20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Dưới dây là danh sách chi tiết dân số của các quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới, được sắp xếp theo thứ tự từ các nước có dân số lớn nhất đến nước có dân số nhỏ nhất. Danh sách bao gồm ba phần chính gồm: Tên quốc gia/vùng lãnh thổ, dân số của mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ, và thời điểm thống kê dân số.

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Theo Rever tìm hiểu, tổng dân số thế giới tính đến thời điểm tháng 12 năm 2020 là 7.834.412.631 người.

Top 3 quốc gia có dân số lớn nhất thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ. Dân số Việt Nam hiện xếp thứ 15 trên thế giới với 98.361.025 người.

Chi tiết bảng dân số các quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới. Nguồn dữ liệu Wikipedia.

STT

Quốc gia / Lãnh thổ

Dân số

Thời điểm thống kê

-

Thế giới

7.834.412.631

Tháng 12, 2020

1

Trung Quốc

1.441.457.889

Tháng 12, 2020

2

Ấn Độ

1.412.366.812

Tháng 12, 2020

3

Hoa Kỳ

331.951.114

Tháng 12, 2020

4

Indonesia

274.974.541

Tháng 12, 2020

5

Pakistan

223.055.581

Tháng 12, 2020

6

Brasil

213.241.687

Tháng 12, 2020

7

Nigeria

208.822.767

Tháng 12, 2020

8

Bangladesh

165.483.192

Tháng 12, 2020

9

Nga

145.881.253

Tháng 12, 2020

10

México

129.585.276

Tháng 12, 2020

11

Nhật Bản

126.242.694

Tháng 12, 2020

12

Ethiopia

116.436.311

Tháng 12, 2020

13

Philippines

110.314.366

Tháng 12, 2020

14

Ai Cập

103.300.783

Tháng 12, 2020

15

Việt Nam

98.361.025

Tháng 12, 2020

16

CHDC Congo

90.998.144

Tháng 12, 2020

17

Thổ Nhĩ Kỳ

84.600.158

Tháng 12, 2020

19

Iran

84.491.635

Tháng 12, 2020

18

Đức

82.655.329

Tháng 12, 2020

20

Thái Lan

69.863.858

Tháng 12, 2020

21

Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland

68.047.285

Tháng 12, 2020

22

Phápn3

65.352.929

Tháng 12, 2020

23

Tanzania

60.620.436

Tháng 12, 2020

24

Ý

60.409.184

Tháng 12, 2020

25

Nam Phi

59.676.951

Tháng 12, 2020

26

Myanmar

54.621.551

Tháng 12, 2020

27

Kenya

54.388.177

Tháng 12, 2020

28

Hàn Quốc

51.281.285

Tháng 12, 2020

29

Colombia

51.075.272

Tháng 12, 2020

30

Tây Ban Nha

46.749.975

Tháng 12, 2020

31

Uganda

46.435.491

Tháng 12, 2020

32

Argentina

45.398.760

Tháng 12, 2020

33

Algérie

44.235.569

Tháng 12, 2020

34

Ukraina

43.595.656

Tháng 12, 2020

35

Sudan

44.392.295

Tháng 12, 2020

36

Iraq

40.716.995

Tháng 12, 2020

