng ta hãy nhận ra
Rằng sự thay đổi chỉ có thể đến, nếu chúng ta đoàn kết cùng nhau, yeah, yeah

Các ca sĩ tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

Chỉ đạo
  • Quincy Jones

Phát hành và phản hồi[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 8 tháng 3 năm 1985, "We Are the World" được chính thức phát hành dưới dạng đĩa đơn ở cả hai định dạng 7" và 12".[24][25] Bài hát này là đĩa đơn duy nhất được phát hành từ album We Are the World và đã gặt hái nhiều thành công trên các bảng xếp hạng âm nhạc toàn cầu. Ở Hoa Kỳ, ca khúc đứng đầu các bảng xếp hạng đĩa đơn R&B, bảng xếp hạng Hot Adult Contemporary Tracks và Billboard Hot 100. Trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, We Are the World giữ vị trí số một trong vòng một tháng.[26][27] Trong tuần đầu tiên ra mắt, đĩa đơn đứng ở vị trí thứ 21 trên bảng xếp hạng Hot 100, thứ hạng cao nhất kể từ khi ca khúc "Thriller" của Michael Jackson mở màn ở vị trí số 20 trên bảng xếp hạng này một năm trước đó.[22] Chỉ mất bốn tuần để bài hát vươn lên vị trí số một—bằng một nửa thời gian thông thường để các đĩa đơn lên tới thứ hạng cao nhất.[28] Trong bốn tuần đầu trên bảng xếp hạng Hot 100, ca khúc vươn từ thứ hạng 21 lên 5 tới 2 và cuối cùng là 1. "We Are the World" có thể đã dẫn đầu Hot 100 sớm hơn, nếu không vì thành công của ca khúc "One More Night" của Phil Collins, vốn nhận được sự ủng hộ của một bộ phận đông đảo người yêu nhạc pop và rock.[28] "We Are the World" cũng xuất hiện trên hai bảng xếp hạng khác của Billboard là Top Rock Tracks và Hot Country Singles và vị trí cao nhất của nó trên hai bảng xếp hạng này lần lượt là 27 và 76.[26] Ca khúc cũng trở thành đĩa đơn đầu tiên sau "Let It Be" của The Beatles lọt vào Top 5 của Billboard chỉ sau hai tuần phát hành.[25] Ngoài nước Mỹ, đĩa đơn cũng giành vị trí thứ nhất trên các bảng xếp hạng tại Australia, Pháp, Ireland, Ý, New Zealand, Hà Lan, Na Uy, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Vương quốc Anh và đứng thứ hai tại Áo.[29][30][31][32]

Đĩa đơn cũng là một thành công lớn về thương mại; lô hàng đầu tiên gồm 800.000 bản thu âm "We Are the World" bán hết chỉ sau ba ngày phát hành.[24] Ca khúc trở thành đĩa đơn nhạc pop bán chạy nhất trong lịch sử nước Mỹ.[33] Tại một cửa hàng của Tower Records trên Đại lộ Sunset ở Tây Hollywood, ca khúc đã bán được 1.000 bản chỉ trong hai ngày.[34] Một nhân viên bán hàng tên là Richard Petitpas bình luận, "Một đĩa đơn đứng nhất trên bảng xếp hạng thường chỉ bán được 100 đến 125 bản một tuần. Doanh số như vậy thật sự tôi chưa từng thấy."[34] Đến hết năm 1985, "We Are the World" trở thành đĩa đơn bán chạy nhất của năm.[35] Năm năm sau đó ca khúc đã trở thành đĩa đơn bán chạy nhất thập niên 1980.[36] "We Are the World" trở thành đĩa đơn bán chạy nhất trong lịch sử nước Mỹ cũng như lịch sử nhạc pop.[ct 2][38][39][40] Ca khúc cũng trở thành đĩa đơn đầu tiên trong lịch sử được chứng nhận bạch kim nhiều lần; nhận được chứng nhận 4× của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.[27][41] Doanh số toàn cầu ước tính của "We Are the World" được cho là khoảng 20 triệu.[42]

Mặc dù gặt hái được nhiều thành công về thương mại, nhưng "We Are the World" chỉ nhận được đánh giá trung bình từ các nhà báo, nhà phê bình âm nhạc và công chúng sau khi được phát hành. Nhà báo người Mỹ Greil Marcus cho rằng ca khúc nghe như một bài hát quảng cáo của hãng Pepsi.[43] Ông viết, "... việc lặp đi lặp lại liên tục câu hát 'There's a choice we're making' (Chúng ta đang đứng trước một sự lựa chọn) giống như câu khẩu hiệu của Pepsi 'The choice of a new generation' (Sự lựa chọn của thế hệ mới) ở chỗ, việc ca khúc được viết bởi hai nhạc sĩ đã ký hợp đồng với Pepsi, Michael Jackson và Lionel Richie, rõ ràng không phải là có chủ ý, và thậm chí vượt qua cả ranh giới của sự tình cờ."[43] Marcus nói thêm, "Xét trong bối cảnh này, 'We Are the World' không nói đến Ethiopia nhiều bằng Pepsi—và kết quả thực sự không phải là những người dân Ethiopia sẽ được sống, hay nói chính xác hơn là sẽ được sống lâu hơn, mà là hãng Pepsi sẽ có được câu khẩu hiệu mới cho chiến dịch quảng cáo của họ, được Ray Charles, Stevie Wonder, Bruce Springsteen, và tất cả những người còn lại hát tặng miễn phí."[43] Tác giả Reebee Garofalo đồng tình và bày tỏ quan điểm rằng câu hát "We're saving our own lives" (Chúng ta đang cứu lấy cuộc sống của chính mình) giống như một "biểu hiện của lối sống buông thả đến khó chịu".[43] Ông cho rằng các ca sĩ của USA for Africa đang cho thế giới thấy "sự giúp đỡ của họ bằng cách hát về một vấn nạn mà họ chẳng bao giờ trải qua thay mặt cho những người họ chẳng bao giờ gặp".[43]

Trái ngược với quan điểm trên, Stephen Holden viết cho thời báo The New York Times ca ngợi câu khẩu hiệu "There's a choice we're making, We're saving our own lives" (Chúng ta đang đứng trước một sự lựa chọn, chúng ta đang cứu lấy cuộc sống của chính mình).[3] Ông bình luận rằng câu hát này đã khẳng định "một tầm cao mới của cảm xúc khi được thể hiện bởi những con người với năng lực huyền bí của những ngôi sao".[3] Holden cho rằng ca khúc "đã là một chiến thắng lớn về mặt nghệ thuật và vượt qua cả mục đích ban đầu của nó".[3] Ông lưu ý rằng khác với ca khúc "Do They Know It's Christmas" của Band Aid, các giọng hát trong "We Are the World" được "hoà quyện một cách khéo léo" và thể hiện được các đặc điểm riêng biệt của mỗi ca sĩ.[3] Holden cuối cùng kết luận rằng "We Are the World" là "một bản ballad đơn giản nhưng hùng hồn" và là một "lời tuyên bố bằng nhạc pop xuất sắc ngay cả khi ca sĩ thu âm không phải là các ngôi sao âm nhạc".[3]

Ca khúc trở nên phổ biến cả trong giới thính giả trẻ và thính giả cao tuổi.[22] Công chúng cảm thấy thoả mãn khi được nghe một siêu nhóm nhạc gồm rất nhiều nghệ sĩ hoà giọng trong cùng một bài hát, và thấy hài lòng khi mua các bản thu âm vì biết rằng đồng tiền họ bỏ ra sẽ được dùng để làm những việc có ích.[22] Nhiều người nói rằng họ đã mua từ hai bản trở lên, một số thậm chí còn mua tới năm bản.[44] Một bà mẹ đến từ Columbia, Missouri mua hai bản sao của ca khúc "We Are the World" đã nói rằng, "Ca khúc này thật xuất sắc dù cho nó có được sản xuất ra vì mục đích từ thiện hay không. Thật thú vị khi được nghe và nhận ra giọng của các ca sĩ. Và cảm giác ấy cũng thật tuyệt khi biết rằng bằng cách này tôi đang góp phần giúp đỡ những người đang gặp khó khăn."[22]

Theo nhà phê bình âm nhạc đồng thời là người chắp bút tự truyện của Bruce Springsteen, Dave Marsh, "We Are the World" không được đón nhận rộng rãi trong cộng đồng nhạc rock.[45] Tác giả tiết lộ rằng ca khúc không được coi trọng nó không làm được những gì mong đợi: "một bản thu phong cách rock, một sự phê phán tới chế độ chính trị đã gây ra đói nghèo, một cách để tìm hiểu tại sao nạn đói xảy ra, một sự đại diện đầy đủ cho vầng hào quang trên toàn thế giới của âm nhạc đại chúng thời hậu Presley".[45] Marsh cũng bày tỏ rằng ông thấy một vài lời chỉ trích có lý, trong khi một số khác tỏ ra ngớ ngẩn.[45] Ông cho rằng mặc dù rất tình cảm nhưng "We Are the World" vẫn là một sự kiện pop quy mô lớn với ý nghĩa chính trị quá mức.[45]

Sau khi phát hành, "We Are the World" nhận được một số giải thưởng. Tại lễ trao giải Grammy năm 1986, ca khúc và video âm nhạc kèm theo chiến thắng ở bốn hạng mục: Thu âm của năm, Bài hát của năm, Trình diễn Song ca/Nhóm nhạc giọng pop xuất sắc nhất và Video âm nhạc ngắn hay nhất.[46] Video âm nhạc của bài hát nhận được hai giải thưởng tại Giải Video âm nhạc của MTV năm 1985: Video nhóm hay nhất và Sự lựa chọn của người xem.[47][48] Giải Sự lựa chọn của Công chúng vinh danh "We Are the World" ở hạng mục Bài hát mới được yêu thích năm 1986.[46] Cùng năm đó, Giải thưởng Âm nhạc Mỹ vinh danh "We Are the World" là "Ca khúc của năm", và trao cho nhà tổ chức Harry Belafonte Giải thưởng Đánh giá cao. Khi nhận giải, Belafonte gửi lời cảm ơn tới Ken Kragen, Quincy Jones, và "hai nghệ sĩ, nếu không có món quà tuyệt vời của họ thì chúng tôi đã không thể có được nguồn cảm hứng như chúng tôi đang có bây giờ, ông Lionel Richie và ông Michael Jackson".[46] Sau bài phát biểu trên, phần lớn trong số các nghệ sĩ của USA for Africa đã có mặt và tụ hội trên sân khấu, kết thúc lễ trao giải bằng ca khúc "We Are the World".[46][49]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn vinyl:

  1. "We Are the World" (USA for Africa) – 7:14
  2. "Grace" (Quincy Jones) - 4:56

Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]

"We Are the World" được quảng bá bằng một video âm nhạc đi kèm, một băng video cassette, và một số sản phẩm phụ được bán rộng rãi cho công chúng như sách, áp phích, áo sơ mi và khuy áo.[50][51] Tất cả lợi nhuận từ việc bán các sản phẩm chính thức USA for Africa sẽ được chuyển thẳng tới quỹ giảm thiểu đói nghèo. Hàng hoá đều bán chạy; băng video cassette—có tiêu đề We Are the World: The Video Event—kể lại quá trình sản xuất ca khúc, trở thành băng video bán chạy thứ chín của năm 1985.[50] Băng do Howard G. Malley và Craig B. Golin sản xuất dưới sự giám sát của April Lee Grebb.

Video âm nhạc ghi lại khung cảnh buổi thu âm ca khúc "We Are the World" nhận được một số lời chỉ trích. Michael Jackson nói đùa trước khi ghi hình, "Mọi người sẽ nhận ra tôi ngay khi họ nhìn thấy đôi tất. Thử quay lại đôi tất của Bruce Springsteen xem có ai biết nó là của ai không."[24] Jackson cũng bị chỉ trích vì ghi âm và ghi hình phần solo của anh riêng, tách biệt với các ca sĩ khác. Những người ủng hộ nam ca sĩ giải thích rằng Jackson là một người cầu toàn; thu âm trước những ca sĩ nổi tiếng khác sẽ khiến anh lo lắng và không thể thể hiện hết sức mình được. Anh cũng được mọi người biết đến với tính tình nhút nhát, và việc hát solo trước 44 nghệ sĩ tiếng tăm khác có thể sẽ khiến anh sợ hãi.

Ca khúc cũng được quảng bá bằng một ấn phẩm đặc biệt của tạp chí Life của Mỹ. Tạp chí này cũng là cơ quan truyền thông duy nhất được phép có mặt bên trong phòng thu A&M Recording Studios vào đêm 28 tháng 1 năm 1985. Tất cả các tổ chức truyền thông khác bị ngăn không cho đưa tin về sự kiện cho tới khi và trong khi thu âm "We Are the World". Life giật tít lớn về buổi thu âm trong số ra tháng 4 năm 1985. Ảnh một số ca sĩ tham gia USA for Africa được đăng lên trang bìa: Bob Dylan, Bruce Springsteen, Cyndi Lauper, Lionel Richie, Michael Jackson, Tina Turner và Willie Nelson. Bên trong cuốn tạp chí là hình ảnh các nghệ sĩ tham gia "We Are the World" đang làm việc và nghỉ giữa giờ.[50]

Sau đó cùng năm, "We Are the World" được phát sóng trên radio toàn cầu dưới dạng một buổi phát thanh đồng thời quốc tế. Khi chuẩn bị ca khúc để phát sóng trên đài phát thanh địa phương, hai phát thanh viên của Georgia là Bob Wolf và Don Briscar nảy ra ý tưởng phát sóng ca khúc đồng thời trên toàn cầu.[52] Họ mời hàng trăm đài phát sóng và phát thanh vệ tinh cùng tham gia. Vào sáng ngày 5 tháng 4 năm 1985 (Thứ sáu Tuần Thánh của năm đó) vào lúc 10:25 sáng, hơn 8000 đài phát thanh cùng phát sóng ca khúc trên khắp thế giới, bày tỏ sự ủng hộ việc giảm thiểu nạn đói ở Ethiopia.[27] Khi ca khúc được phát sóng, hàng trăm người đã hát theo trên bậc thềm của Nhà thờ Thánh Patrick ở New York.[44][53] Kế hoạch phát thanh đồng thời ca khúc "We Are the World" được lặp lại vào ngày Thứ sáu Tuần Thánh tiếp theo của năm sau đó.[27]

"We Are the World" tiếp tục được quảng bá và đưa tin trên các phương tiện truyền thông vào ngày 25 tháng 5 năm 1986, khi ca khúc được phát trong thời gian diễn ra một sự kiện gây quỹ quan trọng được tổ chức trên toàn nước Mỹ.[54][55] Hands Across America—dự án tiếp theo của USA for Africa—là một sự kiện trong đó hàng triệu người cùng nắm tay nhau trên khắp nước Mỹ.[56] Sự kiện được tổ chức nhằm thu hút sự chú ý và quan tâm của cộng đồng tới những người đang bị đói và vô gia cư tại Hoa Kỳ.[57] Đồng sáng tác ca khúc "We Are the World", Michael Jackson, muốn ca khúc này trở thành ca khúc chủ đề chính thức của sự kiện. Tuy nhiên các thành viên ban điều hành của USA for Africa đã bỏ phiếu phản đối nam ca sĩ, và sau đó quyết định sẽ cho sáng tác và phát hành một ca khúc khác cho sự kiện có tên gọi "Hands Across America".[46] Khi được phát hành, ca khúc không có được thành công như "We Are the World" từng giành được, và quyết định sử dụng ca khúc mới đó làm ca khúc chủ đề chính thức của sự kiện đã dẫn tới việc Jackson—người đồng giữ quyền phát hành "We Are the World"—từ bỏ chức thành viên ban điều hành của USA for Africa.[46][58]

Hoạt động hỗ trợ nhân đạo[sửa | sửa mã nguồn]

Một máy bay quân sự đang thả thực phẩm cứu trợ trong thời gian diễn ra nạn đói 1984–1985 ở Ethiopia.

Bốn tháng sau khi phát hành "We Are the World", USA for Africa đã thu về được gần 10,8 triệu USD.[59][60] Phần nhiều trong đó đến từ doanh số bán đĩa ở Hoa Kỳ.[59][60] Nhiều người cũng đã ủng hộ bằng tiền—được gần 1,3 triệu USD trong thời gian đó. Tháng 5 năm 1985, các quan chức của USA for Africa ước tính rằng họ đã bán được khoảng từ 45 đến 47 triệu USD hàng hoá chính thức trên khắp thế giới. Nhà tổ chức Ken Kragen tuyên bố rằng họ sẽ không chuyển toàn bộ khoản tiền này cùng một lúc. Thay vào đó, ông tiết lộ rằng quỹ sẽ nghiên cứu tìm ra một giải pháp dài hạn cho các vấn đề của châu Phi.[59] "Chúng tôi có thể sử dụng toàn bộ khoản tiền này ngay lập tức. Có thể chúng tôi sẽ cứu được một số người trong ngắn hạn nhưng điều đó cũng giống như bạn chỉ phủ một lớp băng mỏng lên một vết thương lớn."[59] Kragen lưu ý rằng các chuyên gia đã dự đoán rằng sẽ phải mất ít nhất từ 10 đến 20 năm để có thể tạo ra một chuyển biến nhỏ cho các vấn đề dài hạn của châu Phi.[59]

Tháng 6 năm 1985, máy bay chở hàng đầu tiên của USA for Africa mang theo thực phẩm, thuốc men và quần áo bay tới Ethiopia và Sudan. Nó đỗ lại ở New York để nhập thêm 15.000 áo phông nữa. Trong số hàng cứu trợ này có bánh quy giàu protein và vitamin, thuốc, lều trại, chăn và thiết bị làm lạnh.[61] Harry Belafonte, đại diện cho các nghệ sĩ của USA for Africa, tới thăm Sudan cùng tháng đó. Đây là điểm dừng chân cuối cùng trên chuyến thăm bốn nước của châu Phi của ông. Thủ tướng Tanzania Salim Ahmed Salim đã tới gặp và biểu dương Belafonte, nói với ông rằng, "Cá nhân tôi và toàn thể người dân Tanzania rất xúc động trước biểu hiện rõ nét của tình đoàn kết giữa con người với con người này."[62]

Một năm sau khi "We Are the World" được phát hành, các nhà tổ chức thông báo rằng quỹ nhân đạo của USA for Africa đã gây được 44,5 triệu USD. Họ tỏ ra tin tưởng rằng họ sẽ đạt được mục tiêu ban đầu đề ra là gây quỹ được 50 triệu USD.[63] Đến tháng 10 năm 1986, họ tiết lộ rằng mục tiêu 50 triệu USD đã đạt được và còn đang tiếp tục tăng (tương đương 117 triệu USD vào năm 2022); CBS Records đã chuyển cho USA for Africa một ngân phiếu trị giá 2,5 triệu USD, nâng tổng số tiền gây được lên 51,2 triệu USD.[64] Sự kiện Hands Across America của USA for Africa cũng nhận được một số tiền ủng hộ lớn—khoảng 24,5 triệu USD cho những người đang bị thiếu đói ở Mỹ.[64]

Tính từ khi phát hành, "We Are the World" đã gây quỹ được tổng cộng trên 63 triệu USD cho mục đích nhân đạo.[65] Chín mươi phần trăm số tiền trên đã được sử dụng để hỗ trợ người dân châu Phi, cả ngắn hạn và dài hạn.[64] Các mục tiêu dài hạn bao gồm nỗ lực để kiểm soát tình trạng sinh đẻ và sản xuất thực phẩm. Mười phần trăm còn lại được dành cho các chương trình hỗ trợ những người đang thiếu đói và vô gia cư ở Mỹ.[64] Từ số tiền dành cho châu Phi, hơn 70 dự án phục hồi và phát triển đã được khởi xướng tại bảy quốc gia châu Phi. Các dự án này bao gồm hỗ trợ nông nghiệp, đánh bắt cá, quản lý nước, sản xuất và trồng rừng. Các chương trình đào tạo cũng được tổ chức tại các quốc gia châu Phi bao gồm Mozambique, Senegal, Chad, Mauritania, Burkina Faso và Mali.[64]