37

Afghanistan

39.387.755

Tháng 12, 2020

39

Canada

37.902.912

Tháng 12, 2020

39

Ba Lan

37.821.691

Tháng 12, 2020

40

Maroc

37.128.678

Tháng 12, 2020

41

Ả Rập Saudi

35.066.753

Tháng 12, 2020

42

Uzbekistan

33.693.129

Tháng 12, 2020

43

Angola

33.402.355

Tháng 12, 2020

44

Peru

33.166.553

Tháng 12, 2020

45

Malaysia

32.569.234

Tháng 12, 2020

46

Mozambique

31.711.342

Tháng 12, 2020

47

Ghana

31.404.055

Tháng 12, 2020

48

Yemen

30.159.124

Tháng 12, 2020

49

Nepal

29.407.044

Tháng 12, 2020

50

Venezuela

28.571.086

Tháng 12, 2020

51

Madagascar

28.067.667

Tháng 12, 2020

52

Cameroon

26.886.603

Tháng 12, 2020

53

Bờ Biển Ngà

26.717.510

Tháng 12, 2020

54

CHDCND Triều Tiên

25.830.840

Tháng 12, 2020

55

Úcn5

25.640.654

Tháng 12, 2020

56

Niger

24.684.708

Tháng 12, 2020

57

Đài Loann4

23.835.976

Tháng 12, 2020

58

Sri Lanka

21.455.463

Tháng 12, 2020

59

Burkina Faso

21.201.535

Tháng 12, 2020

60

Mali

20.554.678

Tháng 12, 2020

61

Malawi

19.390.015

Tháng 12, 2020

62

România

19.189.273

Tháng 12, 2020

63

Chile

19.164.514

Tháng 12, 2020

64

Kazakhstan

18.886.309

Tháng 12, 2020

65

Zambia

18.653.559

Tháng 12, 2020

66

Guatemala

18.083.509

Tháng 12, 2020

67

Syria

18.047.151

Tháng 12, 2020

68

Ecuador

17.766.350

Tháng 12, 2020

69

Hà Lan

17.154.116

Tháng 12, 2020

70

Sénégal

16.971.170

Tháng 12, 2020

71

Campuchia

16.830.547

Tháng 12, 2020

72

Tchad

16.671.534

Tháng 12, 2020

73

Somalian7

16.127.444

Tháng 12, 2020

74

Zimbabwe

14.978.006

Tháng 12, 2020

75

Guinée

13.315.854

Tháng 12, 2020

76

Rwanda

13.115.115

Tháng 12, 2020

77

Bénin

12.287.858

Tháng 12, 2020

78

Burundi

12.076.109

Tháng 12, 2020

79

Tunisia

11.877.464

Tháng 12, 2020

80

Bolivia

11.753.362

Tháng 12, 2020

81

Bỉ

11.607.668

Tháng 12, 2020

82

Haiti

11.472.435

Tháng 12, 2020

83

Cuba

11.320.667

Tháng 12, 2020

84

Nam Sudann16

11.287.990

Tháng 12, 2020

85

Cộng hòa Dominica

10.901.057

Tháng 12, 2020

86

Cộng hòa Séc

10.716.802

Tháng 12, 2020

87

Hy Lạp

10.395.884

Tháng 12, 2020

88

Jordan

10.236.225

Tháng 12, 2020

89

Bồ Đào Nha

10.182.984

Tháng 12, 2020

90

Azerbaijan

10.177.608

Tháng 12, 2020

91

Thụy Điển

10.128.758

Tháng 12, 2020

92

Honduras

9.984.176

Tháng 12, 2020

93

UAE

9.935.904

Tháng 12, 2020

94

Tajikistan

9.644.100

Tháng 12, 2020

95

Hungary

9.646.340

Tháng 12, 2020

96

Belarus