Elias Kifle Maraim Beyene, một người sống sót sau nạn đói ở Ethiopia nhớ lại: "Tôi sẽ không bao giờ quên Michael Jackson bởi những đóng góp của anh với ca khúc We Are the World có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời tôi. Rất nhiều người đã đổ bệnh và nhiều người khác thiệt mạng(...). Năm 1984 Michael Jackson, cùng với nhiều ca sĩ hàng đầu khác, đã thực hiện ca khúc We Are the World để gây quỹ hỗ trợ châu Phi. Chúng tôi đã nướng một chiếc bánh đặc biệt từ khoản tiền ấy(...). Khi bạn phải trải qua những thời khắc khó khăn như vậy bạn sẽ không bao giờ quên những sự kiện như thế. Nếu bạn nói chuyện với một người đã từng ở Addis Ababa thời đó họ đều biết Chiếc bánh mì Michael là gì và tôi sẽ nhớ tới nó cho đến hết cuộc đời mình.(...)" [67]

Biểu diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]

"We Are the World" đã được các thành viên của USA for Africa biểu diễn trực tiếp trong một số dịp, cả theo nhóm và từng cá nhân. Một trong những buổi biểu diễn như vậy đầu tiên là vào năm 1985, trong đêm nhạc rock Live Aid, với hơn 100 nghệ sĩ hát trực tiếp trên sân khấu.[68][69] Harry Belafonte và Lionel Richie tới dự bất ngờ màn trình diễn live này của ca khúc.[70] Michael Jackson đáng lẽ cũng đã tham gia cùng các nghệ sĩ khác, nhưng lúc đó anh đang "chạy đua với thời gian trong phòng thu để hoàn thành một dự án mà anh đã cam kết tham gia", theo lời đại diện trả lời báo chí của Jackson, Norman Winter.[71]

Một buổi lễ nhậm chức được tổ chức của Tổng thống mới đắc cử của Hoa Kỳ Bill Clinton vào tháng 1 năm 1993.[72] Sự kiện được dàn dựng bởi những người bạn ở Hollywood của Clinton tại Đài tưởng niệm Lincoln và thu hút sự có mặt của hàng trăm nghìn người.[72] Aretha Franklin, LL Cool J, Michael Bolton và Tony Bennett là một vài trong số những ca sĩ có mặt hôm đó.[72][73] Jones nói, "Tôi chưa từng thấy nhiều nghệ sĩ nổi tiếng đến vậy, tham gia cùng nhau với tình yêu và sự hoà đồng đến như thế."[74] Buổi lễ có tiết mục "We Are the World", với sự tham gia của Clinton, con gái ông Chelsea, và vợ ông Hillary cùng hát vang ca khúc với các nghệ sĩ Kenny Rogers, Diana Ross và Michael Jackson của USA for Africa.[72] Edward Rothstein của tờ The New York Times bình luận về sự kiện này và nói rằng, "Hình ảnh đáng nhớ nhất có lẽ là của Ngài Clinton hát theo ca khúc 'We Are the World', vị Tổng thống đầu tiên khao khát theo kịp trào lưu [âm nhạc], dù không được."[75]

Michael Jackson thể hiện ca khúc "We Are the World" dưới dạng một đoạn video dạo đầu ngắn trước tiết mục Heal the World của anh trong hai trên ba tour diễn vòng quanh thế giới, đó là tour diễn Dangerous World Tour từ năm 1992 đến 1993 (các buổi biểu diễn năm 1993 kéo dài phần dạo đầu này bằng phần thể hiện ca khúc của một số ca sĩ dự phòng trước khi video được phát) và tour diễn HIStory World Tour từ năm 1996 đến 1997. Anh dự định sẽ biểu diễn ca khúc trong các buổi hoà nhạc This Is It đánh dấu sự trở lại của anh tại Đấu trường O2 ở Luân Đôn trong năm 2009 và 2010 với các ca sĩ hát hỗ trợ của mình cùng nghệ sĩ guitar: Orianthi Panagaris.

Michael Jackson qua đời vào tháng 6 năm 2009 do ngưng tim.[76] Lễ tang của anh được tổ chức vài ngày sau đó vào ngày 7 tháng 7, nhiều nguồn tin cho rằng buổi lễ đã được trên một tỷ người trên khắp thế giới theo dõi.[77] Kết thúc buổi lễ là các tiết mục đồng ca của hai ca khúc tên tuổi của Jackson, "We Are the World" và "Heal the World".[78] Darryl Phinnessee chỉ đạo phần trình diễn ca khúc "We Are the World", ông đã gắn bó và làm việc với Jackson từ cuối thập niên 1980.[78][79] Tiết mục này cũng có sự tham gia của người đồng sáng tác Lionel Richie và gia đình của Jackson, bao gồm cả các con anh.[78][79] Sau buổi biểu diễn này, "We Are the World" một lần nữa lọt vào các bảng xếp hạng Hoa Kỳ, lần đầu tiên kể từ khi ca khúc được phát hành năm 1985. Bài hát đứng ở vị trí thứ 50 trên bảng xếp hạng Hot Digital Songs của Billboard.[80]

25 for Haiti[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong hàng trăm nghìn người thiệt mạng hoặc bị thương trong trận động đất ở Haiti.

Ngày 12 tháng 1 năm 2010, một trận động đất mạnh 7,0 MW (tương đương 7,0 độ Richter) xảy ra tại Haiti và là trận động đất mạnh nhất xảy ra tại quốc gia này trong hơn 200 năm qua.[81] Tâm chấn của trận động đất nằm ngay bên ngoài thủ đô của Haiti là Port-au-Prince.[82] Hơn 230.000 người được chính phủ Haiti xác nhận đã thiệt mạng do thảm hoạ và khoảng 300.000 người bị thương. Khoảng 1,2 triệu người bị mất nhà cửa và việc thiếu chỗ ở tạm thời được cho là sẽ dẫn tới bùng nổ nhiều dịch bệnh.[83][84]

Để quyên góp tiền ủng hộ cho các nạn nhân của trận động đất, một phiên bản mới của "We Are the World" quy tụ các ngôi sao nổi tiếng trong ngành giải trí được thu âm vào ngày 1 tháng 2 năm 2010 và phát hành vào ngày 12 tháng 2 năm 2010. Hơn 75 nghệ sĩ đã đến tham gia buổi thu âm mới được tổ chức tại chính phòng thu nơi bản thu gốc được thu âm vào năm 1985.[85] Phiên bản mới có sửa đổi đôi chỗ ở phần lời ca và bổ sung một đoạn rap nói về Haiti.[85][86] Em gái của Michael Jackson là Janet có màn song ca với em trai của mình trong bài hát, theo yêu cầu của mẹ Jackson là bà Katherine. Trong cả bài hát và băng video, tư liệu lưu trữ về Michael Jackson khi sản xuất bản thu năm 1985 cũng đã được sử dụng.[87]

Ngày 20 tháng 2 năm 2010, một phiên bản khác không phải do những ngôi sao nổi tiếng thực hiện có tên gọi "We Are the World 25 for Haiti (phiên bản YouTube)", được đăng trên website chia sẻ video YouTube. Ca sĩ-nhạc sĩ và nhân vật Internet Lisa Lavie đã lên ý tưởng và tổ chức buổi cộng tác trực tuyến với 57 nghệ sĩ tự do và nghệ sĩ độc lập trên YouTube đến từ khắp nơi trên thế giới. Phiên bản YouTube năm 2010 của Lavie, bản hát lại của ca khúc gốc năm 1985, bỏ đoạn rap và giảm thiểu tối đa hiệu ứng của thiết bị Auto-tune, vốn là hai thành phần đã làm nên điểm khác biệt của phiên bản hát lại 2010 do những ngôi sao nổi tiếng thực hiện.[88] Một phiên bản hát lại khác cũng ra mắt năm 2010 là ca khúc "Somos El Mundo" bằng tiếng Tây Ban Nha. Bài hát do Emilio Estefan và vợ ông là Gloria Estefan sáng tác, và do Emilio, Quincy Jones và Univision Communications, công ty tài trợ cho dự án này.[89]

Giá trị[sửa | sửa mã nguồn]

"We Are the World" được công nhận là một bài hát có ý nghĩa chính trị quan trọng, đã "tập trung sự chú ý chưa từng có của quốc tế tới các vấn đề tại châu Phi",[43] và tạo ra một xu thế chung để các nghệ sĩ trên toàn thế giới noi theo.[43] Theo nhà báo Stephen Holden viết cho tờ The New York Times, kể từ khi "We Are the World" được phát hành, đã có những cuộc vận động trong giới làm âm nhạc đại chúng để cổ động việc sáng tác các ca khúc đề cập tới những vấn đề nhân đạo.[90] "We Are the World" cũng có ảnh hưởng tới cách sáng tác âm nhạc và ý nghĩa lời ca, cho thấy rằng các nghệ sĩ với phong cách âm nhạc và chủng tộc khác nhau có thể cùng hợp tác một cách sáng tạo và hiệu quả.[45] Tạp chí Ebony miêu tả buổi thu âm tối ngày 28 tháng 1 mà Quincy Jones đã tập hợp được một nhóm nhạc gồm các nghệ sĩ thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, là "một giây phút quan trọng của âm nhạc thế giới đã cho thấy rằng cùng nhau chúng ta có thể thay đổi thế giới".[91] "We Are the World", cùng với các đêm nhạc Live Aid và Farm Aid, đã cho thấy rằng nhạc rock không chỉ đơn thuần là một phương tiện giải trí, mà còn có thể trở thành một cuộc vận động chính trị và xã hội.[92] Nhà báo Robert Palmer lưu ý rằng những ca khúc và sự kiện như vậy có khả năng lan toả tới mọi người khắp nơi trên thế giới, gửi tới họ một thông điệp, và mang lại nhiều kết quả.[92]

Sau "We Are the World", đã có nhiều ca khúc được thu âm theo hình thức tương tự, nhằm mục đích hỗ trợ các nạn nhân của đói nghèo trên khắp toàn cầu. Một ví dụ điển hình là siêu nhóm nhạc gồm các nghệ sĩ Latin tự xưng là "Hermanos del Tercer Mundo", hay "Brothers of the Third World" (Những người anh em của thế giới thứ ba). Trong siêu nhóm nhạc này có các ca sĩ Julio Iglesias, José Feliciano và Sérgio Mendes. Ca khúc về đề tài giảm thiểu đói nghèo của họ được thu âm trong cùng phòng thu với "We Are the World". Một nửa lợi nhuận thu được từ đĩa đơn từ thiện này được chuyển tới quỹ của USA for Africa. Số tiền còn lại được dùng giúp đỡ các quốc gia Mỹ Latinh đang gặp khó khăn.[93]

Lễ kỉ niệm 20 năm ra mắt "We Are the World" được tổ chức vào năm 2005. Các đài phát thanh trên toàn thế giới thể hiện sự cảm phục với ca khúc của Michael Jackson, Lionel Richie và siêu ban nhạc USA for Africa bằng việc cùng nhau phát sóng đồng thời ca khúc từ thiện này. Cùng với buổi phát sóng đó, dấu mốc 20 năm còn được đánh dấu bằng việc phát hành bộ 2 đĩa DVD có tên gọi We Are the World: The Story Behind the Song (We Are the World: Câu chuyện phía sau ca khúc).[94] Ken Kragen phát biểu rằng lý do tổ chức buổi phát thanh đồng thời và phát hành đĩa DVD không phải là để USA for Africa tự khen mình vì đã làm được điều kỳ diệu, mà là "để quyên góp thêm [cho quỹ từ thiện]. Đó là tất cả lý do để chúng tôi thực hiện việc này."[94] Harry Belafonte cũng bình luận về lễ kỉ niệm 20 năm quả ca khúc. Nhà làm giải trí này khẳng định "We Are the World" đã "đứng vững trước thử thách của thời gian"; tất cả những ai đã sống trong thời kỳ ấy bây giờ ít nhất đều có thể ngâm nga theo giai điệu của ca khúc.[95]

Xếp hạng và chứng nhận doanh số[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm:
"Tears Are Not Enough" bởi Northern Lights
Đĩa đơn quán quân
tại Canada

4 tháng 5–18 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Crazy for You" bởi Madonna
Tiền nhiệm:
"Nightshift" bởi Commodores
Đĩa đơn quán quân
tại Hà Lan

20 tháng 4 – 25 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Don't You (Forget About Me)" bởi Simple Minds
Tiền nhiệm:
"Johnny, Johnny" bởi Jeanne Mas
Đĩa đơn quán quân
tại Pháp

5 tháng 5–19 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Chanteurs sans Frontières" bởi Éthiopie
Tiền nhiệm:
"Shout" bởi Tears for Fears
Đĩa đơn quán quân
tại New Zealand

19 tháng 4 – 31 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Everybody Wants to Rule the World" bởi Tears for Fears
Tiền nhiệm:
"You Spin Me Round (Like a Record)" bởi Dead or Alive
Đĩa đơn quán quân
tại Thụy Sĩ

5 tháng 5 – 9 tháng 6 năm 1985
Kế nhiệm:
"19" bởi Paul Hardcastle
Tiền nhiệm:
"I Should Have Known Better" bởi Jim Diamond
Đĩa đơn quán quân
tại Úc

8 tháng 4 – 3 tháng 6 năm 1985
Kế nhiệm:
"Would I Lie to You?" bởi Eurythmics
Tiền nhiệm:
"Easy Lover" bởi Philip Bailey và Phil Collins
Đĩa đơn quán quân
tại Liên hiệp Anh

20 tháng 4–27 tháng 4 năm 1985
Kế nhiệm:
"Move Closer" bởi Phyllis Nelson
Tiền nhiệm:
"One More Night" bởi Phil Collins
Đĩa đơn quán quân
Billboard Hot 100

13 tháng 4 – 4 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Crazy for You" bởi Madonna
Tiền nhiệm:
"Rhythm of the Night" bởi DeBarge
Đĩa đơn quán quân
Billboard Hot Black

4 tháng 5–11 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Fresh" bởi Kool & the Gang
Tiền nhiệm:
"One More Night" bởi Phil Collins
Đĩa đơn quán quân
Billboard Adult Contemporary