9.444.273

Tháng 12, 2020

97

Papua New Guinea

9.033.426

Tháng 12, 2020

98

Áo

9.024.817

Tháng 12, 2020

99

Israeln8

8.722.373

Tháng 12, 2020

100

Thụy Sĩ

8.683.813

Tháng 12, 2020

101

Togo

8.378.955

Tháng 12, 2020

102

Sierra Leone

8.059.546

Tháng 12, 2020

103

Hồng Kông

7.522.837

Tháng 12, 2020

104

Lào

7.326.680

Tháng 12, 2020

105

Paraguay

7.176.293

Tháng 12, 2020

106

Bulgaria

6.922.435

Tháng 12, 2020

107

Libya

6.915.114

Tháng 12, 2020

108

Liban

6.783.165

Tháng 12, 2020

109

Nicaragua

6.663.651

Tháng 12, 2020

110

Kyrgyzstan

6.576.497

Tháng 12, 2020

111

El Salvador

6.502.427

Tháng 12, 2020

112

Serbian6

6.301.868

Tháng 12, 2020

113

Turkmenistan

6.074.751

Tháng 12, 2020

114

Singapore

5.873.845

Tháng 12, 2020

115

Đan Mạch

5.802.799

Tháng 12, 2020

116

Cộng hòa Congo

5.587.870

Tháng 12, 2020

117

Phần Lann9

5.544.032

Tháng 12, 2020

118

Slovakia

5.460.187

Tháng 12, 2020

119

Na Uyn10

5.444.198

Tháng 12, 2020

120

Oman

5.165.255

Tháng 12, 2020

121

Palestine

5.162.803

Tháng 12, 2020

122

Liberia

5.120.399

Tháng 12, 2020

123

Costa Rica

5.116.688

Tháng 12, 2020

124

Ireland

4.956.495

Tháng 12, 2020

125

Cộng hòa Trung Phi

4.875.080

Tháng 12, 2020

126

New Zealand

4.841.086

Tháng 12, 2020

127

Mauritanie

4.712.675

Tháng 12, 2020

128

Panama

4.347.599

Tháng 12, 2020

129

Kuwait

4.299.685

Tháng 12, 2020

130

Croatia

4.094.043

Tháng 12, 2020

131

Moldovan12

4.028.972

Tháng 12, 2020

132

Gruzian11

3.984.453

Tháng 12, 2020

133

Eritrea

3.574.071

Tháng 12, 2020

134

Uruguay

3.479.467

Tháng 12, 2020

135

Mông Cổ

3.303.899

Tháng 12, 2020

136

Bosna và Hercegovina

3.272.098

Tháng 12, 2020

137

Jamaica

2.967.340

Tháng 12, 2020

138

Armenia

2.965.170

Tháng 12, 2020

139

Qatar

2.905.901

Tháng 12, 2020

140

Albania

2.857.356

Tháng 12, 2020

141

Puerto Rico

2.844.466

Tháng 12, 2020

142

Litva

2.706.004

Tháng 12, 2020

143

Namibia

2.564.238

Tháng 12, 2020

144

Gambia

2.452.574

Tháng 12, 2020

145

Botswana

2.374.536

Tháng 12, 2020

146

Gabon

2.252.190

Tháng 12, 2020

147

Lesotho

2.150.585

Tháng 12, 2020

148

Bắc Macedonia

2.083.019

Tháng 12, 2020

149

Slovenia

2.078.592

Tháng 12, 2020

150

Guiné-Bissau

1.991.854

Tháng 12, 2020

151

Latvia

1.877.096

Tháng 12, 2020

152

Kosovo

1.873.160

Tháng 12, 2020

153

Bahrain

1.719.519

Tháng 12, 2020

154

Guinea Xích Đạo [1]

1.426.546

Tháng 12, 2020

155

Trinidad và Tobago

1.401.442

Tháng 12, 2020

156

Đông Timor

1.331.295

Tháng 12, 2020

157

Estonia

1.325.860

Tháng 12, 2020

158

Mauritius

1.272.601

Tháng 12, 2020

159

Sípn14

1.211.493

Tháng 12, 2020

160

Eswatini

1.166.295

Tháng 12, 2020

161

Djibouti

995.132

Tháng 12, 2020

162

Fiji

899.736

Tháng 12, 2020

163

Réunion

898.517

Tháng 12, 2020

164

Comorosn15

879.068

Tháng 12, 2020

165

Guyana

788.452

Tháng 12, 2020

166

Bhutan

775.652

Tháng 12, 2020

167

Quần đảo Solomon

695.477

Tháng 12, 2020

168

Ma Cao

653.886

Tháng 12, 2020

169

Luxembourg

630.415

Tháng 12, 2020

170

Montenegro

628.056

Tháng 12, 2020

171

Tây Sahara

604.635

Tháng 12, 2020

172

Suriname

589.228

Tháng 12, 2020

173

Cabo Verde

558.958

Tháng 12, 2020

174

Maldives

542.088

Tháng 12, 2020

175

Malta

442.167

Tháng 12, 2020

176

Brunei

439.440

Tháng 12, 2020

177

Belize

401.285

Tháng 12, 2020

178

Guadeloupe

400.070

Tháng 12, 2020

179

Bahamas

395.090

Tháng 12, 2020

180

Martinique

375.003

Tháng 12, 2020

181

Iceland

342.310

Tháng 12, 2020

182

Vanuatu

310.824

Tháng 12, 2020

183

Guyane thuộc Pháp

302.584

Tháng 12, 2020

184

Barbados

287.540

Tháng 12, 2020

185

Nouvelle-Calédonie

286.852

Tháng 12, 2020

186

Polynésie thuộc Pháp

281.723

Tháng 12, 2020

187

Mayotte

276.175

Tháng 12, 2020

188

São Tomé và Príncipe

221.272

Tháng 12, 2020

189

Samoa

199.281

Tháng 12, 2020

190

Saint Lucia

184.017

Tháng 12, 2020

191

Quần đảo Eo Biển

174.555

Tháng 12, 2020

192

Guam

169.487

Tháng 12, 2020

193

Curaçao

164.450

Tháng 12, 2020

194

Kiribati

120.422

Tháng 12, 2020

195

Liên bang Micronesia

115.641

Tháng 12, 2020

196

Grenada

112.768

Tháng 12, 2020

197

Saint Vincent và Grenadines

111.109

Tháng 12, 2020

198

Jersey

107.800

Tháng 12, 2020

199

Aruba

106.982

Tháng 12, 2020

200

Tonga

106.231

Tháng 12, 2020

201

Quần đảo Virgin thuộc Mỹ

104.320

Tháng 12, 2020

202

Seychelles

98.626

Tháng 12, 2020

203

Antigua và Barbuda

98.330

Tháng 12, 2020

204

Đảo Man

85.222

Tháng 12, 2020

205

Andorra

77.310

Tháng 12, 2020

206

Dominica

72.082

Tháng 12, 2020

207

Quần đảo Cayman

66.111

Tháng 12, 2020

208

Guernsey

62.792

Tháng 12, 2020

209

Bermuda

62.182

Tháng 12, 2020

210

Quần đảo Marshall

59.407

Tháng 12, 2020

211

Quần đảo Bắc Mariana

57.734

Tháng 12, 2020

212

Greenland

56.820

Tháng 12, 2020

213

Samoa thuộc Mỹ

55.150

Tháng 12, 2020

214

Saint Kitts và Nevis

53.370

Tháng 12, 2020

215

Quần đảo Faroe

48.959

Tháng 12, 2020

216

Sint Maarten

43.153

Tháng 12, 2020

217

Monaco

39.383

Tháng 12, 2020

218

Quần đảo Turks và Caicos

38.973

Tháng 12, 2020

219

Liechtenstein

38.196

Tháng 12, 2020

220

Gibraltar

33.691

Tháng 12, 2020

221

San Marino

33.974

Tháng 12, 2020

222

Quần đảo Virgin thuộc Anh

30.319

Tháng 12, 2020

223

Palau

18.126

Tháng 12, 2020

224

Quần đảo Cook

17.568

Tháng 12, 2020

225

Anguilla

15.064

Tháng 12, 2020

227

Tuvalu

11.859

Tháng 12, 2020

227

Wallis và Futuna

11.170

Tháng 12, 2020

228

Nauru

10.854

Tháng 12, 2020

229

Saint Helena, Ascension và Tristan da Cunha

6.083

Tháng 12, 2020

230

Saint Pierre và Miquelon

5.783

Tháng 12, 2020

231

Montserrat

4.990

Tháng 12, 2020

232

Quần đảo Falkland

3.506

Tháng 12, 2020

233

Niue

1.616

Tháng 12, 2020

234

Tokelau

1.359

Tháng 12, 2020

235

Thành Vatican

800

Tháng 12, 2020

236

Quần đảo Pitcairn

50

Tháng 12, 2020

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Xem thêm:

  • Bảng diện tích các nước trên thế giới: Việt Nam rộng thứ mấy thế giới?