20 tháng 4–27 tháng 5 năm 1985
Kế nhiệm:
"Rhythm of the Night" bởi DeBarge

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nạn đói 1984–1985 ở Ethiopia
  • Band Aid
  • Do They Know It's Christmas?
  • Live Aid
  • USA For Africa
  • The Music for UNICEF Concert: A Gift of Song (1979)
  • "Chiquitita", một ca khúc của ABBA năm 1979 biểu diễn trong đêm nhạc trên, đến thế kỷ 21 vẫn tiếp tục quyên góp được cho quỹ UNICEF.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "We Are the World" sau này được coi là câu trả lời của người Mỹ trước ca khúc "Do They Know It's Christmas" của Band Aid.[3]
  2. ^ Phiên bản năm 1997 của ca khúc "Candle in the Wind" do Elton John thể hiện—để tưởng nhớ Công chúa Diana—sau đó đã giành ngôi vị đĩa đơn nhạc pop bán chạy nhất mọi thời đại.[37]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Taraborrelli, tr. 341
  2. ^ Harden, Blaine (ngày 14 tháng 9 năm 1987). “Ethiopia Faces Famine Again, Requests Massive Food Relief”. The Washington Post. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2009.
  3. ^ a b c d e f g h Holden, Stephen (ngày 27 tháng 2 năm 1985). “The pop life; artists join in effort for famine relief”. The New York Times. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  4. ^ Taylor, Jonathan (ngày 17 tháng 3 năm 1985). “A hit with a heart: 'We Are the World' buoyed by brisk sales and curiosity”. Chicago Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2009.
  5. ^ a b c d Taraborrelli, tr. 342
  6. ^ a b c Campbell, tr. 109
  7. ^ a b Campbell, tr. 110
  8. ^ Breskin, tr. 2
  9. ^ a b c d e f g h i j k Breskin, tr. 3
  10. ^ Breskin, tr. 5–6
  11. ^ a b We Are the World tune brings out the best of America's 46 stars. Jet. ngày 18 tháng 2 năm 1985. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  12. ^ a b “Prince”. CNN. ngày 20 tháng 12 năm 1999. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  13. ^ Parks, Kyle (ngày 5 tháng 4 năm 1985). “Only a bad album could dethrone Prince”. The Evening Independent. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  14. ^ “African relief”. The Gainesville Sun. ngày 30 tháng 1 năm 1985. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  15. ^ Taraborrelli, tr. 343
  16. ^ a b Davis, tr. 174
  17. ^ a b c d Breskin, tr. 6
  18. ^ a b c d Cagle, Jess (ngày 24 tháng 1 năm 1992). “They Were the World”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  19. ^ a b c d Breskin, tr. 7
  20. ^ Michael Jackson and Lionel Richie's song earns millions for charity. Jet. ngày 8 tháng 4 năm 1985. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2009.
  21. ^ Braheny, tr. 18
  22. ^ a b c d e f Bodus, Tom (ngày 29 tháng 3 năm 1985). “Famine-aid song sells well locally”. Columbia Missourian.
  23. ^ a b c d e Marsh, tr. 518
  24. ^ a b c Taraborrelli, tr. 344
  25. ^ a b “We Are the World”. Columbia Missourian. ngày 10 tháng 4 năm 1985.
  26. ^ a b c d e f g George, tr. 41
  27. ^ a b c d Campbell, tr. 113
  28. ^ a b DeKnock, Jan (ngày 17 tháng 4 năm 1985). “'World' rules the charts”. The Ledger.
  29. ^ “Ultratop Singles Chart Archives”. ultratop.be. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2009.
  30. ^ a b “Irish Singles chart – Searchable database”. Irishcharts.ie. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2011.
  31. ^ a b “SINGOLI – I NUMERI UNO (1959–2006) (parte 3: 1980–1990)”. It-Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2011.
  32. ^ “USA for Africa – Dutch Top 40 Chart”. top40.nl. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2011.
  33. ^ Bennett, Robert A. (ngày 29 tháng 12 năm 1985). “Whoever dreamed that up?”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  34. ^ a b Worrell, Denise (ngày 25 tháng 3 năm 1985). “Forty-Five Voices”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  35. ^ “American Music Award nominees named”. Daily News of Los Angeles. ngày 4 tháng 1 năm 1986. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2009.
  36. ^ Holden, Stephen (ngày 3 tháng 12 năm 1989). “A Pop Virtuoso Who Can Do It All”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  37. ^ Beatts, Anne (ngày 12 tháng 10 năm 1997). “If It's a Hit, Why Stop There?”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2009.
  38. ^ Ruhlmann, William. “Bob Geldof biography”. MTV. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  39. ^ Pareles, Jon (ngày 27 tháng 8 năm 1989). “In Pop, Whose Song Is It, Anyway?”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  40. ^ Andrews, Edmund L. (ngày 5 tháng 6 năm 1995). “Listen Up! Quincy Jones Has a New Gig”. The New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  41. ^ Popson, Tom (ngày 31 tháng 1 năm 1986). “Pointers, Prince and Pavarotti in platinum parade”. Chicago Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2009.
  42. ^ Breznican, Anthony (ngày 30 tháng 6 năm 2009). “The many faces of Michael Jackson”. USA Today. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  43. ^ a b c d e f g Garofalo, tr. 29
  44. ^ a b @#!*%, Jay (ngày 22 tháng 4 năm 1985). “Strike Up the Bandwagon We Are the World Raises Money, Spirits”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  45. ^ a b c d e Marsh, tr. 519
  46. ^ a b c d e f Campbell, tr. 114–115
  47. ^ “MTV Video Music Awards 1985”. MTV. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  48. ^ DiPerio, Diane D. (ngày 16 tháng 9 năm 1985). “MTV Video Awards”. The Daily Collegian. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  49. ^ Da Atley, Richard (ngày 29 tháng 1 năm 1986). “Awards honor year of charity”. The Daily Collegian. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  50. ^ a b c Campbell, tr. 112
  51. ^ May, Clifford D. (ngày 27 tháng 6 năm 1985). “Belafonte learns answers aren't easy”. The Ledger. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2009.
  52. ^ The Associated Press. “We are the Wold to be Played Worldwide”. The Associated Press. The Associated Press. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2014.
  53. ^ “Fifth Avenue Singalong Supports Relief Effort”. The New York Times. ngày 6 tháng 4 năm 1985. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2009.
  54. ^ “Hands”. The Evening Independent. ngày 23 tháng 5 năm 1986. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  55. ^ Hewett, Jenni (ngày 27 tháng 5 năm 1986). “A 15-minute handshake for the US”. The Sydney Morning Herald.
  56. ^ “Hunger song profits exceed expectation”. Spokane Chronicle. ngày 9 tháng 10 năm 1986. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  57. ^ Steinbreder, John (ngày 25 tháng 11 năm 1985). “Altruistic marketing”. Fortune. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  58. ^ Campbell, tr. 116
  59. ^ a b c d e Glave, Judie (ngày 17 tháng 5 năm 1985). “USA for Africa readies for first mercy mission”. The Gainesville Sun. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  60. ^ a b “Record's first profits will go to the hungry”. The New York Times. ngày 19 tháng 5 năm 1985. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  61. ^ “Music group sends supplies”. The New York Times. ngày 11 tháng 6 năm 1985. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  62. ^ “Belafonte visits Sudan”. Wilmington Morning Star. ngày 22 tháng 6 năm 1985. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  63. ^ “USA for Africa nears goal”. St. Petersburg Times. ngày 10 tháng 3 năm 1986.
  64. ^ a b c d e Wilson, Jeff (ngày 9 tháng 10 năm 1986). “'We Are the World' passes goal; states getting 'Hands' money”. The Gainesville Sun. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  65. ^ Clark, Cindy (ngày 28 tháng 7 năm 2006). “Moments of sex, drugs and rock 'n' roll”. USA Today. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  66. ^ “Jackson death: Global fans' reaction”. BBC News. ngày 26 tháng 6 năm 2009.
  67. ^ Kutner, Michael (ngày 22 tháng 7 năm 1985). “Live Aid”. The Daily Collegian. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  68. ^ Linder, Lee (ngày 14 tháng 7 năm 1985). “Live Aid touches hearts, pockets”. The Gainesville Sun. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  69. ^ Palmer, Robert (ngày 15 tháng 7 năm 1985). “Live Aid provided reunions of 60's bands”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  70. ^ “Michael Jackson project kept him from concert”. The New York Times. ngày 17 tháng 7 năm 1985. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  71. ^ a b c d Apple, R. W. (ngày 18 tháng 1 năm 1993). “A Grand Beginning; Inaugural Week Begins With Pomp and Populism”. The New York Times. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  72. ^ Pareles, Jon (ngày 19 tháng 1 năm 1993). “A Musical Smorgasbord; 2 Concerts Gel Sounds Of America”. The New York Times. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  73. ^ Archerd, Army (ngày 18 tháng 1 năm 1993). “Jones says 'Whoopi' as comic comes to rescue - Entertainment News, Army Archerd, Media”. Variety. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2011.
  74. ^ Rothstein, Edward (ngày 14 tháng 2 năm 1993). “Vox Pop, The Sound Of Politics”. The New York Times. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009.
  75. ^ “Singer Michael Jackson dead at 50-Legendary pop star had been preparing for London comeback tour”. MSNBC. ngày 25 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  76. ^ Harris, Chris (ngày 7 tháng 7 năm 2009). “Who Is Michael Jackson Memorial Performer Shaheen Jafargholi?”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  77. ^ a b c Anderson, Kyle (ngày 8 tháng 7 năm 2009). “Who Sang 'We Are The World' At Michael Jackson Memorial?”. MTV. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  78. ^ a b Powers, Anne (ngày 7 tháng 7 năm 2009). “Michael Jackson memorial: 'We Are the World,' 'Who's Lovin' You' and the final performances”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  79. ^ Trust, Gary (ngày 16 tháng 7 năm 2009). “'We are the World' in charts after Jackson tribute”. Reuters. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  80. ^ “Magnitude 7.0 – Haiti Region”. United States Geological Survey. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010.
  81. ^ “Major earthquake off Haiti causes hospital to collapse”. London: The Daily Telegraph. ngày 12 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010.
  82. ^ “Haiti quake death toll rises to 230,000”. BBC News. ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2010.
  83. ^ McFeely, Dan (ngày 6 tháng 3 năm 2010). “Purdue researchers saw potential for Haitian earthquake”. The Indianapolis Star.
  84. ^ a b Duke, Alan (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “Stars gather for 'We Are the World' recording”. CNN. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  85. ^ Gunderson, Edna (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “New voices unite for 'We Are the World'”. USA Today. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2010.
  86. ^ Gundersen, Edna (ngày 14 tháng 2 năm 2010). “Quincy Jones, Lionel Richie pass 'We Are the World' baton”. USA Today. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2010.
  87. ^ Josh Levs, CNN, "YouTube Singers Rock for Haiti" (6 tháng 3 năm 2010); Josh Levs, CNN, "YouTubers do 'We Are the World'" (7 tháng 3 năm 2010); Rosemary Church, CNN International, "We Are the World, part two", (20 tháng 3 năm 2010). Văn bản của các chương trình và video của CNN có thể xem tại "CNN SATURDAY MORNING NEWS" (6 tháng 3 năm 2010), "CNN NEWSROOM" (6 tháng 3 năm 2010), và "CNN SUNDAY MORNING" (7 tháng 3 năm 2010).
  88. ^ Cobo, Leila, "50 Latin Stars Gather to Record 'Somos El Mundo'", Billboard.com, 22 tháng 2 năm 2010 (truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2010).
  89. ^ Holden, Stephen (ngày 27 tháng 12 năm 1987). “Pop for Grown-Ups Gathers Momentum”. The New York Times. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  90. ^ Black music. Ebony. tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  91. ^ a b Palmer, Robert (ngày 26 tháng 12 năm 1985). “Politics and a crossbreeding of forms were the trend”. The Spokesman-Review. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  92. ^ “Latin stars sing for hungry”. Columbia Missourian. ngày 10 tháng 4 năm 1985.
  93. ^ a b Lewis, Randy (ngày 28 tháng 1 năm 2005). “Stations pay tribute to 'We Are the World'”. The Boston Globe. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  94. ^ Gangel, Jamie (ngày 5 tháng 2 năm 2005). “'We Are the World' song celebrates 20 years”. MSNBC. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  95. ^ "Austriancharts.at – USA For Africa – We Are the World" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40.
  96. ^ "Ultratop.be – USA For Africa – We Are the World" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50.
  97. ^ RPM “Adult Contemporary: ngày 18 tháng 5 năm 1985”. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2010.
  98. ^ “RPM Top Singles: ngày 4 tháng 5 năm 1985”. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2010.
  99. ^ "USA For Africa: We Are the World" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  100. ^ "Lescharts.com – USA For Africa – We Are the World" (bằng tiếng Pháp). Les classement single.
  101. ^ "Musicline.de – USA For Africa Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH.
  102. ^ "Nederlandse Top 40 – USA For Africa" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40.
  103. ^ "Charts.nz – USA For Africa – We Are the World". Top 40 Singles.
  104. ^ "Norwegiancharts.com – USA For Africa – We Are the World". VG-lista.
  105. ^ John Samson. “We are the world in South African Chart”. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  106. ^ Salaverri, Fernando (tháng 9 năm 2005). Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 (ấn bản 1). Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  107. ^ "Swedishcharts.com – USA For Africa – We Are the World". Singles Top 100.
  108. ^ "Swisscharts.com – USA For Africa – We Are the World". Swiss Singles Chart.
  109. ^ a b c d e “USA for Africa awards on Allmusic”. Allmusic. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2013.
  110. ^ “Canada single certifications – USA for Africa – We Are the World”. Music Canada.
  111. ^ a b “Finland single certifications – USA For Africa – We Are the World” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  112. ^ “France single certifications – We Are the World” (bằng tiếng Pháp). InfoDisc.
  113. ^ “Les Singles de Platine:” (bằng tiếng Pháp). Infodisc.fr. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2012.
  114. ^ “Italy single certifications – U.S.A. for Africa – We Are the World” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Chọn "2014" trong bảng chọn "Anno". Nhập "We Are the World" vào ô "Filtra". Chọn "Singoli online" dưới phần "Sezione".
  115. ^ “List of best-selling international singles in Japan”. JP&KIYO. 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2014.
  116. ^ “Britain single certifications – USA for Africa – We Are the World” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Silver trong nhóm lệnh Certification. Nhập We Are the World vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter
  117. ^ “American single certifications – USA for Africa – We Are the World” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
Sách tham khảo
  • Braheny, John (2006). The Craft and Business of Songwriting. Writer's Digest Books. ISBN 1-58297-466-7.
  • Breskin, David (2004). Sách bỏ túi We Are the World: The Story Behind the Song. Image Entertainment, Inc.
  • Campbell, Lisa (1993). Michael Jackson: The King of Pop. Branden. ISBN 0-8283-1957-X.
  • Davis, Sharon (2006). Stevie Wonder: Rhythms of Wonder. Robson. ISBN 1-86105-965-5.
  • Garofalo, Reebee (1992). Rockin' the Boat. South End Press. ISBN 0-89608-427-2.
  • George, Nelson (2004). Sách bỏ túi Michael Jackson: The Ultimate Collection. Sony BMG.
  • Marsh, Dave (2004). Bruce Springsteen: Two Hearts. Routledge. ISBN 0-415-96928-X.
  • Taraborrelli, J. Randy (2004). The Magic and the Madness. Terra Alta, WV: Headline. ISBN 0-330-42005-4.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • We Are the World (song by Jackson and Richie) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  • Trang chính thức của USA for Africa
  • Trang chính thức Lưu trữ 2010-02-14 tại Wayback Machine của "We Are the World 25 for Haiti"
  • Video âm nhạc chính thức "We Are the World" trên kênh của Lionel Richie trên YouTube
  • Video âm nhạc chính thức "We Are the World 25 for Haiti" trên YouTube

Với hơn 300 ngày, ÷ tour của Ed Sheeran là chuyến lưu diễn buổi hòa nhạc có doanh thu cao nhất mọi thời đại, không được điều chỉnh cho lạm phát.

Đây là một danh sách không đầy đủ của các tour du lịch buổi hòa nhạc có doanh thu cao nhất. Chỉ các tour du lịch sử dụng các tài liệu tham khảo đáng tin cậy và đã thu về hơn 100 đô la & nbsp; triệu (điều chỉnh cho lạm phát) đã được thêm vào danh sách. Một số tổng doanh thu có thể cao hơn so với báo cáo trong danh sách này vì không phải tất cả các buổi hòa nhạc được báo cáo. Billboard và Pollstar thường xuyên cung cấp con số chính thức về tổng doanh thu của các buổi hòa nhạc trên toàn thế giới.

Các tour du lịch kéo dài nhiều thập kỷ được bao gồm trong thập kỷ mà họ kết thúc.

Đời đi táo bạo, các tour du lịch, khi hoàn thành, trở thành người có doanh thu cao nhất mọi thời đại.bold, the tours which, when completed, became the highest-grossing of all time.

Các tour du lịch có doanh thu cao nhất [Chỉnh sửa][edit]

  • Chuyến lưu diễn 360 ° của U2 là chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất của một nhóm và giữ kỷ lục mọi thời đại từ năm 2011 đến 2019, trước khi bị vượt qua bởi ÷ tour của Ed Sheeran. Được điều chỉnh cho lạm phát, nó vẫn là tour du lịch có doanh thu cao nhất trên toàn thế giới.

Danh sách 20 tour du lịch có doanh thu cao nhất hàng đầu (theo tổng thực tế, không được điều chỉnh theo lạm phát) mọi thời đại
Thứ hạngTổng thực tếTổng điều chỉnh cho lạm phát (2022 $)
(2022 $)
Họa sĩTên tour du lịchNămtrình diễnSự tham dựTổng doanh thu trung bình cho mỗi chương trình (hàng triệu)(millions)Tham dự trung bình cho mỗi chương trìnhRef.
1 $776,200,000 $822,672,992 Ed Sheeran Tour du lịch 2017 201719 255 8,796,567 $3.04 34,496 [1] [2] [3] [4] [5]
2 $736,421,584 $887,082,982 U2 U2 360 ° Tour 200911 110 7,272,046 $6.69 66,110
3 $ 584,200,000 $ 619,177,483 Guns n 'Roses Không phải trong cuộc đời này ... tour du lịch 2016 201619 158 5,371,891 $ 3,7 33,999 [6]
4 $558,255,524 $729,557,813 Những hòn đá lăn Một tour du lịch nổ lớn hơn 2005 Từ07 147 4,680,000 $3.8 31,837 [7]
5 $ 546,515,799 $ 579,237,036 Những hòn đá lăn Không có chuyến tham quan lọc 2017 20152021 58 2,867,799 $ 9,42 49,445 [số 8]
6 $ 523,033,675 $ 590,552,304 Coldplay Một tour du lịch đầy những giấc mơ 2016 201617 114 5,389,586 $ 4,59 47,277 [9]
7 $ 458,673,798 $ 533,568,677 Roger Waters Bức tường sống 20101313 219 4,129,863 $ 2,09 18,858 [10]
8 $ 441.121.000 $ 548,153,259 AC/DC Chuyến tham quan thế giới băng đen 20081010 167 4,846,965 $ 2,64 29,024 [11] [12] [13]
9 $ 416,900,000 $ 441,860,823 METALLICA Chuyến tham quan toàn thế giới 2016 20162019 128 4,055,397 $ 3,26 31,683 [14][15]

[16][17]

10 411.000.000 đô la $ 519,120,987 Madonna Tour du lịch dính và ngọt ngào 2008 85 3,545,899 $ 4,84 41,716 [18] [19]
11 $ 397,300,000 $ 421,087,323 Hồng Tour du lịch thế giới chấn thương tuyệt đẹp 20181919 156 3,088,647 $ 2,55 19,799 [20]
12 $ 390,778,581 $ 431,999,726 U2 Joshua Tree Tours 2017 và 2019 2017, 2019 66 3,279,712 $ 5,92 49,693 [21] [22] [23]
13 $ 389,047,636 $ 522,947,326 U2 Chuyến tham quan Vertigo 2005 Từ06 131 4,619,021 $ 2,97 35,260 [24]
14 $ 367,700,000 $ 396,035,118 Bruno Mars Chuyến tham quan thế giới ma thuật 24K 2017 201718 204 3,298,583 $ 1,8 16,170 [1] [2]
15 $ 364,300,000 $ 393,121,508 Garth Brooks và Trisha Yearwood Tour diễn thế giới 2014 201417 390 6,443,727 $ 0,93 16,522 [25] [26] [27] [28]
16 $ 362.000.000 $ 455,605,255 Cảnh sát Chuyến tham quan cảnh sát đoàn tụ 2007 200708 143 3,300,912 $ 2,53 23,083 [29]
17 $ 358,600,000 $ 380,070,259 Elton John Chia tay đường gạch vàng 2018 hiện tại 178 2,630,000 $ 2,01 14,775 [30]
18 $ 355,600,000 $ 449,147,014 Bruce Springsteen và The E Street Band Wrecking Ball World Tour 20121313 136 3,650,535 $ 2,61 26,842 [31] [32]
19 $ 345,700,000 $ 373,049,973 Taylor Swift Chuyến tham quan Sân vận động Danh tiếng của Taylor Swift 2018 53 2,888,892 $ 6,52 54,507 [33] [34]
20 $320,000,000 $569,067,482 Những hòn đá lăn Một tour du lịch nổ lớn hơn 2005 Từ07 124 6,336,776 $2.58 51,103 [7]

$ 546,515,799[edit]

1980s[edit][edit]

$ 579,237,036
Thứ hạngTổng thực tếNhững hòn đá lăn
(adjusted 2022 gross)
Họa sĩTên tour du lịchNămtrình diễnSự tham dựKhông có chuyến tham quan lọc
gross (millions)
2017 20152021
attendance
Ref.
1 $135,000,000 $295,115,436 $ 9,42 [số 8] $ 523,033,675 197 5,500,000 $0.69 27,919
2 $125,738,964 $288,095,775 $ 590,552,304 Coldplay $ 523,033,675 123 4,498,300 $1.02 36,572 $ 590,552,304
3 Coldplay Một tour du lịch đầy những giấc mơ Những hòn đá lăn Không có chuyến tham quan lọc 1989 57 3,268,722 2017 20152021 57,346 $ 9,42
4 $86,000,000 $205,125,366 [số 8] $ 523,033,675 1987 86 3,000,000 $1 34,884 $ 590,552,304
5 $85,000,000 $214,156,869 Coldplay Một tour du lịch đầy những giấc mơ 2016 201617 156 3,900,000 $0.54 25,000 $ 4,59
6 $75,000,000 $195,619,795 [9] $ 458,673,798 1984 55 2,750,000 $1.36 50,000 $ 533,568,677
7 Roger Waters Bức tường sống 20101313 $ 2,09 [10] 220 4,000,000 $ 441.121.000 18,182 $ 548,153,259
8 AC/DC Chuyến tham quan thế giới băng đen U2 20081010 1987 109 3,176,952 $ 2,64 29,146 [11] [12] [13]
9 $52,000,000 $154,991,215 Những hòn đá lăn Một tour du lịch nổ lớn hơn 1981 50 3,000,000 $1.04 60,000 $ 533,568,677

1990s[edit][edit]

Roger Waters
Thứ hạngTổng thực tếNhững hòn đá lăn
(adjusted 2022 gross)
Họa sĩTên tour du lịchNămtrình diễnSự tham dựTrung bình (hàng triệu)
gross (millions)
Trung bình
attendance
Ref.
1 $320,000,000 $569,067,482 Những hòn đá lăn Chuyến tham quan Voodoo Lounge 1994 129 6,336,776 $2.48 49,122
2 $ 274.000.000 $ 455,529,196 Những hòn đá lăn Chuyến tham quan Voodoo Lounge 1994 108 $ 274.000.000 $ 455,529,196 $ 274.000.000 $ 455,529,196
3 $250,000,000 $457,061,069 Bridges to Babylon Tour 1997 Từ98 1994 110 6,000,000 $2.27 54,545 -
4 $ 2,54 [48] U2 Pink Floyd 1994 93 3,936,841 $ 274.000.000 42,332 $ 455,529,196
5 Bridges to Babylon Tour 1997 Từ98 - $ 2,54 [48] 82 4,500,000 Pink Floyd 65,217 Chuyến tham quan Bell Division
6 [49] $ 171,677,027 U2 $ 289,793,953 Chuyến tham quan Popmart 157 5,350,554 $ 1,85 34,080 [47]
7 $ 165.000.000 $ 278,523,010 Michael Jackson Lịch sử Tour thế giới 1996 Từ97 $ 274.000.000 $ 274.000.000 $ 274.000.000 $ 274.000.000 $ 455,529,196
8 Bridges to Babylon Tour 1997 Từ98 - $ 2,54 [48] $ 274.000.000 $ 455,529,196 $ 274.000.000 $ 274.000.000 $ 455,529,196
9 Bridges to Babylon Tour 1997 Từ98 - $ 2,54 [48] 220 5,500,000 Pink Floyd 25,000 Chuyến tham quan Bell Division
10 [49] $ 171,677,027 $ 289,793,953 Chuyến tham quan Popmart Chuyến tham quan Popmart 69 4,019,500 $ 1,85 58,254 [47]
11 $ 165.000.000 $ 278,523,010 Michael Jackson Lịch sử Tour thế giới 1996 Từ97 152 3,291,987 $ 2,39 21,658 [47]
12 $ 165.000.000 $ 278,523,010 - $ 2,54 1990 121 3,000,000 [48] 24,793 Pink Floyd
$ 165.000.000 $ 278,523,010 Michael Jackson Lịch sử Tour thế giới 1993 39 1,369,123 1996 Từ97 35,106 $ 2,39
13 [50] $ 151.000.000 Michael Jackson Lịch sử Tour thế giới 1990 57 887,772 1996 Từ97 15,575 $ 2,39

2000s[edit][edit]

[50]
$ 151.000.000$ 283,251,094Chuyến tham quan truyền hình Zoo
(adjusted
2022 gross)
Họa sĩTên tour du lịchNămtrình diễnSự tham dựTrung bình (hàng triệu)
gross (millions)
Trung bình
attendance
Ref.
1 1992 Vang93 $ 0,96 Những hòn đá lăn [47] [51] $ 142,700,000 [A] 144 4,680,000 $ 253,768,530 32,500
2 Đại bàng Địa ngục đóng băng trong tour du lịch Michael Jackson Lịch sử Tour thế giới 1996 Từ97 85 3,545,899 $ 2,39 41,716 [50]
3 $ 151.000.000 $ 283,251,094 U2 Chuyến tham quan truyền hình Zoo 1992 Vang93 131 4,619,021 $ 0,96 35,260 [47] [51]
4 $ 142,700,000 [A] $ 253,768,530 Đại bàng Địa ngục đóng băng trong tour du lịch 1994 156 3,300,912 [52] [53] 21,160 $ 130.000.000
5 $ 219,442,371 Tina Turner Những hòn đá lăn Chuyến tham quan mơ ước nhất 3.000.000 (Châu Âu) 115 3,470,945 [54] [55] 30,182 $ 455,529,196
6 Bridges to Babylon Tour 1997 Từ98 - $ 2,54 1996 Từ97 132 2,600,000 $ 2,39 19,697 [50]
7 $ 151.000.000 $ 283,251,094 Chuyến tham quan truyền hình Zoo 1992 Vang93 $ 0,96 326 3,500,000 [47] [51] 10,736 $ 142,700,000 [A]better source needed]
8 $ 253,768,530 Đại bàng Địa ngục đóng băng trong tour du lịch 1994 1994 100 2,198,353 [52] [53] 21,984 $ 130.000.000
9 $ 219,442,371 Tina Turner Địa ngục đóng băng trong tour du lịch 1994 3.000.000 (Châu Âu) 120 3,232,384 $ 274.000.000 26,937 $ 455,529,196
10 Bridges to Babylon Tour 1997 Từ98 - $ 2,54 1994 99 2,157,675 [52] [53] 21,795 $ 130.000.000
11 $ 219,442,371 Tina Turner Chuyến tham quan mơ ước nhất 3.000.000 (Châu Âu) [54] [55] 168 2,831,377 $ 105.000.000 16,853 $ 174,564,108
12 Garth Brooks The Garth Brooks World Tour Michael Jackson Lịch sử Tour thế giới 2006 60 1,210,294 1996 Từ97 20,172 $ 2,39
13 [50] $ 151.000.000 Địa ngục đóng băng trong tour du lịch 1994 2009 80 1,831,770 [52] [53] 22,897 $ 130.000.000
14 $ 219,442,371 Tina Turner U2 Chuyến tham quan mơ ước nhất 2001 112 2,162,282 3.000.000 (Châu Âu) 19,306 [54] [55]
15 $ 105.000.000 $ 174,564,108 Garth Brooks The Garth Brooks World Tour 1996 Từ98 117 1,673,667 $ 0,48 14,305 [56] [57]
16 100.000.000 đô la $ 193,099,360 - $ 2,54 1996 Từ97 90 1,176,199 $ 2,39 13,069 [50]
17 $ 151.000.000 $ 283,251,094 Chuyến tham quan truyền hình Zoo 1992 Vang93 2009 97 1,500,000 $ 0,96 15,464 $ 130.000.000
18 $ 219,442,371 Tina Turner - $ 2,54 1992 Vang93 89 1,823,834 $ 0,96 20,493 [47] [51]
19 $ 142,700,000 [A] $ 253,768,530 Đại bàng Địa ngục đóng băng trong tour du lịch 2007 46 1,262,393 1994 27,443 [52] [53]
20 $ 130.000.000 $ 219,442,371 Tina Turner Chuyến tham quan mơ ước nhất 2007 119 1,600,000 3.000.000 (Châu Âu) 13,445 [54] [55]

2010s[edit][edit]

$ 105.000.000
$ 151.000.000$ 283,251,094Chuyến tham quan truyền hình Zoo
(adjusted 2022 gross)
Họa sĩTên tour du lịchNămtrình diễnSự tham dựTrung bình (hàng triệu)
gross (millions)
Trung bình
attendance
Ref.
1 $776,200,000 $822,672,992 1992 Vang93 $ 0,96 [47] [51] 255 8,796,567 $3.04 34,496
2 $736,421,584 $887,082,982 U2 $ 142,700,000 [A] $ 253,768,530 110 7,272,046 $6.69 66,110 Đại bàng
3 Địa ngục đóng băng trong tour du lịch 1994 [52] [53] $ 130.000.000 $ 219,442,371 175 4,377,126 Tina Turner 25,012 Chuyến tham quan mơ ước nhất
4 3.000.000 (Châu Âu) [54] [55] Chuyến tham quan mơ ước nhất 3.000.000 (Châu Âu) [54] [55] 114 5,389,536 $ 105.000.000 47,277 $ 174,564,108
5 Garth Brooks The Garth Brooks World Tour 1996 Từ98 $ 0,48 [56] [57] 219 4,129,863 [52] [53] 18,858 $ 130.000.000
6 $ 219,442,371 Tina Turner Chuyến tham quan mơ ước nhất 3.000.000 (Châu Âu) 2014 hiện tại 120 2,065,755 $ 2,51 17,215 [76] [25] [26] [28] [77]
7 $ 441.121.000 $ 548,153,259 AC/DC Chuyến tham quan thế giới băng đen 20081010 167 4,846,965 $ 2,64 29,024 [18]
8 $ 416,900,000 $ 441,860,823 METALLICA Chuyến tham quan toàn thế giới 2016 20162019 128 4,055,397 $ 3,26 31,683 [14][15]

[16][78]

9 $ 415,600,000 $ 440.482.988 Những hòn đá lăn Không có chuyến tham quan lọc 2017 20152021 45 2,290,871 $ 9,24 50,908 [số 8]
10 $ 397,300,000 $ 421,087,323 Hồng Chuyến tham quan chấn thương đẹp 20181919 156 3,088,647 $ 2,55 19,799 [20]
11 $ 390,778,581 $ 431,999,726 U2 Joshua Tree Tours 2017 và 2019 2017, 2019 66 3,279,712 $ 5,92 49,693 [21] [22] [23]
12 $ 375,828,391 $ 405,531,328 Bruno Mars Chuyến tham quan thế giới ma thuật 24K 2017 201718 204 3,298,583 $ 1,84 16,170 [1] [2]
13 $ 364,300,000 $ 351,034,207 Garth Brooks và Trisha Yearwood The Garth Brooks World Tour với Trisha Yearwood 2014 201417 366 4,743,727 $ 1 12,961 [25] [26] [27] [28]
14 $ 358,600,000 $ 380,070,259 Elton John Chia tay đường gạch vàng 2018 hiện tại 178 2,630,000 $ 2,01 14,775 [30]
15 $ 355,600,000 $ 413,664,400 Bruce Springsteen và The E Street Band Wrecking Ball World Tour 20121313 127 3,650,535 $ 2,8 28,744 [31] [32]
16 $ 345,700,000 $ 372,942,062 Taylor Swift Chuyến tham quan Sân vận động Danh tiếng của Taylor Swift 2018 53 2,888,918 $ 6,52 54,508 [33]
17 $ 306.500.000 $ 346,066,209 Bruce Springsteen và The E Street Band Wrecking Ball World Tour 20121313 89 2,667,775 $ 2,8 29,975 [31] [32]
18 $ 345,700,000 $ 372,942,062 Taylor Swift Chuyến tham quan Sân vận động Danh tiếng của Taylor Swift 2012 88 2,212,345 $ 6,52 25,140 [33]
19 $ 306.500.000 $ 346,066,209 The River Tour 2016 2016 201617 2014 69 3,449,560 $ 3,44 49,994 [26] [27]
20 $ 305,158,363 $ 360,183,295 Madonna Chuyến tham quan MDNA $ 3,47 84 1,958,754 [48] 23,319 $ 290,178,452

2020s[edit][edit]

$ 332,151,129
Một chiềuNơi chúng tôi đang du lịch$ 4,21
(adjusted 2022 gross)
[79]$ 275,700,000$ 315,179,714Paul McCartneyNgoài đó! Chuyến du lịch20131515
ticket price
$ 3,28
gross (millions)
[25] [26] [32]
attendance
Ref.
1 Danh sách 20 tour du lịch có doanh thu cao nhất trong thập kỷ 2020 Thứ hạng Tổng thực tế Lạm phát (điều chỉnh tổng số 2022) 39 2,234,199 Họa sĩ Tên tour du lịch 57,287 Năm
2 trình diễn Sự tham dự Giá Averageticket Lạm phát (điều chỉnh tổng số 2022) 34 1,947,618 Họa sĩ Tên tour du lịch 57,283 Năm
3 trình diễn Sự tham dự Giá Averageticket Trung bình (hàng triệu) 67 1,394,278 Trung bình $ 181,027,830 20,810 Ed Sheeran
4 + - = ÷ x tour 2022 hiện tại $ 81,03 Lạm phát (điều chỉnh tổng số 2022) 13 580,566 Họa sĩ Tên tour du lịch 44,659 Năm
5 trình diễn Sự tham dự Giá Averageticket 2022 41 1,296,079 Trung bình (hàng triệu) Trung bình 31,612 $ 181,027,830
6 Ed Sheeran 2022 hiện tại $ 81,03 2022 35 574,868 $ 4,64 [80] 16,425 $ 179,684,106
7 Coldplay Music of the Spheres World Tour $ 92,26 2022 20 833,798 $ 5,28 [81] 41,690
8 $ 157,438,120 Madonna Chuyến tham quan MDNA 2022 16 423,659 $ 3,47 [48] 26,479 $ 290,178,452
9 $ 332,151,129 Một chiều Nơi chúng tôi đang du lịch $ 4,21 37 961,622 [79] $ 275,700,000 25,990 $ 315,179,714
10 Paul McCartney Ngoài đó! Chuyến du lịch 20131515 $ 3,28 47 562,579 [25] [26] [32] Danh sách 20 tour du lịch có doanh thu cao nhất trong thập kỷ 2020 11,970 Thứ hạng

Tổng thực tế[edit]

Lạm phát (điều chỉnh tổng số 2022)
Họa sĩNơi chúng tôi đang du lịch$ 4,21
(adjusted 2022 gross)
[79]$ 275,700,000Paul McCartneyNgoài đó! Chuyến du lịchRef.
1989 20131515 $ 3,28 Những hòn đá lăn [25] [26] [32] 57 3,268,722
1990 Danh sách 20 tour du lịch có doanh thu cao nhất trong thập kỷ 2020 Thứ hạng Tổng thực tế Lạm phát (điều chỉnh tổng số 2022) 220 2,392,923 Họa sĩ
1991 Tên tour du lịch Năm trình diễn Sự tham dự 76 Họa sĩ
1992 Tên tour du lịch Năm trình diễn Sự tham dự 73 2,495,984 Giá Averageticket
1993 Trung bình (hàng triệu) Trung bình trình diễn Sự tham dự Giá Averageticket
1994 Trung bình (hàng triệu) Trung bình Những hòn đá lăn $ 181,027,830 129 6,336,776 Ed Sheeran
1995 + - = ÷ x tour 2022 hiện tại $ 81,03 $ 4,64 [80]
1996 $ 179,684,106 Coldplay Music of the Spheres World Tour $ 92,26 92 1,200,000 $ 5,28
1997 [81] $ 157,438,120 Những hòn đá lăn Harry Styles 33 1,404,768 Tình yêu trong tour du lịch
1998 2021 hiện tại $ 112,92 64 3,032,799 $ 2,35
1999 [82] $ 137,268,384 Bunny xấu 43 1,078,186 Chuyến tham quan nóng nhất thế giới
2000 $ 236,44 $ 10,5 [83] $ 135,259,120 108 2,400,000 Kenny Chesney
2001 TẠI ĐÂY VÀ NGAY BÂY GIỜ $ 104,36 trình diễn Sự tham dự 113 2,179,642 Giá Averageticket
2002 Trung bình (hàng triệu) Trung bình Madonna Chuyến tham quan MDNA 58 996,667 $ 3,47
2003 [48] $ 290,178,452 Bruce Springsteen và The E Street Band Wrecking Ball World Tour 43 3,232,384 20121313
2004 $ 2,8 [31] [32] Taylor Swift Chuyến tham quan Sân vận động Danh tiếng của Taylor Swift 56 900,000 $ 6,52
2005 [33] $ 306.500.000 trình diễn Sự tham dự 90 3,000,000 Giá Averageticket
2006 Trung bình (hàng triệu) Trung bình Những hòn đá lăn $ 181,027,830 147 1,010,000 Ed Sheeran
2007 + - = ÷ x tour 2022 hiện tại $ 81,03 $ 4,64 151 1,800,000 [80]
2008 $ 179,684,106 Coldplay Music of the Spheres World Tour $ 92,26 99 2,157,675 [108]
2009 $ 311,637,730 $ 393,619,674 U2 U2 360 ° Tour 44 3,071,290 [109]
2010 $ 146,507,388 $ 182,055,495 Bon Jovi Chuyến tham quan vòng tròn 69 1,591,154 [110]
2011 $ 293,281,487 $ 353,282,714 U2 U2 360 ° Tour 44 2,887,972 [109]
2012 $ 146,507,388 $ 182,055,495 Bon Jovi Chuyến tham quan vòng tròn 88 2,212,345 [110]
2013 $ 293,281,487 $ 353,282,714 Bon Jovi Chuyến tham quan vòng tròn 90 2,178,170 [110]
2014 $ 293,281,487 $ 353,282,714 [111] $ 305,200,000 69 3,439,560 $ 401,307,436
2015 Madonna Chuyến tham quan MDNA [112] $ 205,158,370 85 2,278,647 $ 238,657,801
2016 Bởi vì chúng ta có thể [113] $ 290,178,452 $ 332,151,129 76 2,406,591 Một chiều
2017 Nơi chúng tôi đang du lịch [114] [115] U2 $ 250,733,097 50 2,713,136 $ 286,637,598
2018 Taylor Swift Chuyến lưu diễn thế giới năm 1989 [116] $ 268.300.000 94 4,860,482 $ 302,934,956
2019 Bruce Springsteen và The E Street Band Các tour du lịch trên sông [117] $ 316.000.000 68 1,818,933 $ 349,333,152
2020 The Joshua Tree Tour 2017 [118] $ 432.400.000 $ 466,609,223 38 664,749 Ed Sheeran
2021 Tour du lịch Tour du lịch [119] $ 215,200,000 12 516,624 $ 228,084.550

Hồng[edit]

  • Chuyến tham quan chấn thương đẹp
  • [120]

Notes[edit][edit]

  1. $ 87,100,000 Figure for Hell Freezes Over Tour only includes North American dates. Official data for the rest of the world tour is unavailable.

References[edit][edit]