Thế An (Tổng hợp)

Theo Wikipedia

As the world’s largest origin for international migrants, India has a rich history of immigration and emigration. The massive India diaspora, which can be found across the globe, includes millions of descendants of migrants and has taken shape mostly since the start of the colonial era, when large numbers of Indians were forcibly relocated to work on plantations and construction projects. The 1833 abolition of slavery in most parts of the British Empire transformed the colonial system, replacing slavery with indentured servitude. In the eight decades that followed, the United Kingdom relocated millions of bonded Indian workers to colonies across Africa, Asia, and the Caribbean. Later, India’s 1947 partition with Pakistan prompted the movement of millions of migrants throughout South Asia, in a vast reshuffling carried out along religious, ethnic, and other lines. India’s relationship with its neighbors has defined many aspects of its migration trends and foreign policy in the decades since.

More recently, the Middle East and Western countries have been top destinations for Indians abroad. Slightly more than half of India’s 17.9 million emigrants in 2020 lived in Persian Gulf countries, with nearly 3.5 million in the United Arab Emirates alone. Many have moved abroad for employment purposes; India is a significant source for low- and semi-skilled workers, as well as professionals in the health-care and science, technology, engineering, and math (STEM) fields.

There are vast economic differences within India, which is the world’s second most populous country with approximately 1.4 billion residents. Laborers who travel abroad can see their salaries increase by multiples, particularly since more than 90 percent of India’s workforce is engaged in the informal market. The states of Uttar Pradesh, Bihar, Tamil Nadu, and Kerala are the major sources of Indian emigration. Migration from the northern and highly populated Uttar Pradesh and Bihar is largely made up of semi-skilled and unskilled laborers, whereas migrants from southern Kerala and Tamil Nadu tend to have higher levels of education. Work-related emigration is largely dominated by men, and approximately 90 percent of migrant workers as of 2018 headed to the Persian Gulf or Southeast Asia, according to government figures, mostly in low- or semi-skilled professions.

Figure 1. Map of Major Migrant-Origin States in India

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Source: MPI artist rendering.

Over time, the Indian government has built multiple systems for engaging with its emigrant population and the many descendants who call India their ancestral home. Money sent as remittances represents a prime tactic for improving financial conditions and diversifying risk, particularly in rural households. The estimated U.S. $87 billion in official remittances received in India in 2021 represented the world’s largest such flow and amounted to nearly 15 percent of all global transfers to low- and middle-income countries, according to the World Bank. India has also sought to capitalize on the skills and training well-educated workers acquire abroad, including by easing the path for them and their descendants to return to India or otherwise invest in its development. As an example, many college-educated emigrants who gained experience in Silicon Valley and other tech hubs subsequently used their ties to create a thriving information technology sector in Bangalore.

However, many Indians with low levels of education have repeatedly been targeted by deceptive or abusive foreign employers, particularly in the Middle East. This situation has prompted government efforts to protect Indians employed abroad, including by trying to certify recruitment agents.

India is also a significant country of immigration, with nearly 4.9 million foreign-born residents in 2020, mostly from elsewhere in South Asia. Immigration has been trending downward in recent years, but it continues to play a prominent role in national political debates and has stirred tensions with neighboring Bangladesh.

This country profile provides an overview of international migration from and to India, including developments during the colonial era and more recent government policies and initiatives. Indian migrants have played prominent roles in destination countries across the world and are an important asset for their native country, in which they have invested significant amounts of money and other resources.

Historical Overview of International Migration from India

India’s status as the world’s largest migrant-origin country is despite the presence of caste barriers, extended family arrangements, traditional values, low nationwide levels of education, and the predominance of semi-feudal relationships—all of which might suggest a disinclination towards international mobility. The country’s migration patterns are rooted in the British colonial era, which lasted until independence and partition with Pakistan in 1947. There are three major periods of emigration in this history that can be distinguished: emigration as the result of colonial design, including coercive movement of indentured laborers to other regions of the British empire; movement as the result of anti-colonial struggle and later the collapse of colonial rule; and more recent employment-driven migration, particularly to the Persian Gulf and wealthy Western countries. 