  1. $ 91,199,087a b c d "2017 Year End Top 20 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Retrieved 29 December 2017.
  2. Elton Johna b c d "2018 Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Retrieved 18 December 2018.
  3. Chia tay đường gạch vàng "Exclusive: Ed Sheeran's 'Divide Tour' To Break U2's All-Time Touring Record Tonight". Pollstar. Retrieved August 2, 2019.
  4. [121] "Ed Sheeran". Ed Sheeran Official Facebook. Retrieved August 2, 2019.
  5. $ 115.500.000 "Ed Sheeran's Record-Breaking Divide Tour Posts Final Numbers: 255 Shows, $776.2 Million Grossed". Billboard. 27 August 2019. Retrieved 12 June 2020.
  6. Những hòn đá lăn Frankenberg, Eric. "Guns N' Roses' 'Not in This Lifetime… Tour' Grosses $584 Million | Billboard – Billboard". Billboard.com. Retrieved 2021-11-20.
  7. Không có chuyến tham quan lọca b Pietrolungo, Silvio (April 9, 2007). "Rolling Stones Tour Grosses More Than Half A Billion". Billboard. Retrieved November 17, 2009.
  8. [122]a b Frankenberg, Eric. "August Boxscore Recap: The Rolling Stones Top The List | Billboard – Billboard". Billboard.com. Retrieved 2021-11-20.
  9. Xem thêm [sửa]a b "Coldplay's 'Head Full Of Dreams' Is Third Highest Grossing World Tour Ever". Billboard.com. Retrieved 20 November 2017.
  10. Danh sách các buổi hòa nhạc được tham dự cao nhấta b Allen, Bob (October 4, 2013). "Roger Waters Passes Madonna for Solo Boxscore Record with $459M Wall Live Tour". Billboard. Retrieved October 5, 2013.
  11. Danh sách các nghệ sĩ âm nhạc có doanh thu cao nhấta b c "2008 Year End Top 100 North American Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on September 24, 2015. Retrieved August 26, 2018.
  12. ^Hình cho địa ngục đóng băng trong tour du lịch chỉ bao gồm những ngày Bắc Mỹ. Dữ liệu chính thức cho phần còn lại của World Tour là không có sẵn.a b c d e "2009 Year End Top 50 Worldwide Concert Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on February 15, 2010. Retrieved August 26, 2018.
  13. ^ ABCD "2017 Năm kết thúc top 20 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2017. "2010 Year End Top 50 Worldwide Concert Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on 24 January 2011. Retrieved August 14, 2019.
  14. ^ ABCD "2018 Năm kết thúc Top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2018.a b "Year End Special Features: Top Tours, Ticket Sales Charts, Industry Pros Weigh In On 2018" (PDF).
  15. ^"Độc quyền: 'Divide Tour' của Ed Sheeran để phá vỡ kỷ lục lưu diễn mọi thời đại của U2 tối nay". Pollstar. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2019.a b "2017 Year End Special Features: Top Tours, Promoters, Venues, Grosses" (PDF).
  16. ^"Ed Sheeran". Ed Sheeran chính thức Facebook. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2019.a b "2016 Year End Special Features" (PDF). Pollstar. Retrieved August 14, 2019.
  17. ^"Ed Sheeran phân chia kỷ lục bài đăng các bài đăng cuối cùng: 255 chương trình, 776,2 triệu đô la thu nhập". Bảng quảng cáo. 27 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2020. https://www.pollstar.com/Chart/2019/12/Top100%20WorldwideTours_790.pdf[bare URL PDF]
  18. ^Frankenberg, Eric. "Guns n 'Roses' 'không phải trong cuộc đời này' Tour 'thu nhập 584 triệu đô la | Billboard - Billboard". Billboard.com. Truy cập 2021-11-20.a b c Pietrolungo, Silvio (September 2, 2009). "Madonna Closes Tour In Tel Aviv; Second Highest Grossing Trek Of All Time". Billboard. Retrieved September 1, 2010.
  19. ^ Abpietrolungo, Silvio (ngày 9 tháng 4 năm 2007). "Rolling Stones Tour tổng doanh thu hơn nửa tỷ". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.a b "Ladies Might: Box Office Triumph By Top Female Earners". Pollstar. Retrieved 27 March 2020.
  20. ^ abfrankenberg, Eric. "Tóm tắt Boxscore tháng 8: The Rolling Stones đứng đầu danh sách | Billboard - Billboard". Billboard.com. Truy cập 2021-11-20.a b "P!nk Enters the Record Books With Final Figures For The Beautiful Trauma World Tour". Billboard. August 20, 2019. Retrieved August 24, 2019.
  21. ^ AB "'Head Full of Dream' của Coldplay là chuyến lưu diễn thế giới có doanh thu cao thứ ba từ trước đến nay". Billboard.com. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017.a b Rendon, Francisco (30 October 2017). "U2's 'Joshua Tree' Trek Grosses $316 M, Vies For Tour Of The Year". Pollstar. Retrieved 30 October 2017.
  22. ^ Aballen, Bob (ngày 4 tháng 10 năm 2013). "Roger Waters vượt qua Madonna cho kỷ lục Solo Boxscore với chuyến lưu diễn trực tiếp trên tường 459 triệu đô la". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.a b "Top 25 Tours" (PDF). Billboard.com. Retrieved 14 December 2017.
  23. ^ ABC "2008 Năm kết thúc Top 100 tour du lịch Bắc Mỹ" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2018.a b Frankenberg, Eric (17 January 2020). "U2 Earn $73 Million From Just 15 'Joshua Tree' Anniversary Shows in 2019". Billboard. Retrieved 18 January 2020.
  24. ^ ABCDE "Năm kết thúc năm 209 Top 50 Tour Concert Worldwide Tour" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2018.a b Cossar, Neil (March 28, 2009). "This Day in Music — March 28th". Yahoo! Music. Retrieved November 17, 2009.
  25. ^"2010 Năm kết thúc Top 50 Tour buổi hòa nhạc trên toàn thế giới" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 24 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2019.a b c d "2014 Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Retrieved August 26, 2018.
  26. ^ AB "Các tính năng đặc biệt cuối năm: Các tour du lịch hàng đầu, biểu đồ bán vé, chuyên gia trong ngành có trọng lượng vào năm 2018" (PDF).a b c d e "2015 Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on March 8, 2017. Retrieved August 26, 2018.
  27. ^ AB "2017 Năm kết thúc các tính năng đặc biệt: Các tour du lịch hàng đầu, nhà quảng bá, địa điểm, tổng doanh thu" (PDF).a b c "2016 Year End Top 10 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on February 13, 2018. Retrieved August 26, 2018.
  28. ^ ABC "Pollstar năm kết thúc top 20 tour du lịch toàn cầu" (pdf). Pollstar. Ngày 1 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018.a b c "Pollstar Year End Top 20 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. January 1, 2018. Retrieved January 4, 2018.
  29. ^ AB "Reggatta de Banc & nbsp; - Tour cảnh sát bom tấn 'đã diễn ra hoàn hảo'." Bảng quảng cáo. Ngày 20 tháng 8 năm 2008 được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 4 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2009.a b "Reggatta De Banc — Blockbuster Police Tour 'Played Out Perfectly'." Billboard. August 20, 2008. Archived from the original on January 4, 2011. Retrieved November 18, 2009.
  30. ^ ABFrankenberg, Eric (ngày 3 tháng 12 năm 2020). "Năm trong các bảng xếp hạng lưu diễn năm 2020: Elton John Crowns tour du lịch hàng đầu trong năm viết tắt". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2020.a b Frankenberg, Eric (December 3, 2020). "The Year in Touring Charts 2020: Elton John Crowns Top Tours in Abbreviated Year". Billboard. Retrieved December 26, 2020.
  31. ^ AB "2012 Năm kết thúc Top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2019.a b "2012 Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on September 24, 2015. Retrieved August 14, 2019.
  32. ^ ABC "2013 Năm kết thúc Top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2019.a b c "2013 Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on September 24, 2015. Retrieved August 14, 2019.
  33. ^ AB "Taylor Swift khép lại sân vận động danh tiếng với 345 triệu đô la". Bảng quảng cáo. Ngày 8 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2018.a b "Taylor Swift Closes Reputation Stadium Tour with $345 Million". Billboard. December 8, 2018. Retrieved December 11, 2018.
  34. ^"Ed Sheeran kiếm được nhiều hơn trong chuyến lưu diễn vào năm 2018 so với bất kỳ ai khác trong 30 năm". Đá lăn. Ngày 17 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2018. "Ed Sheeran Earned More on Tour In 2018 Than Anyone Else In 30 Years". Rolling Stone. December 17, 2018. Retrieved December 18, 2018.
  35. ^"Cập nhật: Stones Roll by U2 cho chuyến lưu diễn có doanh thu hàng đầu". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013. "Update: Stones Roll By U2 For Top Grossing Tour Ever". Billboard. Retrieved May 4, 2013.
  36. ^Campbell 1993, tr. 236. Campbell 1993, p. 236.
  37. ^"Chuyến lưu diễn cuối cùng của Michael". Ebony. Công ty xuất bản Johnson. Tháng 4 năm 1989. Trang & NBSP; 142 Từ153. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2010. "Michael's Last Tour". Ebony. Johnson Publishing Company. April 1989. pp. 142–153. Retrieved October 2, 2010.
  38. ^Grossweiner, Bob (tháng 6 năm 1992). "Chúng tôi có một cái nhìn chăm chỉ về khía cạnh tài chính là ban nhạc yêu thích của thế giới". Hit Parader. Grossweiner, Bob (June 1992). "We Take a Hard Look at the Financial Side of Being the World's Favorite Band". Hit Parader.
  39. ^ Hướng dẫn của ABCanthony King về tour du lịch nguy hiểm của Michael Jackson. Faria Publishing Limited. Ngày 3 tháng 11 năm 2018.a b c Anthony King's Guide to Michael Jackson's Dangerous Tour. Faria Publishing Limited. November 3, 2018.
  40. ^Currie, David (1987). David Bowie: Thần tượng thủy tinh (1st & nbsp; ed.). London và Margate, Anh: Báo chí Omnibus. ISBN & NBSP; 0-7119-1182-7. Currie, David (1987). David Bowie: Glass Idol (1st ed.). London and Margate, England: Omnibus Press. ISBN 0-7119-1182-7.
  41. ^"Người đàn ông rơi xuống trái đất". Giải trí hàng tuần. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2013. "The Man Who Fell to Earth". Entertainment Weekly. Retrieved January 8, 2013.
  42. ^Fricke, David (ngày 27 tháng 2 năm 1986). "Con đường dài và quanh co". Đá lăn. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 21 tháng 4 năm 2009. Fricke, David (February 27, 1986). "The Long and Winding Road". Rolling Stone. Archived from the original on April 21, 2009.
  43. ^ Abskorneck, Carolyn (ngày 10 tháng 12 năm 1984). "Chuyến tham quan Jacksons gây tranh cãi kết thúc với tư cách là Caravan Rock có doanh thu hàng đầu". Mặt trời Gainesville. Báo chí liên quan. p. & nbsp; 9a.a b Skorneck, Carolyn (December 10, 1984). "Controversial Jacksons tour closes as top-grossing rock caravan". The Gainesville Sun. Associated Press. p. 9A.
  44. ^Norment, Lynn (tháng 11 năm 1989). "Giàu có, miễn phí và kiểm soát: 'đối ngoại' của Tina Turner". Ebony. Tập & nbsp; 45, số & nbsp; 1. Công ty xuất bản Johnson. p. & nbsp; 172. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2020. Norment, Lynn (November 1989). "Rich, Free, and in Control: The 'Foreign Affairs' of Tina Turner". Ebony. Vol. 45, no. 1. Johnson Publishing Company. p. 172. Retrieved December 8, 2020.
  45. ^Tất cả hướng dẫn truyền thông (2018). "Tina Turner, ca sĩ sinh ra". Đăng ký người Mỹ gốc Phi. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2020. All Media Guide (2018). "Tina Turner, Singer born". African American Registry. Retrieved December 8, 2020.
  46. ^Tina, vở nhạc kịch [@tinathemusical] (ngày 4 tháng 3 năm 2020). " Tiếng riu ríu). Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2020 - thông qua Twitter. Tina, The Musical [@TinaTheMusical] (March 4, 2020). "#OnThisDay in 1987, Tina Turner's "Break Every Rule" tour started. It was her 4th worldwide tour and is the biggest tour by a female artist ever attended, attracting 4 million people. This tour also included her ICONIC performance in Rio" (Tweet). Retrieved December 8, 2020 – via Twitter.
  47. ^ ABC "U2 Statistiken & nbsp; - U2 Alben & nbsp; - U2 Singles & nbsp; - U2 Tourneen". U2Tour.de. Ngày 20 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2013.a b c "U2 Statistiken — U2 Alben — U2 Singles — U2 Tourneen". U2tour.de. July 20, 2013. Retrieved July 25, 2013.
  48. ^ ABCWADDELL, Ray (ngày 24 tháng 1 năm 2013). "Chuyến lưu diễn 'MDNA' của Madonna làm cho Top 10 mọi thời đại của Billboard Boxscore". Bảng quảng cáo. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 19 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2013.a b c Waddell, Ray (January 24, 2013). "Madonna's 'MDNA' Tour Makes Billboard Boxscore's All-Time Top 10". Billboard. Archived from the original on February 19, 2013. Retrieved January 24, 2013.
  49. ^"Lịch sử minh họa của những ngày cuối cùng của ban nhạc và các cuộc hội ngộ buồn bã". Đá lăn. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 15 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2011. "The Illustrated History of the Band's Last Days and Bittersweet Reunions". Rolling Stone. Archived from the original on May 15, 2011. Retrieved August 31, 2011.
  50. ^Murphy, Keith (29 tháng 8 năm 2012). "Những bài hát cứu chuộc: Những bản hit tuyệt vời nhất của Michael Jackson". Rung cảm. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 29 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2014. Murphy, Keith (August 29, 2012). "Redemption Songs: Michael Jackson's Greatest Hits". Vibe. Archived from the original on April 29, 2014. Retrieved April 28, 2014.
  51. ^"Biểu đồ kinh doanh giải trí 1992 Từ1993". Bảng quảng cáo. "Amusement Business Charts 1992–1993". Billboard.
  52. ^"Eagles công bố tour du lịch lớn ở châu Âu". Pollstar. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017. "Eagles Announce Big European Tour". Pollstar. Retrieved 20 November 2017.
  53. ^"Tin tức hàng ngày Bangor - Tìm kiếm lưu trữ tin tức của Google". News.google.com. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2017. "Bangor Daily News – Google News Archive Search". News.Google.com. Retrieved 20 November 2017.
  54. ^"Tina Turner sống ở Amsterdam: Chuyến lưu diễn mơ ước nhất". Tạp chí Billboard. 109 (29): 85. 1997-07-19. "Tina Turner Live in Amsterdam: Wildest Dreams Tour". Billboard Magazine. 109 (29): 85. 1997-07-19.
  55. ^"Rocker tối cao - Dig lịch sử pop". Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2017. "Rocker Supreme - The Pop History Dig". Retrieved 24 April 2017.
  56. ^Waddell, Ray (8 tháng 10 năm 2007). "Brooks thiết lập cho Kansas City Run Nine Show". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016. Waddell, Ray (8 October 2007). "Brooks Set For Nine-Show Kansas City Run". Billboard. Retrieved 7 March 2016.
  57. ^Graham, Adam (18 tháng 2 năm 2015). "Phá vỡ Brooks: Garth bởi các con số". Tin tức Detroit. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2016. Graham, Adam (18 February 2015). "Breaking down Brooks: Garth by the numbers". Detroit News. Retrieved 8 March 2016.
  58. ^"Tina kết thúc chuyến lưu diễn châu Âu và sẽ nghỉ một năm". Máy bay phản lực. Công ty xuất bản Johnson. 79 (7): 35. 1990-11-26. "Tina ends European tour and will take a year off". Jet. Johnson Publishing Company. 79 (7): 35. 1990-11-26.
  59. ^"Tina Turner ở 52: Tuổi có liên quan gì đến nó". Ebony. Công ty xuất bản Johnson. 47 (3): 102. Tháng 1 năm 1992. "Tina Turner At 52: What's Age Got To Do With It". Ebony. Johnson Publishing Company. 47 (3): 102. January 1992.
  60. ^"Đá được thiết lập để chơi Úc kể từ '73". Bảng quảng cáo. Tập & nbsp; 107, số & nbsp; 1. Thành phố New York. 1995-01-07. p. & nbsp; 37. ISSN & NBSP; 0006-2510. Truy cập 2014-04-21. "Stones set to play Australia since '73". Billboard. Vol. 107, no. 1. New York City. 1995-01-07. p. 37. ISSN 0006-2510. Retrieved 2014-04-21.
  61. ^Lenig 2010, p. & Nbsp; 145 Lenig 2010, p. 145
  62. ^Beck, John (24 tháng 8 năm 2003). "SHIP SHOCK về mặt thiên văn vượt xa lạm phát, chi phí vé buổi hòa nhạc tiếp tục tăng, nhưng người hâm mộ tiếp tục trả giá". Dân chủ báo chí Santa Rosa. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2013. Beck, John (August 24, 2003). "Sticker Shock Astronomically Outpacing Inflation, Concert Ticket Costs Continue Upward, But Fans Continue To Pay The Price". Santa Rosa Press Democrat. Retrieved August 13, 2013.
  63. ^"Madonna chính thức là nghệ sĩ solo lưu diễn có doanh thu cao nhất mọi thời đại". Sg.news.yahoo.com. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2018. "Madonna is Officially the Highest Grossing Touring Solo Artist of All Time". Sg.news.yahoo.com. Retrieved August 26, 2018.
  64. ^Goodman, Trưởng khoa (ngày 31 tháng 12 năm 2008). "Madonna, Celine Dion tour du lịch hàng đầu trên toàn thế giới vào năm 2008". Reuters. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2008. Goodman, Dean (December 31, 2008). "Madonna, Celine Dion top worldwide tours in 2008". Reuters. Retrieved December 31, 2008.
  65. ^Lawrence, Jesse (ngày 23 tháng 3 năm 2014). "Với nhu cầu mạnh mẽ về vé, Will Cher mặc quần áo để giết tour thực sự là chia tay?". Forbes. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2014. Lawrence, Jesse (March 23, 2014). "With Strong Demand For Tickets, Will Cher's Dressed To Kill Tour Really Be Farewell?". Forbes. Retrieved April 28, 2014.
  66. ^ Abtotal Gross cho tour diễn ma thuậta b Total gross for the Magic Tour
    • "25 tour du lịch hàng đầu 2008" (PDF). Bảng quảng cáo. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 7 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.(PDF). Billboard. Archived from the original (PDF) on October 7, 2012. Retrieved March 22, 2011.
    • Bosso, Joey (ngày 11 tháng 12 năm 2008). "Bon Jovi, Springsteen, Spice Girls Top 2008 của các tour du lịch hàng đầu". Radar âm nhạc. Xuất bản trong tương lai. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2013.. Retrieved February 11, 2013.
  67. ^Tổng doanh thu cho tour du lịch đang lên Total gross for The Rising Tour
    • Waddell, Ray (ngày 18 tháng 10 năm 2003). "Như Lịch sử World Tour". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2010.. Retrieved September 20, 2010.
    • Nielsen Business Media, Inc (ngày 27 tháng 12 năm 2003). 2003 tour du lịch hàng đầu. Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.. Retrieved March 20, 2011.
    • Nielsen Business Media, Inc (ngày 28 tháng 12 năm 2002). 25 tour du lịch hàng đầu 2002. Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2011.. Retrieved March 20, 2011.
  68. ^Báo cáo cuối năm Pollstar cho Viva la Vida Tour: Pollstar year end reports for Viva la Vida Tour:
    • 2008 - 71,9 triệu đô la thu nhập, 960.844 vé được bán, 76 ngày báo cáo: "Kết thúc năm 2008 - 10 tour hòa nhạc trên toàn thế giới" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 19 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.(PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on 19 September 2016. Retrieved 17 June 2022.
    • 2009 - 105,2 triệu đô la thu được, 1.451.434 vé được bán, 79 ngày báo cáo: "Năm kết thúc năm 2009 - 50 tour hòa nhạc trên toàn thế giới" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.(PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on 15 February 2010. Retrieved 17 June 2022.
    • 2010 - 32,3 triệu đô la thu được, 419.099 vé được bán, 11 ngày báo cáo: "Năm kết thúc năm 2010 - 50 tour hòa nhạc trên toàn thế giới" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 24 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2022.(PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on 24 January 2011. Retrieved 17 June 2022.
  69. ^Pietrolungo, Silvio (ngày 23 tháng 10 năm 2006). "Kỷ lục chuyến lưu diễn 'Confessions' của Madonna". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2010. Pietrolungo, Silvio (October 23, 2006). "Madonna's 'Confessions' Tour Sets Record". Billboard. Retrieved August 5, 2010.
  70. ^"Biểu đồ Boxscore Billboard 2001". Bảng quảng cáo. "Billboard Boxscore Charts 2001". Billboard.
  71. ^"Tin tức & nbsp ;: Tiêu đề & nbsp ;: Tim & Faith Break Country Tour Records & NBSP ;: Great American Country". Gactv.com. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 31 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2010. "News : Headlines : Tim & Faith Break Country Tour Records : Great American Country". Gactv.com. Archived from the original on July 31, 2012. Retrieved August 5, 2010.
  72. ^"25 tour du lịch hàng đầu 2008". Bảng quảng cáo. 23 tháng 12 năm 2006. "Top 25 Tours 2008". Billboard. 23 December 2006.
  73. ^"Biểu đồ Boxscore Billboard 2007". Bảng quảng cáo. "Billboard Boxscore Charts 2007". Billboard.
  74. ^"2007 năm cuối cùng top 100 tour" (PDF). Pollstar. Năm 2007 được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011. "2007 Year End Top 100 Tours" (PDF). Pollstar. 2007. Archived from the original (PDF) on July 24, 2011. Retrieved March 23, 2011.
  75. ^Waddell, Ray (ngày 13 tháng 12 năm 2007). "Cảnh sát điểm tour du lịch tăng trưởng hàng đầu của '07". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2008. Waddell, Ray (December 13, 2007). "The Police Score Top-Grossing Tour Of '07". Billboard. Retrieved December 14, 2008.
  76. ^ AB "Năm 2016 cuối năm Top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 13 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2017.a b "2016 Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on 13 May 2017. Retrieved 15 July 2017.
  77. ^"Giữa năm top 100 tour du lịch trên toàn thế giới" (PDF). Pollstar. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2018. "Mid Year Top 100 Tours Worldwide" (PDF). Pollstar. Retrieved August 26, 2018.
  78. ^"Metallica dẫn biểu đồ Live75, Def Leppard vượt qua". Pollstar. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2019. "Metallica Leads LIVE75 Chart, Def Leppard Breaks Through". Pollstar. Retrieved September 14, 2019.
  79. ^Allen, Bob (ngày 10 tháng 10 năm 2014). "One Direction là nơi chúng tôi tham gia tham dự 3,4 triệu người hâm mộ". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2014. Allen, Bob (October 10, 2014). "One Direction's Where We Are Tour Attended by 3.4 Million Fans". Billboard. Retrieved October 11, 2014.
  80. ^"Chuyến tham quan toán học (2022)". Dữ liệu lưu diễn. 2022-04-28. Truy cập 2022-09-01. "Mathematics Tour (2022)". Touring Data. 2022-04-28. Retrieved 2022-09-01.
  81. ^"Music of the Spheres Tour (2022)". Dữ liệu lưu diễn. 2022-04-19. Truy cập 2022-09-01. "Music of the Spheres Tour (2022)". Touring Data. 2022-04-19. Retrieved 2022-09-01.
  82. ^"Tình yêu trong chuyến lưu diễn (2021)". Dữ liệu lưu diễn. 2021-09-28. Truy cập 2022-09-01. "Love On Tour (2021)". Touring Data. 2021-09-28. Retrieved 2022-09-01.
  83. ^"Chuyến tham quan nóng nhất thế giới (2022)". Dữ liệu lưu diễn. 2022-09-27. Truy cập 2022-09-27. "World's Hottest Tour (2022)". Touring Data. 2022-09-27. Retrieved 2022-09-27.
  84. ^"Ở đây và bây giờ tour (2022)". Dữ liệu lưu diễn. 2022-05-25. Truy cập 2022-09-01. "Here and Now Tour (2022)". Touring Data. 2022-05-25. Retrieved 2022-09-01.
  85. ^"El último Tour Del Mundo (2022)". Dữ liệu lưu diễn. 2022-02-24. Truy cập 2022-09-01. "El Último Tour Del Mundo (2022)". Touring Data. 2022-02-24. Retrieved 2022-09-01.
  86. ^"Đã trở lại tour (2022)". Dữ liệu lưu diễn. 2022-06-11. Truy cập 2022-09-01. "Got Back Tour (2022)". Touring Data. 2022-06-11. Retrieved 2022-09-01.
  87. ^"Chúng tôi sẽ trở lại! Tour (2021)". Dữ liệu lưu diễn. 2021-11-18. Truy cập 2022-09-01. "We're F'N Back! Tour (2021)". Touring Data. 2021-11-18. Retrieved 2022-09-01.
  88. ^"The Last Domino? Tour (2021)". Dữ liệu lưu diễn. 2021-12-03. Truy cập 2022-09-01. "The Last Domino? Tour (2021)". Touring Data. 2021-12-03. Retrieved 2022-09-01.
  89. ^ AB "Kinh doanh buổi hòa nhạc thực sự đã chết vào năm 91, Pollstar nói & nbsp; một ấn phẩm thương mại. " Thời báo Los Angeles (ngày 26 tháng 12 năm 1991).a b "Concert Business Was Really Dead in ’91, Pollstar Says : * Pop music: Grateful Dead placed No. 1, and three country acts made the Top 10, but gross ticket revenues fell at least 25% from 1990, according to a trade publication." Los Angeles Times (December 26, 1991).
  90. ^"Danh sách hàng đầu U2 của 10 chuyến tham quan buổi hòa nhạc hàng đầu năm 1992". Orlando Sentinel (ngày 15 tháng 1 năm 1993). "U2 Tops List of Top 10 Concert Tours of 1992". The Orlando Sentinel (January 15, 1993).
  91. ^"Bette, Barbra trên đầu năm '93". The Washington Post (ngày 12 tháng 1 năm 1994). "Bette, Barbra on Top in '93". The Washington Post (January 12, 1994).
  92. ^"Các chiến binh đường". The Washington Post (ngày 4 tháng 1 năm 1995). "The Road Warriors". The Washington Post (January 4, 1995).
  93. ^Harrington, Richard (ngày 10 tháng 1 năm 1996). "Eagles đưa nó đến giới hạn trong '95". Các bài viết washington. Harrington, Richard (January 10, 1996). "Eagles Take It to the Limit in '95". The Washington Post.
  94. ^Sandler, Adam (ngày 26 tháng 12 năm 1996). "Chuyến lưu diễn có doanh thu hàng đầu của năm được niêm phong bằng nụ hôn". Đa dạng. Sandler, Adam (December 26, 1996). "Year's top-grossing tour sealed with Kiss". Variety.
  95. ^"Quy tắc đá như năm 1997 Tour hòa nhạc hàng đầu". Tin tức MTV. Ngày 15 tháng 12 năm 1997. "Stone Rules As 1997 Top Concert Tour". MTV News. December 15, 1997.
  96. ^"Tour toppers '98". Tin tức CMT. "Tour Toppers '98". CMT News.
  97. ^Kaufman, Gil (ngày 9 tháng 12 năm 1999). "Springsteen, Stones Tour tour diễn hàng đầu năm '99". Tin tức MTV. Kaufman, Gil (December 9, 1999). "Springsteen, Stones Top Grossing Tours in '99". MTV News.
  98. ^Saraceno, Christina (ngày 29 tháng 12 năm 2000). "Tina Turner là hành động lưu diễn số một năm 2000". Đá lăn. Saraceno, Christina (December 29, 2000). "Tina Turner is the number one touring act of 2000". Rolling Stone.
  99. ^"Touring Biz than thở khi các ngôi sao ở nhà". Billboard (ngày 14 tháng 9 năm 2002). "Touring Biz Laments As Stars Stay Home". Billboard (September 14, 2002).
  100. ^"Công vụ kỳ cựu, các ban nhạc nam thống trị lưu diễn năm 2001". Bảng quảng cáo. Ngày 20 tháng 12 năm 2001. "Veteran Acts, Boy Bands Dominate Touring In 2001". Billboard. December 20, 2001.
  101. ^Waddell, Ray (14 tháng 3 năm 2009). "Hôn tương lai". Bảng quảng cáo. Tập. 121 không. 10. p. 19. Waddell, Ray (14 March 2009). "Kissing the Future". Billboard. Vol. 121 no. 10. p. 19.
  102. ^"McCartney Notches tour du lịch cao cấp nhất của năm". Bảng quảng cáo. Ngày 19 tháng 12 năm 2002. "McCartney Notches Year's Highest-Grossing Tour". Billboard. December 19, 2002.
  103. ^Lewis, Randy (ngày 23 tháng 12 năm 2003). "Danh sách tour du lịch Springsteen Tops 2003". Mặt trời Baltimore. Lewis, Randy (December 23, 2003). "Springsteen tops 2003 tour list". The Baltimore Sun.
  104. ^Susman, Gary (ngày 14 tháng 12 năm 2004). "Mẹ của 'tái tổ chức'". Giải trí hàng tuần. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2009. Susman, Gary (December 14, 2004). "Mother of 'Re-Invention'". Entertainment Weekly. Retrieved October 30, 2009.
  105. ^"10 tour du lịch hàng đầu năm 2005". Giải trí hàng tuần (ngày 13 tháng 12 năm 2005). "The top 10 tours of 2005". Entertainment Weekly (December 13, 2005).
  106. ^"Stones, Streisand trong số các tour du lịch lớn nhất của '06". Associated Press (ngày 29 tháng 12 năm 2006). "Stones, Streisand among biggest tours of '06 ". Associated Press (December 29, 2006).
  107. ^"Cảnh sát điểm tour du lịch tăng trưởng hàng đầu của '07'". Bảng quảng cáo. "The Police Score Top-Grossing Tour of '07' ". Billboard.
  108. ^Toscano, Paul (ngày 3 tháng 2 năm 2009). "Chuyến tham quan buổi hòa nhạc có doanh thu cao nhất năm 2018". CNBC. Toscano, Paul (February 3, 2009). "Highest Grossing Concert Tours of 2018". CNBC.
  109. ^"25 tour du lịch hàng đầu năm 2009". Bảng quảng cáo. Ngày 11 tháng 12 năm 2009. "Top 25 Tours of 2009". Billboard. December 11, 2009.
  110. ^"25 tour du lịch hàng đầu năm 2010". Bảng quảng cáo. Ngày 8 tháng 12 năm 2010. "Top 25 Tours of 2010". Billboard. December 8, 2010.
  111. ^"25 tour du lịch hàng đầu năm 2011". Bảng quảng cáo. Ngày 9 tháng 12 năm 2011. "Top 25 Tours of 2011". Billboard. December 9, 2011.
  112. ^"25 tour du lịch hàng đầu năm 2012". Bảng quảng cáo. Ngày 14 tháng 12 năm 2012. "Top 25 Tours of 2012". Billboard. December 14, 2012.
  113. ^"25 tour du lịch hàng đầu năm 2013". Bảng quảng cáo. Ngày 13 tháng 12 năm 2013. "Top 25 Tours of 2013". Billboard. December 13, 2013.
  114. ^Allen, Bob (10 tháng 10 năm 2014). "One Direction là nơi chúng tôi tham gia tham dự 3,4 triệu người hâm mộ". Bảng quảng cáo. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2014. Allen, Bob (10 October 2014). "One Direction's Where We Are Tour Attended by 3.4 Million Fans". Billboard. Retrieved 29 October 2014.
  115. ^"Điểm một hướng có doanh thu cao nhất thế giới năm 2014". Nme. Ngày 27 tháng 3 năm 2015. "One Direction score highest grossing world tour of 2014". NME. March 27, 2015.
  116. ^"2015 năm cuối cùng top Worldwide Tour" (PDF). Pollstar. Được lưu trữ từ bản gốc (PDF) vào ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2018. "2015 Year-End Top 20 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. Archived from the original (PDF) on August 3, 2016. Retrieved July 8, 2018.
  117. ^"Năm cuối top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Ngày 6 tháng 1 năm 2017. "Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. January 6, 2017.
  118. ^"Năm cuối top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Ngày 5 tháng 1 năm 2018. "Year End Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. January 5, 2018.
  119. ^"2018 Top 100 tour du lịch toàn cầu" (PDF). Pollstar. Ngày 17 tháng 12 năm 2018. "2018 Top 100 Worldwide Tours" (PDF). Pollstar. December 17, 2018.
  120. ^"2019 năm kết thúc năm đặc biệt". Pollstar. Ngày 31 tháng 12 năm 2019. "2019 Year End Special". Pollstar. December 31, 2019.
  121. ^"2020 năm đặc biệt cuối năm" (PDF). Pollstar. Ngày 11 tháng 12 năm 2020. "2020 Year-End Special" (PDF). Pollstar. December 11, 2020.
  122. ^"2021 Đặc biệt cuối năm" (PDF). Pollstar. Ngày 27 tháng 1 năm 2022. "2021 Year-End Special" (PDF). Pollstar. January 27, 2022.