Quy tắc thuộc địa và sự phục vụ được bảo hiểm

Bắt đầu từ đầu thế kỷ 19, sự phát triển của thực dân nhanh chóng đã tạo ra một nhu cầu đáng kể cho người lao động về các đồn điền và các dự án xây dựng đường bộ, xây dựng và đường sắt. Việc bãi bỏ chế độ nô lệ ở Vương quốc Anh vào năm 1833 đại diện cho một thời điểm đầu nguồn trong ngành đồn điền tạo ra các ưu đãi cho một số lượng lớn người Ấn Độ và những người khác được đưa ra khắp Đế chế. Sau đó, việc bãi bỏ chế độ nô lệ ở Pháp và Đan Mạch (1848) và Hà Lan (1863) đã góp phần thiếu lao động ngay lập tức trong nông nghiệp đồn điền, đặc biệt là sản xuất đường và sản lượng nông nghiệp giảm đáng kể. Các cường quốc thuộc địa yêu cầu một cấu trúc lực lượng lao động mới và dựa vào những người lao động được bảo hiểm từ Ấn Độ và các nơi khác.

Nông dân từ Ấn Độ và các vùng lãnh thổ khác đã đăng ký để trở thành những người lao động được bảo hiểm đã được chuyển đến các thuộc địa trên khắp Đế chế trong một quá trình cưỡng chế được gọi là hệ thống Coolie. Hệ thống tuyển dụng Kangani tương tự đã được sử dụng ở Malaya và Ceylon, trong đó một người di cư Ấn Độ được gọi là Kangani (một phiên bản Anglicized của người Tamil Kankani, có nghĩa là người giám sát hoặc quản lý) Minder, và cung cấp cho họ những tiến bộ thường trở thành các khoản nợ. Hệ thống Maur có ở Miến Điện cũng tương tự theo nhiều cách, ngoại trừ việc nó liên quan đến một hệ thống phân cấp của những người sử dụng người trung gian. Trái ngược với những người lao động được bảo hiểm, công nhân được miễn phí về mặt pháp lý theo các thỏa thuận này. Tuy nhiên, những người lao động thường thấy mình trong một loại thương mại nô lệ.

Năm 1838, Guiana thuộc Anh trở thành lãnh thổ Caribbean đầu tiên mà Đế chế buộc các công nhân Ấn Độ phải di cư. Các nhà lãnh đạo đế quốc sau đó đã làm theo bằng cách gửi người Ấn Độ đến các lãnh thổ khác ở vùng biển Caribbean và các nơi khác. Hàng triệu người Ấn Độ đã đến Mauritius trong thời gian này và hơn 500.000 công nhân Ấn Độ được bảo hiểm đã được chuyển đến vùng biển Caribbean trong khoảng thời gian từ 1838 đến 1917 (xem Bảng 1).

Bảng 1. Người lao động được bảo hiểm Ấn Độ được đưa đến các thuộc địa châu Âu, nhiều năm khác nhau

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Nguồn: Kenneth L. Gillion và Kenneth Lowell Oliver Gillion, Người di cư Ấn Độ của Fiji: Lịch sử kết thúc sau năm 1920 (London: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1962); S. Irudaya Rajan và Mitchhat Kumar, Tổng quan lịch sử về di cư quốc tế, Báo cáo di cư tại Ấn Độ 2010: Quản trị và di cư lao động, ed. S. Irudaya Rajan (New Delhi: Routledge, 2010); G.W. Roberts và J. Byrne, Thống kê Tóm tắt về Thuộc tội và Di cư liên quan đến Tây Ấn, 1834 Tiết1918, Nghiên cứu dân số của Hồi giáo & NBSP; 20, số 1 (1966): 125-14; Hugh Tinker, Cây Banyan: Người di cư ở nước ngoài từ Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh (Oxford: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1977).

Lao động được bảo hiểm từ Ấn Độ tăng lên nhanh chóng theo thời gian, một phần do những người thực dân nhận thức ban đầu rằng những người lao động có thể thích nghi với các điều kiện nông nghiệp khác nhau và có bản chất chăm chỉ. Mặc dù hệ thống hứa sẽ cung cấp cho họ cơ hội kinh tế tốt hơn, nhưng đối với hầu hết các công nhân, hóa ra là một cuộc lưu đày vào tù túng, vì họ tìm thấy một loại nghèo đói chỉ đơn giản là thay thế một loại nghèo khác.