Buổi hòa nhạc được theo dõi nhiều nhất trong lịch sử là gì?

Buổi hòa nhạc đêm giao thừa Copacabana 1994/1995 Ca sĩ nhạc rock Anh Rod Stewart đã chứng minh rằng tốt hơn bất kỳ ai khác vào đêm giao thừa năm mới 1994/1995. Buổi hòa nhạc đêm giao thừa miễn phí của anh ấy đã thu hút hơn 3,5 triệu người trong năm đó, khiến nó trở thành buổi hòa nhạc lớn nhất mọi thời đại. British rock singer Rod Stewart proved that better than anyone else on New Year's Eve 1994/1995. His free New Year's Eve concert attracted a bit more than 3.5 million people that year, making it the biggest concert of all time.

Điều gì được coi là hiệu suất trực tiếp tốt nhất mọi thời đại?

1Queen's show-stopping Live Aid performance can now officially be claimed as the world's favourite live performance.

Buổi hòa nhạc lớn nhất từ trước đến nay là gì?

1. Buổi hòa nhạc của Rod Stewart - 3,54 triệu người.Rod Stewart, siêu sao âm nhạc, sở hữu kỷ lục thế giới hiện tại cho buổi hòa nhạc lớn nhất mọi thời đại, biểu diễn trước 3,5 triệu người trên bãi biển Copacabana vào đêm giao thừa năm 1994.Rod Stewart's Concert – 3.54 Million People. Rod Stewart, the music superstar, owns the current world record for the largest concert of all time, performing in front of 3.5 million people on Copacabana Beach on New Year's Eve in 1994.

Ai giữ kỷ lục cho đám đông buổi hòa nhạc lớn nhất từ trước đến nay?

Rod Stewart giữ kỷ lục cho đám đông buổi hòa nhạc lớn nhất từ trước đến nay.Rod đã lấp đầy bãi biển Copacabana ở Rio de Janeiro ở Brazil với 3.500.000 người vào ngày 31 tháng 12 năm 1994. holds the record for the largest concert crowd ever. Rod filled the Copacabana Beach in Rio de Janeiro in Brazil with 3,500,000 people on Dec. 31st, 1994.

Nhạc kim loại nặng là gì?

Kim loại nặng (hoặc đơn giản là kim loại) là một thể loại nhạc rock phát sinh vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 chủ yếu trên khắp Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Nó có nguồn gốc từ nhạc blues, âm nhạc cổ điển và nhạc rock và nó thường được đặc trưng bởi một âm thanh lớn của sự biến dạng, solo guitar mở rộng, đánh trống đánh trống, giọng hát mạnh mẽ và nhấn mạnh vào sự ồn ào. Bản thân kim loại nặng đã sinh ra nhiều loại phụ mà thường có thể được xác định thông qua thay đổi hoặc bỏ qua một trong các thuộc tính này.

Nhà phê bình New York Times Jon Pareles đã viết: Trong phân loại của âm nhạc phổ biến, Heavy Metal là một phân loài chính của đá cứng, giống chó có ít kết hợp hơn, ít blues hơn, thể hiện nhiều hơn và nhiều lực lượng vũ phu hơn. Đội hình ban nhạc kim loại nặng điển hình bao gồm một tay trống, một tay bass, một tay guitar nhịp điệu, một tay guitar chính và một ca sĩ. & NBSP; Thỉnh thoảng, bàn phím đã được thêm vào công thức này.

Cốt lõi của âm nhạc kim loại nặng luôn nói dối trong sự ngưỡng mộ thuần túy và sức mạnh âm thanh của guitar điện, được chơi - nói chung là lớn tiếng - thông qua một bộ khuếch đại. Hầu hết các bài hát trong tính năng thể loại kim loại nặng ít nhất một bản độc tấu guitar, đó là một phương tiện chính, qua đó người biểu diễn kim loại nặng thể hiện sự điêu luyện.

Ai đã phát minh ra nhạc kim loại nặng?

Câu hỏi của người đã phát minh ra nhạc kim loại nặng? luôn luôn là một chủ đề được tranh luận dữ dội với một loạt các tiểu thể loại và nhiều hành vi đóng góp âm thanh độc đáo của riêng họ cho thể loại này.

Tuy nhiên, người ta chấp nhận rộng rãi rằng kim loại nặng về cơ bản được hình thành vào năm 1968, một năm sẽ chứng kiến ​​sự hình thành của ba trong số những người tiên phong nổi tiếng nhất thể loại, Led Zeppelin, Black Sabbath & NBSP; và màu tím đậm. Cả ba ban nhạc sẽ thu hút khán giả to lớn, nhưng bằng cách nào đó thường bị các nhà phê bình chế giễu.

Vào tháng 1 năm đó, ban nhạc San Francisco Blue Cheer sẽ phát hành một bản cover của Eddie Cochran Classic Classic Summertime Blues, từ album đầu tay của họ ‘Vincebus Eruptum, trong đó có âm thanh mới và méo mó và méo mó khiến người nghe làm rung chuyển cốt lõi. & NBSP; Điều này sẽ khiến nhiều người coi bài hát này là bản ghi âm thực sự của Heavy Heavy Metal.

Vào tháng 6 năm đó, Steppenwolf sẽ phát hành album đầu tay có tựa đề của họ, trong đó có bài hát Born Born to Be Wild, trong đó đề cập đến một bộ phim Heavy Heavy Metal Thunder trong việc mô tả một chiếc xe máy. Bản thân của Beatles có tựa đề, Album đôi (hay thường được gọi là Album White White) sẽ được phát hành vào tháng 11, với Paul McCartney đã viết thư Helter Helter Skelter, mà nhạc sĩ mang tính biểu tượng tuyên bố đã viết với ý định tuyệt đối là tạo ra Một bài hát nặng hơn so với hành động của người Anh mà người đã từng thu âm.

Trong suốt 1970 1970, nhiều ban nhạc Mỹ sẽ sửa đổi âm thanh của kim loại nặng thành các hình thức dễ tiếp cận hơn, với các ban nhạc như Alice Cooper và KISS thể hiện một bản nhạc thô hơn, sân khấu hơn; Đá blues của Aerosmith; Và tác phẩm guitar đặc biệt kết hợp với cuộc tấn công đá của bạn trong khuôn mặt của bạn của Van Halen. Di chuyển qua thập kỷ, thậm chí các hành động có ảnh hưởng hơn sẽ xuất hiện từ bên kia ao với Judas Priest gầm lên ngoài tầm ảnh hưởng của họ, Motorhead tích hợp các yếu tố nhạc punk của Eo biển tốc độ và sự gây hấn và Sabbath đen hùng mạnh - người mà thậm chí còn áp dụng các yếu tố bàn phím vào âm nhạc của họ - vẫn là động lực của những gì sẽ được gọi là 'làn sóng mới của British Heavy Metal'. Các ban nhạc như Iron Maiden và Saxon sẽ tiếp tục trong tĩnh mạch này bắt đầu vào cuối thập kỷ.

Trong cuốn sách của mình ‘metalheads, một thuật ngữ phát sinh vào cuối năm 1970, trong đó đề cập đến một cá nhân là người nghe nhạc kim loại nặng), nhà tâm lý học Jeffrey Arnett so sánh các buổi hòa nhạc kim loại nặng với cảm giác tương đương với chiến tranh. & NBSP; Một bài đánh giá năm 1977 về một buổi hòa nhạc Motorhead sẽ đưa ra một thực tế rằng khối lượng quá mức đặc biệt được tìm thấy trong tác động của ban nhạc.

Vô số các ban nhạc có ảnh hưởng trong kim loại nặng sẽ diễn ra trong suốt những năm 80 với sự xuất hiện của cảnh 'Thrash Metal' ở khu vực Vịnh San Francisco, cuộc tấn công liên tục của 'Làn sóng mới của British Heavy Metal' và The Sleazy, Booze đã ngâm Dải hoàng hôn Los Angeles đều tạo được dấu ấn đáng kể của riêng họ về thể loại này.

Death Metal và Black Metal sẽ phát sinh vào cuối thập niên 80, trong khi 90 90 sẽ được mở ra bởi kỷ nguyên Seattle ‘Grunge, sau đó là một sự cung cấp ổn định của các ban nhạc mới mạnh mẽ như Pantera, Sepultura và Rage chống lại máy. & NBSP; Cuối 90 90 sẽ sinh ra Nu-metal, khi kim loại nặng tiếp tục tách ra thành vô số các thể loại phụ khác vào năm 2000 với sự xuất hiện của ‘Grindcore,‘ Metalcore, ‘Symphonic Metal, và vô số người khác.

13 ban nhạc kim loại nặng có ảnh hưởng nhất mọi thời đại được bạn bầu chọn

Trong tháng trước, chúng tôi ở đây tại Đài phát thanh đã tải và LoadRadio.com đã lập bảng phiếu bầu của bạn cho người mà bạn nghĩ là ban nhạc kim loại nặng có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. & NBSP; Chúng tôi đã thực hiện bảng này thông qua việc bỏ phiếu tại chỗ, email đến và các yêu cầu trên không, vì vậy chúng tôi muốn đích thân cảm ơn từng người trong số các bạn đã dành thời gian để bỏ phiếu.

Đó là một quá trình khá dài, nhưng giờ đây chúng tôi đã thu hẹp các ban nhạc kim loại nặng có ảnh hưởng top 13 của mọi thời đại như được bạn bầu chọn.

Bạn có thể tìm thấy chúng dưới đây.

(adsByGoogle = window.adsByGoogle |

Số 13. - Pantera

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Họ là ban nhạc kim loại ưu việt từ đầu đến giữa những năm90, những người không bao gồm, sẽ đưa ra danh sách này không đầy đủ. & NBSP; Pantera là ban nhạc đã xóa sạch mọi tàn dư còn lại của bối cảnh kim loại của Glam của thập niên 80 hay tóc, mặc dù thực tế là một thời gian của nhóm Texas là một. & NBSP; Pantera sẽ chuyển hình ảnh và âm thanh của họ sang một bản sắc mạnh mẽ và tích cực hơn với sự phát hành của 1990, ‘Cowboys từ Hell, và bước đột phá chính thống của họ, năm 1992,‘ Vulgar Vulgar Hiển thị sức mạnh. Việc theo dõi của ban nhạc, 'Far Beyond Ratriven' năm 1994, sau đó là hai năm dài lưu diễn rộng lớn, đánh dấu đỉnh điểm của ban nhạc ra mắt trên đỉnh của Billboard Top 200, một phần là do đĩa đơn chính của bản thu âm, Tôi đã bị phá vỡ ”.

Đó là khoảng thời gian này, Pantera bắt đầu tự hủy hoại với ca sĩ chính Phil Anselmo quá liều về heroin chưa đầy hai tháng sau khi phát hành 1996, ‘The Great Southern Trendkill. Thêm vào khoảng cách giữa anh ấy và phần còn lại của ban nhạc, Anselmo cũng sẽ bắt đầu tham gia vào một danh sách ngày càng tăng các dự án phụ khiến anh ấy tránh xa Pantera. Một album trực tiếp, 1997, ‘Chính thức trực tiếp: 101 Proof, đã được phát hành khi rõ ràng rằng không có album phòng thu mới nào đến sớm. Tuy nhiên, một nỗ lực của studio cuối cùng đã kết quả với việc phát hành 2000 2000 ‘Phát minh lại thép, nhưng điều đó sẽ đánh dấu sự kết thúc của ban nhạc có ảnh hưởng đến khó tin.

Tất cả các hy vọng đã bị tan vỡ để tái hợp Pantera sau khi guitarist, Dim Dimebag, Darrell Abbott đã bị một người hâm mộ loạn trí trên sân khấu giết chết trong một chương trình Damctionplan vào ngày 8 tháng 12 năm 2004. Vào ngày 22 tháng 6 năm 2018, anh trai và tay trống của anh ấy cho ban nhạc, Vinnie Paul Abbott, sẽ chết trong nhà ở Las Vegas ở tuổi 54 do bệnh cơ tim bị giãn và bệnh động mạch vành.

Đơn giản và đơn giản, không có ban nhạc kim loại lớn hơn trong những năm đầu đến giữa năm 90 so với Pantera, người đã truyền cảm hứng cho một quân đoàn của những người hâm mộ cuồng nhiệt và phong cách của Groove Metal vẫn còn cộng hưởng cho đến ngày nay.


Số 12. - Nụ hôn

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Được hình thành trên những con đường nghiệt ngã của đầu năm 1970, thành phố New York, Kiss luôn bắt nguồn rất nhiều trong các sân khấu của Alice Cooper và The Hard Rock của Búp bê New York.

Được trang trí trong những bộ trang phục lòe loẹt và trang điểm theo phong cách Kabuki, Kiss là đứa con tinh thần của Gene Simmons (Bass, Giọng hát) và Paul Stanley (guitar nhịp điệu, giọng hát), cả hai đều từng là thành viên của ban nhạc hard rock có trụ sở tại New York. Sau khi tuyển dụng tay trống Peter Criss và tay guitar Ace Frehley, ban nhạc sẽ gây ấn tượng với nhà sản xuất Bill Aucoin, người sẽ cung cấp cho ban nhạc một hợp đồng quản lý. Hai tuần sau, Kiss sẽ ký hợp đồng với hãng thu âm non trẻ của Neil Bogart, Casablanca và phát hành album đầu tay có tựa đề vào tháng 2 năm 1974, đạt vị trí thứ 87 trên bảng xếp hạng của Hoa Kỳ. Đến tháng 4 năm 1975, Kiss đã bỏ ba album và kết hợp với chuyến lưu diễn rộng lớn của họ, đã xây dựng một lượng người hâm mộ khá lớn.

Từ rất nhiều chương trình trực tiếp đó, album ‘Alive !, Double Double đã được tạo ra và phát hành vào mùa thu năm 1975, điều này ngay lập tức làm cho các siêu sao lớn của Kiss. Phần tiếp theo, 1976, ‘Kẻ hủy diệt, sẽ trở thành album Platinum đầu tiên của nhóm và cũng sẽ có đĩa đơn Top Ten đầu tiên của họ với Peter Criss Penn và Sung Ballad Beth Beth.

Một cuộc thăm dò năm 1977 của Gallup có tên Kiss là ban nhạc nổi tiếng nhất ở Mỹ với tư cách thành viên của đội quân Kiss - Câu lạc bộ người hâm mộ ban nhạc - đạt sáu nhân vật và phát triển nhanh chóng.

Tuy nhiên, KISS sẽ bắt đầu suy giảm chậm vào năm 1978 khi cả bốn thành viên sẽ phát hành các album solo vào cùng ngày vào tháng 10 năm đó, sau đó là 'triều đại' năm 1979, mặc dù đạt đến trạng thái bạch kim, đã gây ra sự chế giễu giữa những người hâm mộ do đó là bản hit Disco của nó Tôi đã được làm cho Lovin 'You'. & Nbsp; Nó cũng sẽ đánh dấu kỷ lục cuối cùng của ban nhạc với đội hình gốc với Peter Criss để lại chỗ ngồi sau bộ trống vào năm 1980. Tay trống Eric Carr sẽ tham gia ban nhạc ngay sau đó, tuy nhiên tay guitar gốc Ace Frehley sẽ sớm rời khỏi và được thay thế bởi máy hủy tài liệu Vinnie Vincent năm 1982.

KISS would continue with numerous lineup changes throughout the 80’s, see a reunion of the original band in the 90’s and early 2000’s, have Ace and Peter leave again, and eventually settle on their current lineup of guitarist Tommy Thayer and drummer Eric Singer.

KISS are currently in the midst of their farewell ‘End Of The Road’ tour, yet will always remain an integral and influential band in the heavy metal genre, not just due to their success and live shows, but also their sheer tenacity.

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});

Number 11. – RUSH

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Canadian power trio RUSH became, and still remain, one of hard rock and early progressive metal’s most celebrated bands. RUSH were able to garner a large and devoted following among hard rock, heavy metal, and prog audiences almost from the beginning.

RUSH formed in Toronto in the fall of 1968, and was comprised of guitarist Alex Lifeson (born Alexander Zivojinovich), vocalist/bassist Geddy Lee (born Gary Lee Weinrib), and drummer John Rutsey. The band drew a “heavy” influence from acts like CREAM and BLUE CHEER and in 1974 would drop their self-titled LP, at which time Rutsey would exit and be replaced by drummer Neil Peart, who also took on the role of the band’s primary lyric writer.

RUSH would return with a fury in 1975 with a pair of LPs – ‘Fly by Night’ and ‘Caress of Steel’ – the former giving a strong radio hit with the song “Fly by Night” and the band’s first metal suite with the epic “By-Tor and the Snow Dog.” 1976’s ‘2112’ would be the act’s breakthrough: a futuristic concept album based on the writings of Ayn Rand and the first in a long line of gold and platinum releases.

‘A Farewell to Kings’ would follow in 1977 and after 1978’s ‘Hemispheres’, RUSH would achieve even higher popularity with their 1980 release ‘Permanent Waves’. After 1981’s massive hit ‘Moving Pictures’ (which would feature the band’s iconic song “Tom Sawyer”), RUSH began a seven-year period where their recorded sound was dominated by Geddy Lee’s synth playing, which culminated in 1989’s ‘Presto’.

During the ’90s, RUSH would ease into a radio hit-friendly brand of hard rock, best represented by 1996’s ‘Test for Echo’. During the band’s final days, RUSH would unleash multiple studio offerings that fused heavy rock and prog metal in sonic new ways; the last release being 2012’s ‘Clockwork Angels’. RUSH would amicably split in 2015 after Peart decided to retire from touring. He died from brain cancer in early 2020, yet RUSH still remain one of the most respected and influential acts in the history of rock music, continuing to blow new fans’ minds with their exceptional talent and incredible musicianship.

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});

Number 10. – SLAYER

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

SLAYER were always incredibly distinctive within the genre of metal from their beginnings in the early 1980s, through to their final performance in 2019. Their graphic lyrics dealing with death, dismemberment, war and hell itself coupled with their intense, chaotic guitar solos painted a chilling yet loud picture of the dark side of life (and death). The band’s pure ferocity and unwavering presentation of nothing but pure, unadulterated speed metal place SLAYER firmly among metal’s Big Four of ’80s thrash outfits along with METALLICA, MEGADETH and ANTHRAX.

SLAYER formed in 1982 in Huntington Park, California, by guitarists Kerry King and Jeff Hanneman; also recruited were bassist/vocalist Tom Araya and drummer Dave Lombardo. The band would start out playing JUDAS PRIEST and IRON MAIDEN covers, but quickly discovered that they could get more notoriety by indoctrinating Satanic imagery into their act. Two EPs, ‘Haunting the Chapel’ and ‘Live Undead’, would be released in 1984, but it was 1985’s ‘Hell Awaits’ that would win SLAYER a rabid cult following.

Def Jam co-founder Rick Rubin signed them to his label, and would contribute the first high-end production heard on any SLAYER album for the iconic ‘Reign in Blood’, which became an instant classic and is still hailed by many as the greatest speed metal album of all time.

SLAYER’s next outing, 1988’s ‘South of Heaven’, would disappoint some of the band’s more hardcore followers yet still delivered a metal offensive that is still practiced in bedrooms and garages by budding metalhead guitarists to this day while 1990’s ‘Seasons in the Abyss’ would go on to be well-received in all respects as the quintessential SLAYER album.

Despite a few back and forth lineup changes to the drummer spot, a couple of not so well received albums and the unfortunate death of co-founding guitarist Jeff Hanneman who died of liver failure at 49, SLAYER endured and continued to conquer. EXODUS shredder Gary Holt – who had filled in for Hanneman when he was seriously ill with necrotizing fasciitis in 2011 – joined as his permanent replacement, and the band would announce what would become their farewell tour in 2018. To commemorate the historic milestone, SLAYER would release a special concert film, ‘The Repentless Killogy’, which paired a short movie with a full performance filmed in 2017 at the Los Angeles Forum – the venue of SLAYER’s final show on November 30, 2019 – leaving a floor covered with sweat and blood and a monstrous legacy.

(adsByGoogle = window.adsByGoogle |

Số 9. - Ronnie James Dio

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Ronnie James Dio chắc chắn là một trong những giọng ca tài năng và nhận dạng ngay lập tức nhất của Metal Metal. Đến từ Portsmouth, New Hampshire, Ronnie (sinh ra Ronald James Padavonaon vào ngày 10 tháng 7 năm 1942), bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình từ khi còn nhỏ, chơi bass và kèn cho một ban nhạc địa phương có tên là The Vegas Kings. Ban nhạc sẽ thay đổi tên của họ nhiều lần cho đến cuối thập niên 60 khi nhóm trở thành người yêu tinh, và cuối cùng chỉ đơn giản là Elf (với Dio tập trung vào giọng hát chính và đổi tên thành Ronnie James Dio). & NBSP; Vào năm 1972, ban nhạc sẽ đảm bảo một hợp đồng thu âm với một album đầu tay được sản xuất bởi tay bass màu tím sâu sắc Roger Glover nhưng cuối cùng sẽ hợp nhất với tay guitar màu tím sâu sắc Ritchie Blackmore, nhóm mới, Rainbow.

Những album album khổng lồ như 1975, ‘Ritchie Blackmore, Rainbow Rainbow, 1976,‘ Rising, Rising, 1977, ‘trên sân khấu, và 1978,‘ Long Live Rock ‘Niêu Roll, đã giới thiệu khả năng giọng hát mạnh mẽ của Dio, với khối lượng kim loại nặng trên toàn thế giới. & NBSP; Blackmore cuối cùng sẽ làm cho nó biết rằng Rainbow trên thực tế là ban nhạc của anh ấy, khiến Dio bỏ trống và ngay sau khi tham gia các biểu tượng kim loại nặng Sabbath Black Sabbath sau khi bị lật đổ của thủ lĩnh Ozzy Osbourne.

Nhóm kết quả sẽ cung cấp cho chúng tôi các mặt hàng chủ lực kim loại nặng như 1980, ‘Heaven and Hell, và 1981,‘ Mob Rules, nhưng Dio sẽ bỏ vị trí của mình trong ban nhạc vào năm 1982 để tạo thành dự án solo của riêng mình, được gọi là Dio.

Hai album solo đầu tiên của Dio, 1983, ‘Holy Diver, và 1984,‘ Last Line, sẽ thành lập ca sĩ như một người đứng đầu đấu trường theo cách riêng của mình. Vào đầu những năm 90, Ronnie đã sửa đổi sự khác biệt của mình với Black Sabbath và thấy mình đứng đầu ban nhạc một lần nữa cho 1992, ‘Dehumanizer, và sau đó một lần nữa vào năm 2006 khi cả hai bên sẽ thành lập Heaven and Hell - được đặt theo tên của album khai mạc của Sabbath với Dio. Heaven and Hell sẽ lưu diễn trong suốt năm 2007 và phát hành bản ghi âm đầy đủ ‘Devil You Know, vào năm 2009. Tuy nhiên, vào tháng 11 năm đó, vợ của Dio, Wendy tuyên bố rằng ca sĩ đang bị ung thư dạ dày. Đáng buồn thay, Ronnie James Dio đã chịu thua căn bệnh này vào ngày 16 tháng 5 năm 2010, để lại một trong những di sản lớn nhất và đáng nhớ nhất trong Heavy Metal.


Số 8. - Ozzy Osbourne

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Mặc dù danh tiếng của mình, không ai có thể phủ nhận rằng Ozzy Osbourne đã có tác dụng vô cùng đối với toàn bộ kim loại nặng. Là một thủ lĩnh, Osbourne đã cố gắng thành lập mình như một siêu sao quốc tế, có khả năng bán hàng triệu bản thu âm với mỗi album và sân vận động đóng gói trên toàn cầu với mỗi tour du lịch mà anh ấy thực hiện.

Sinh ra John Michael Osbourne, Ozzy bắt đầu sự nghiệp vào cuối thập niên 60, khi anh hợp tác với tay guitar Tony Iommi, tay bass Geezer Butler và tay trống Bill Ward để thành lập Black Sabbath ở Birmingham, Anh. Ban nhạc sẽ tiếp tục thành công lớn, phát hành các bản thu âm bạch kim cổ điển như ‘hoang tưởng và‘ Master of Reality trong suốt phần còn lại của thập kỷ. Tuy nhiên, đó là sau album năm 1978 ‘Never Say Die, rằng Osbourne đã được chiếu cửa từ Black Sabbath, dẫn anh ta tiếp tục và thành lập dự án solo của riêng mình.

Với người quản lý mới và người vợ cuối cùng Sharon, Ozzy đã thành lập ban nhạc ‘Blizzard of Ozz, với tay guitar Randy Rhoads, tay bass Bob Daisley và tay trống Lee Kerslake. Album đầu tiên có tựa đề của nhóm được phát hành vào tháng 9 năm 1980 tại Hoa Kỳ và đầu năm 1981 tại Hoa Kỳ và có sự góp mặt Crowley.

Ozzy sẽ bị buộc tội tàn ác động vật do một sự cố xảy ra vào khoảng thời gian này, khi trong một trong những buổi hòa nhạc của anh ấy, một người hâm mộ sẽ ném những gì Osbourne nghĩ là một con dơi nhựa trên sân khấu. & NBSP; Ozzy, người biểu diễn thực sự rằng anh ta, sẽ tiến hành cắn nó, nó đã tạo ra một trong những huyền thoại đô thị khét tiếng nhất của Metal Metal. Ngay sau đó, & nbsp; Rhoads đã bị giết trong một vụ tai nạn máy bay, khiến ban nhạc thành công dừng lại.

Jake E. Lee sẽ trở thành tay guitar mới của Ozzy cho album năm 1984 'Bark at the Moon' và 'Ultimate Sin' năm 1986, một năm cũng sẽ thấy Osbourne bị buộc tội khuyến khích tự tử trong số những người nghe thông qua việc sử dụng các thông điệp thăng hoa trong bài hát của anh ấy , Một bài hát mà ông tuyên bố đã được viết về ảnh hưởng của lạm dụng rượu. Lee đã sớm rời khỏi ban nhạc và được thay thế bằng guitar Virtuoso Zakk Wylde, người sẽ ở lại với Ozzy trong nhiều năm tới, thông qua việc nghỉ hưu thất bại, trở lại với nhạc sống và tạo ra Ozzfest - một gói tour có sự góp mặt của Ozzy cùng với Ozzy cùng với Một số ban nhạc kim loại khác trong một lễ hội khổng lồ.

Ozzy sẽ trở lại cuối cùng với Black Sabbath vào giữa năm 90 và bắt đầu một chuyến lưu diễn đoàn tụ cực kỳ thành công, và sau đó là tiêu đề phiên bản 1999 của Ozzfest. Sabbath sẽ vào hãng phim với nhà sản xuất Rick Rubin vào năm 2013 để đưa ra album phòng thu mới đầu tiên của họ với Ozzy ở vị trí phía trước kể từ năm 1978. & NBSP; Album kết quả, Hồi13, sẽ là album cuối cùng cho Black Sabbath với việc nghỉ hưu cuối cùng vào năm 2017.

Tuy nhiên, bằng cách nào đó Ozzy vẫn chịu đựng. Mặc dù nghiện ma túy và rượu, sự phục hồi cuối cùng của anh ấy, một chương trình thực tế truyền hình toàn cầu, các vấn đề hôn nhân và thậm chí gần như mất mạng trong một tai nạn ATV, Ozzy Osbourne vẫn là một trong những cha đỡ đầu của Metal Metal.

(adsByGoogle = window.adsByGoogle |

Số 7. - Deep Purple

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Deep Purple, cùng với Led Zeppelin và Black Sabbath, đã được gọi là bộ ba không lành mạnh của đá hard hard và kim loại nặng của Anh vào đầu những năm nay đến giữa những năm bảy mươi. Chúng được liệt kê trong Sách kỷ lục Guinness năm 1975 của Guinness với tư cách là ban nhạc lớn nhất thế giới, cho buổi hòa nhạc năm 1972 tại Nhà hát London Rainbow Rainbow và đã bán được hơn 100 triệu album trên toàn thế giới. Kim loại nặng như chúng ta biết ngày nay sẽ không nghe như nó không phải là màu tím sâu. Nó thậm chí có thể không tồn tại. Đó chỉ là tầm quan trọng của ban nhạc đối với thể loại kim loại nặng nói chung.

Deep Purple hình thành ở Hertford, Hertfordshire vào năm 1968 và được coi là một trong những người tiên phong của thể loại là kim loại nặng. Ban nhạc ban đầu sẽ bắt đầu, giống như nhiều nhóm khác vào cuối những năm sáu mươi, như một hành động rock ảo giác và có phần tiến bộ. Tuy nhiên, điều đó sẽ thay đổi với album năm 1970 ‘Deep Purple in Rock, trong đó thể hiện âm thanh nặng hơn cho ban nhạc, hoàn chỉnh với những cây đàn guitar bị bóp méo, tiếng kêu và các cơ quan la hét.

Deep Purple sẽ tiếp tục mang đến âm thanh nặng nề, lái xe của họ với các bản phát hành mang tính biểu tượng như 'Fireball, năm 1972,' Head Head 'và album trực tiếp' Made in Japan 'được phát hành trong cùng năm đó, củng cố hành động như một lực lượng vũ phu để trở thành Được tính toán trong một trong những thời đại quan trọng và đang phát triển nhất của nhạc rock. Điều đó đang được nói, Deep Purple đã chứng kiến ​​nhiều thay đổi nhân sự về sự tồn tại của họ, với đội hình năm 1968191976 thường được dán nhãn lần lượt là Mark I, II, III và IV. Đội hình thứ hai và thành công nhất về mặt thương mại của họ bao gồm Ian Gillan (giọng hát) và Roger Glover (bass), tham gia các thành viên sáng lập Jon Lord (bàn phím), Ian Paice (trống) và Ritchie Blackmore (guitar). Từ năm 1974 đến 1976, ban nhạc bao gồm David Coverdale (giọng hát chính) và Glenn Hughes (bass, giọng hát) (với Tommy Bolin thay thế Blackmore vào năm 1975), và từ năm 1989 đến 1992, ban nhạc có giọng nói của thủ lĩnh Joe Lynn Turner. Đội hình hiện tại của Deep Purple (bao gồm Ian Gillan và tay guitar Steve Morse, người đã ở với nhóm từ năm 1994) đã ổn định hơn nhiều trong những năm gần đây, mặc dù sau khi bàn phím Jon Lord nghỉ hưu từ nhóm năm 2002 (được thay thế bởi Don Airey), tay trống Ian Paice sẽ vẫn là thành viên ban đầu duy nhất của ban nhạc.

Deep Purple (cụ thể là Blackmore, Lord, Paice, Gillan, Glover, Coverdale, Evans và Hughes) cuối cùng cũng sẽ thấy cảm ứng vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 2016, đặt hành động trong tiếng vang cao nhất của âm nhạc các nhóm.

(adsByGoogle = window.adsByGoogle |

Số 7. - Deep Purple

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Deep Purple, cùng với Led Zeppelin và Black Sabbath, đã được gọi là bộ ba không lành mạnh của đá hard hard và kim loại nặng của Anh vào đầu những năm nay đến giữa những năm bảy mươi. Chúng được liệt kê trong Sách kỷ lục Guinness năm 1975 của Guinness với tư cách là ban nhạc lớn nhất thế giới, cho buổi hòa nhạc năm 1972 tại Nhà hát London Rainbow Rainbow và đã bán được hơn 100 triệu album trên toàn thế giới. Kim loại nặng như chúng ta biết ngày nay sẽ không nghe như nó không phải là màu tím sâu. Nó thậm chí có thể không tồn tại. Đó chỉ là tầm quan trọng của ban nhạc đối với thể loại kim loại nặng nói chung.

Deep Purple hình thành ở Hertford, Hertfordshire vào năm 1968 và được coi là một trong những người tiên phong của thể loại là kim loại nặng. Ban nhạc ban đầu sẽ bắt đầu, giống như nhiều nhóm khác vào cuối những năm sáu mươi, như một hành động rock ảo giác và có phần tiến bộ. Tuy nhiên, điều đó sẽ thay đổi với album năm 1970 ‘Deep Purple in Rock, trong đó thể hiện âm thanh nặng hơn cho ban nhạc, hoàn chỉnh với những cây đàn guitar bị bóp méo, tiếng kêu và các cơ quan la hét.

Deep Purple sẽ tiếp tục mang đến âm thanh nặng nề, lái xe của họ với các bản phát hành mang tính biểu tượng như 'Fireball, năm 1972,' Head Head 'và album trực tiếp' Made in Japan 'được phát hành trong cùng năm đó, củng cố hành động như một lực lượng vũ phu để trở thành Được tính toán trong một trong những thời đại quan trọng và đang phát triển nhất của nhạc rock. Điều đó đang được nói, Deep Purple đã chứng kiến ​​nhiều thay đổi nhân sự về sự tồn tại của họ, với đội hình năm 1968191976 thường được dán nhãn lần lượt là Mark I, II, III và IV. Đội hình thứ hai và thành công nhất về mặt thương mại của họ bao gồm Ian Gillan (giọng hát) và Roger Glover (bass), tham gia các thành viên sáng lập Jon Lord (bàn phím), Ian Paice (trống) và Ritchie Blackmore (guitar). Từ năm 1974 đến 1976, ban nhạc bao gồm David Coverdale (giọng hát chính) và Glenn Hughes (bass, giọng hát) (với Tommy Bolin thay thế Blackmore vào năm 1975), và từ năm 1989 đến 1992, ban nhạc có giọng nói của thủ lĩnh Joe Lynn Turner. Đội hình hiện tại của Deep Purple (bao gồm Ian Gillan và tay guitar Steve Morse, người đã ở với nhóm từ năm 1994) đã ổn định hơn nhiều trong những năm gần đây, mặc dù sau khi bàn phím Jon Lord nghỉ hưu từ nhóm năm 2002 (được thay thế bởi Don Airey), tay trống Ian Paice sẽ vẫn là thành viên ban đầu duy nhất của ban nhạc.

Deep Purple (cụ thể là Blackmore, Lord, Paice, Gillan, Glover, Coverdale, Evans và Hughes) cuối cùng cũng sẽ thấy cảm ứng vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 2016, đặt hành động trong tiếng vang cao nhất của âm nhạc các nhóm.

Nửa sau của sự nghiệp ban nhạc đã chứng kiến ​​một loạt các tour du lịch kỷ lục mang lại cho Led Zeppelin một danh tiếng về sự dư thừa và đồi trụy. Ban nhạc sẽ duy trì một thành công lớn và theo sau, nhưng khi 70 Lừa kết thúc, ban nhạc đã tăng phần hạn chế trong sự hợp tác của họ với nhau, và cuối cùng đã tan rã hoàn toàn sau cái chết của John Bonham vào năm 1980.

Led Zeppelin được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll năm 1995; Tiểu sử của bảo tàng của ban nhạc nói rằng họ là người có ảnh hưởng đến những năm 1970 như The Beatles trong những năm 1960.


Số 5. - Motörhead

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022
Motorhead, phong cách lớn và nhanh chóng của kim loại nặng là một trong những âm thanh đột phá nhất mà thể loại này đã cung cấp vào cuối những năm 1970. Người lãnh đạo của nhóm, Lemmy Kilmister, đã tạo ra xương của mình trong ban nhạc rock không gian hạng nặng Hawkwind, nhưng với Motorhead, anh không muốn tiếp tục với âm thanh, âm thanh tiến bộ của nhóm cũ, thay vào đó chọn rộng rãi các yếu tố đá của Hawkwind với tốc độ và tốc độ Sự xâm lược của punk.

Lemmy (sinh ra Ian Fraiser Kilmister, ngày 24 tháng 12 năm 1945) được sinh ra là con trai của một cha xứ và lần đầu tiên bắt đầu sự nghiệp của mình ở Rock and Roll vào năm 1964, làm việc ngắn gọn như một người đi đường cho Jimi Hendrix. Năm 1971, anh sẽ tham gia bộ trang phục Prog Rock Hawkwind với tư cách là tay bass của họ, nhưng sẽ thấy mình bị đuổi khỏi nhóm vào mùa xuân năm 1975 sau khi trải qua năm ngày trong một nhà tù Canada để chiếm hữu ma túy. & NBSP; Khi trở về nước Anh, Kilmister đã lên đường thành lập một ban nhạc mới ban đầu được cho là được gọi là Bast Bastard, tuy nhiên Lemmy đã sớm quyết định về Motörhead, được đặt theo tên của bài hát cuối cùng mà anh viết cho Hawkwind.

Bất chấp những gì lúc đầu dường như là một cánh cửa xoay vòng nhân sự trong Motorhead, bộ trang phục cuối cùng đã giải quyết với đội hình cổ điển của Lemmy, guitarist Eddie Clarke và tay trống Phil Taylor.

Việc phát hành album 'Ace of Spades' vào mùa thu năm 1980 sẽ mang lại cho hành động một cú hích đáng kể về mặt thương mại, trở thành một cú đánh số bốn Trong giai đoạn này, đã có sự căng thẳng trong ban nhạc, đặc biệt là giữa tay guitar, Fast Fast Eddie Clarke và Lemmy, điều này sẽ dẫn đến việc Clarke rời khỏi ban nhạc trong chuyến lưu diễn hỗ trợ cho 'Iron Fist' năm 1982.

Mặc dù tiếp tục thay đổi đội hình, Motorhead sẽ tiếp tục leo lên ngọn núi đến trạng thái biểu tượng kim loại nặng. Mikkey Dee, trước đây của King Diamond sẽ tiếp quản trống vào năm 1992, đúng lúc album ‘March or Die, mà đã làm biểu đồ ở Hoa Kỳ dẫn đến hành động bị bỏ nhãn của họ. & NBSP; Vì vậy, ban nhạc bắt đầu, được gọi một cách thích hợp ‘Motorhead, được phân phối qua Zyx.

Motorhead có thể đã thấy nó chia sẻ về các thay đổi đội hình, với Lemmy, người đã qua đời vào năm 2015, là thành viên gốc duy nhất của Act Act, tuy nhiên ban nhạc đã được ca ngợi là một trong những hành động có ảnh hưởng nhất của Metal Metal và không bao giờ đi lạc khỏi âm thanh hoành hành của họ.


Số 4. - linh mục Judas

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Judas Priest được thành lập tại Birmingham, Anh vào năm 1969. Họ đã bán được hơn 50 triệu album trên toàn thế giới và thường được xếp hạng là một trong những ban nhạc kim loại nặng nhất mọi thời đại.

Tư cách thành viên của ban nhạc đã chứng kiến ​​một lượng lớn doanh thu, bao gồm cả một chiếc ghế quay phía sau bộ trống vào những năm 1970 và sự ra đi của ca sĩ Rob Halford năm 1992. Ca sĩ người Mỹ Tim Hồi Ripper, Owens sẽ bước vào để thay thế Halford vào năm 1996 và cũng ghi lại Hai album với Judas Priest, trước khi Halford sẽ trở lại ban nhạc vào năm 2003. Đội hình hiện tại bao gồm Halford, guitarist Glenn Tipton và Richie Faulkner, tay bass Ian Hill và tay trống Scott Travis. Album bán chạy nhất của ban nhạc là 1982, ‘Screaming for Vengeance, với đội hình thành công nhất về mặt thương mại của họ với Hill, Halford, Tipton, Guitarist K. K. Downing, và tay trống Dave Holland. Tipton và Hill là hai thành viên duy nhất của ban nhạc xuất hiện trong mỗi album của Judas Priest.

Khả năng giọng hát hoạt động của Rob Halford, cùng với âm thanh guitar đôi của Downing và Tipton đã được trích dẫn là những ảnh hưởng lớn đối với các ban nhạc kim loại nặng trên toàn thế giới. Hình ảnh của Judas Priest, về da, gai và các vật phẩm kiểu BDSM khác của quần áo có ảnh hưởng rộng rãi trong kỷ nguyên kim loại quyến rũ của những năm 1980. Mặc dù có một sự suy giảm ngắn gọn về sự tiếp xúc vào giữa những năm 1990, ban nhạc đã một lần nữa chứng kiến ​​sự hồi sinh lớn trong hai thập kỷ qua, bao gồm các tour du lịch trên toàn thế giới, nhận được giải thưởng Grammy cho màn trình diễn kim loại hay nhất trong năm 2010, và có các bài hát của họ trong các trò chơi video và trò chơi điện tử và phim truyện.

JUDAS PRIEST were on the nomination ballot the Rock and Roll Hall of Fame’s class of 2020 yet were not elected, leading to widespread panning of the institution and the mass questioning of the organization’s reputability.  And rightfully so.

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});

Number 3. – IRON MAIDEN

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

IRON MAIDEN are easily one of heavy metal’s most influential bands of all time. They’re also one of metal’s most enduring and distinctive groups, thanks to their melodic guitars, vivid songwriting, theatrical powerhouse vocals, and a mascot named Eddie. One of the first groups to be classified as “British metal,” IRON MAIDEN helped set the rock scene for the ’80s and inspired generations of subsequent bands, including the likes of METALLICA, SLIPKNOT, DREAM THEATER and countless others.

IRON MAIDEN were formed in 1975 in Leyton, East London by bassist Steve Harris, who was fresh out of his previous band “Smiler”. The group’s lineup was rather unstable during their early years, but eventually settled on drummer Doug Sampson, guitarist Dave Murray, and vocalist Paul Di’Anno in 1978. Late in 1979, Sampson would leave due to health issues and former SAMSON drummer Clive Burr would step in to take his place .

IRON MAIDEN’s self-titled debut album arrived in 1980 and became a U.K. hit due to the song “Running Free.” Its 1981 follow-up, ‘Killers’, had a much heavier and slick sound thanks in part to producer Martin Birch — with whom the band would work with until his 1992 retirement — and also saw the replacement of guitarist Stratton with Murray’s childhood friend Adrian Smith. Di’Anno was dismissed from IRON MAIDEN after the ‘Killer World’ Tour in 1981 due to substance abuse issues affecting his performance and was replaced by Bruce Dickinson, another former SAMSON member who joined that September and made his debut on 1982’s groundbreaking ‘The Number of the Beast’ release.

Along with the record’s massive success came offended Christian activists and conservative politicians throughout the United States who claimed the band were Satanic and affecting the youthful, impressionable minds of the youth of America. Nevertheless, The Number of the Beast’s triumph would make IRON MAIDEN international superstars, and with the replacement of drummer Clive Burr with former TRUST stickman Nicko McBrain, the iconic lineup of IRON MAIDEN was formed and charged onward, leaving thousands upon thousands of screaming fans in their wake.

Ex-GILLAN guitarist Janick Gers would join the fold for 1990’s ‘No Prayer for the Dying’ after Smith’s departure while lead singer Bruce Dickinson would stick around for one more album, 1992’s ‘Fear Of The Dark’ before vacating the band with the intention of creating his own music. MAIDEN would endure however and return with 1995’s ‘The X Factor’, which featured new singer and ex-WOLFSBANE member Blaze Bayley. Its follow-up, 1998’s ‘Virtual XI’, was one of the band’s lowest-selling albums, seeing Bayley leave the group in 1999 and the return of Dickinson and Smith soon after.

Despite a lack of radio airplay or mainstream media support, early allegations of Satanism, and a revolving lineup, IRON MAIDEN have consistently remained one of the most important, successful and influential heavy metal bands of all time.


Number 2. – METALLICA

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Way before the massive tours, multi platinum albums and headlining of major rock and metal festivals, METALLICA was formed in 1981 in Los Angeles by vocalist/guitarist James Hetfield and drummer Lars Ulrich (the band would, however, become based out of San Francisco for the majority of their illustrious career).

The name “METALLICA” can be credited to a friend of Ulrich’s named Ron Quintana, who was brainstorming names for a metal fanzine and was considering either “MetalMania” or “Metallica”. Upon hearing the two names, Ulrich wanted METALLICA for his own band, so he suggested Quintana use “MetalMania” instead. Guitarist Dave Mustaine would reply to an advertisement for a lead guitarist and be recruited after Ulrich and Hetfield saw all of his expensive guitar equipment. In early 1982, the band would record their first original song, “Hit the Lights”, for the Metal Massacre I compilation with early pressings listing the band incorrectly as “Mettallica”. The song however would generate word of mouth and the band played their first live performance on March 14, 1982, at Radio City in Anaheim, California, with newly recruited bassist Ron McGovney.

In late 1982, Ulrich and Hetfield attended a show at the West Hollywood nightclub Whisky a Go Go, which featured bassist Cliff Burton in the band TRAUMA. The two were “blown away” by Burton’s use of a wah-wah pedal – believing at first that Burton was in fact the band’s lead guitar player before discovering that he was shredding lead solos on a bass – and asked him to join METALLICA as Hetfield and Mustaine wanted McGovney out, feeling that he “didn’t contribute anything and “just followed along”. Although Burton initially declined the offer, by the end of the year, he had accepted on the condition that the band move to El Cerrito in the San Francisco Bay Area. METALLICA’s first live performance with Burton was at the nightclub “The Stone” in March of 1983, and the first recording to feature Burton in the band was the 1983 Megaforce Records demo.

Sau khi lật đổ Mustaine (người sẽ tiếp tục thành lập Megadeth như tất cả chúng ta bây giờ), và thay thế anh ta bằng guitar exodus Kirk Hammett, Metallica sẽ kiếm được một lượng người hâm mộ ngày càng tăng trong cộng đồng âm nhạc ngầm và cuối cùng giành được sự hoan nghênh quan trọng với năm album đầu tiên của họ. Album thứ ba của ban nhạc, 1986, ‘Master of Puppets, đã được mô tả là một trong những bản thu âm nặng nhất và quan trọng nhất trong không chỉ Thrash mà cả Heavy Metal nói chung. Album thứ năm cùng tên của họ, 1991, ‘Metallica, hay The Black Album, vì nó đã được biết đến một cách trìu mến, sẽ thu hút khán giả chính hơn, đạt được thành công thương mại đáng kể và bán hơn 16 triệu bản tại Hoa Kỳ cho đến nay.

Metallica sẽ trở lại với rễ kim loại thrash của họ với việc phát hành album phòng thu thứ chín của họ, 2008, ‘Death Magnetic, đã thu hút sự khen ngợi tương tự của ban nhạc phát hành trước đó. Album gần đây nhất của họ, 2016, ‘Hardwired, Hardwired để tự hủy hoại bản thân đã gặp gỡ những lời khen ngợi tương tự.

Ban nhạc đã bán được hơn 125 triệu kỷ lục cho đến nay trên toàn thế giới, bao gồm 66 triệu được chứng nhận RIAA và Nielsen Soundcan được báo cáo 58.000.000 ở Mỹ, biến Metallica trở thành một trong những ban nhạc thành công nhất mọi thời đại.

(adsByGoogle = window.adsByGoogle |

Số.1 - Sabbath đen

5 ban nhạc kim loại hàng đầu mọi thời đại năm 2022

Black Sabbath là một tổ chức kim loại nặng có ảnh hưởng đến toàn bộ thể loại không thể được cường điệu hóa. Có một lý do dứt khoát tại sao họ được bình chọn là ban nhạc kim loại nặng có ảnh hưởng số 1 nhất mọi thời đại và ngồi trên đầu danh sách này. Black Sabbath là ban nhạc tiên phong trong kim loại nặng, xây dựng khuôn khổ cho các phân nhóm kim loại tiếp theo, mặc dù đã chiến đấu lớn, thay đổi đội hình và các vấn đề lạm dụng chất gây nghiện.

Từ cuối thập niên 60 và trong suốt thập niên 70, ngày Sa -bát đen được biết đến với những người chơi guitar Tony Iommi, những dòng bass sấm sét của Geezer Butler, tiếng trống tích cực của Bill Ward và giọng hát nguyên thủy của Ozzy Osbourne kết hợp với nhau Tuy nhiên, giống như đá cứng của đá cứng.

Hình thành vào năm 1968 dưới cái tên Band The Polka Tulk Blues Band, Iommi và Ward, người vừa rời khỏi ban nhạc Thần thoại, đã tranh thủ Butler và Osbourne, cả hai đã chơi cùng nhau trong một nhóm có tên là Rare Rare Breed, trong một Cố gắng tạo ra một ban nhạc âm thanh dứt khoát hơn.

Sau khi thay đổi tên của họ thành từ Earth Earth, ban nhạc cuối cùng đã giải quyết được biệt danh của Black Sabbath, sau khi Osbourne và Butler viết một bài hát được lấy cảm hứng từ bộ phim kinh dị cùng tên của Boris Karloff năm 1963.

Đội hình ban đầu này chịu trách nhiệm cho những kiệt tác kim loại như 1970, ‘Paranoid, và 1971,‘ Master of Reality, nhưng khi Ozzy bị sa thải khỏi nhóm năm 1979, Black Sabbath sẽ tiếp tục với cựu thủ lĩnh Ronbow Ronnie James Dio về nhiệm vụ của giọng hát. Giọng nói mạnh mẽ của Dio, đã chứng tỏ là sự phù hợp hoàn hảo cho ban nhạc, người sẽ tiếp tục phát hành 1980, ‘Thiên đường và địa ngục & NBSP; Và 1981, ‘Mob Rules, thì sau này cũng sẽ có tay trống mới Vinny Appice đằng sau bộ dụng cụ.

Trích dẫn một sự sụp đổ với Iommi và Butler, Dio và Appice rời nhóm giữa việc trộn album 'Evil Evil', mở đường cho ca sĩ Deep Purple Ian Gillan tham gia album 'Sinh trở lại năm 1983, được chứng minh là một Thất bại nghiêm trọng. Black Sabbath văng ra một lần nữa vào thời điểm này để lại Iommi với tư cách là thành viên ban đầu duy nhất.

Sau nhiều thay đổi về đội hình và một cuộc hội ngộ ngắn với Dio và Appice cho album 'Dehumanizer' năm 1992, Iommi, Butler, Ward và Osbourne cuối cùng sẽ kết nối lại vào năm 1997, lên đến đỉnh điểm trong việc phát hành bản nhạc GRAMMY Metal Perform Album 'Reunion'. Được phát hành vào năm 2013, '13' do Rick Rubin sản xuất, cũng đã mang về một giải Grammy cho đĩa đơn của Chúa đã chết? Do không thể đồng ý về hợp đồng) sẽ công bố chuyến đi cuối cùng trên toàn thế giới. Chuyến lưu diễn có tên là The End End, kết thúc tại quê hương Birmingham của họ, Anh đã chứng kiến ​​Sabbath đen hùng mạnh kết thúc sự nghiệp gần 50 năm và củng cố di sản của họ như những người cha đỡ đầu thực sự của kim loại nặng.


& nbsp;-Scott Penprint là giám đốc chương trình của Đài phát thanh đã tải cũng như một nhà văn và tính cách trên không.

Ai được coi là ban nhạc kim loại vĩ đại nhất mọi thời đại?

Họ đã theo dõi điều này với một trong những bản hit mang tính biểu tượng nhất của họ, Ace Ace of Spades, và một album cùng tên vào năm tới. Motorhead vẫn có ảnh hưởng trong các cảnh kim loại và punk ngày nay và được nhiều người coi là ban nhạc kim loại vĩ đại nhất mọi thời đại.Motörhead remains influential in the metal and punk scenes today and is considered by many to be the greatest metal band of all time.

Ban nhạc kim loại số 1 là gì?

1 Metallica Metallica là một ban nhạc kim loại nặng/thrash của Mỹ được thành lập vào năm 1981.Đội hình ban đầu là James Hetfield (ca sĩ và nghệ sĩ guitar nhịp điệu), Dave Mustaine (guitar chính), Lars Ulrich (trống), Ron McGovney (bassist).Metallica Metallica is an American Heavy/Thrash Metal band formed in 1981 . The original lineup was James Hetfield (Vocalist and Rhythm guitarist), Dave Mustaine (Lead Guitar), Lars Ulrich (Drums), Ron McGovney (Bassist).

10 kim loại hàng đầu là gì?

10 kim loại mạnh nhất trên trái đất là gì ?..
1.1.1 1. Vonfram ..
1.1.2 2. Chromium ..
1.1.3 3. Titanium ..
1.1.4 4. Gadolinium ..
1.1.5 5. Sắt ..
1.1.6 6. Vanadi ..
1.1.7 7. Lutetium ..
1.1.8 8. Zirconium ..

10 ban nhạc kim loại phổ biến nhất là gì?

Không cần phải quảng cáo thêm nữa, hãy nhảy vào 10 ban nhạc kim loại hàng đầu tốt nhất của chúng tôi mọi thời đại !..
Slipknot..
Xác chết ăn thịt người.....
Megadeth.....
Judas Priest.....
Helloween.....
METALLICA.....
Thiếu nữ.....
Sabbath đen.....