Phân vùng và phong trào sau chiến tranh

Sự tan vỡ của Đế quốc Anh có hậu quả kịch tính đối với Ấn Độ và các thuộc địa cũ khác. Vào nửa đêm ngày 15 tháng 8 năm 1947, lãnh thổ trước đây được gọi là Ấn Độ thuộc Anh đã tan biến thành hai sự thống trị tự trị của Ấn Độ và Pakistan, khiến một trong những cuộc di cư lớn nhất thế giới. Có tới 20 triệu người đã phải di dời dọc theo các dòng tôn giáo do sự chia rẽ, dẫn đến các phong trào tị nạn lớn như các cá nhân, gia đình và cộng đồng đã trekked giữa các quốc gia mới. Chỉ riêng ở tỉnh được phân vùng của bang Punjab, 12 triệu người đã phải di dời. Quá trình chia tách và vẽ lại các ranh giới chính trị được đánh dấu bằng bạo lực khủng khiếp ở các khu vực lớn của miền bắc Ấn Độ, đặc biệt là khu vực Punjab. Ước tính khác nhau, nhưng có tới 1 triệu người được cho là đã bị giết và 50.000 phụ nữ đã bị bắt cóc trong khi đổ máu.

Trong những thập kỷ tiếp theo, nhiều người Ấn Độ đã chuyển đến Vương quốc Anh, đặc biệt là từ Punjab, sau mối quan hệ họ hàng và tình bạn. Nước Anh đầy chiến tranh vào thời điểm đó đang bị thiếu hụt lao động, và là công dân Khối thịnh vượng chung, công dân Ấn Độ đã có thể chuyển đến nước này mà không bị hạn chế. Di cư đến Vương quốc Anh trở nên khó khăn hơn trong những năm tiếp theo, khi luật pháp được thông qua từ năm 1962 đến 1971 áp đặt các biện pháp kiểm soát mới đối với sự di chuyển từ nơi khác trong Liên bang. Tuy nhiên, kể từ năm 2020, Ấn Độ vẫn là quốc gia sinh lớn nhất đối với người nhập cư ở Vương quốc Anh.

Di cư lao động đến Trung Đông và Tây

Làn sóng di cư thứ ba của Ấn Độ chủ yếu là ở Vịnh do kết quả của sự khai thác dầu lớn của khu vực và sự bùng nổ xây dựng bắt đầu từ những năm 1970. Các giao dịch bán lẻ và xây dựng như mộc, hệ thống dây điện và thợ xây đã phổ biến đối với nhiều người di cư thiếu giáo dục sau trung học, trong khi những người có trình độ đào tạo cao hơn đã đi đến các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe. Kerala, bang cực nam của Ấn Độ, đã chiếm phần lớn di cư đến Trung Đông.

Làn sóng thứ ba này cũng bao gồm các bác sĩ, kỹ sư, chuyên gia tài chính và những người khác hướng đến các quốc gia phát triển kinh tế như Hoa Kỳ. Trên toàn thế giới, Ấn Độ có số lượng người di cư cao nhất có bằng sau trung học, với gần 3,1 triệu người cư trú tại 38 quốc gia của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vào năm 2016. Trung Quốc (2 triệu) và Philippines (1,8 triệu) là các quốc gia xuất xứ hàng đầu khác cho người di cư có bằng cấp ba; Kết hợp các quốc gia này là nguồn gốc cho một phần năm của tất cả những người nhập cư OECD với một nền giáo dục đại học. Số lượng người di cư Ấn Độ có trình độ học vấn cao hơn gấp đôi từ năm 2000 đến 2010.

Ấn Độ hiện là quốc gia có nguồn gốc hàng đầu cho người nhập cư ở Hoa Kỳ, với những người mới đến từ Ấn Độ và Trung Quốc vượt xa những người từ Mexico kể từ năm 2013. Sự tăng trưởng này đã được thực hiện bởi sự hủy bỏ vào năm 1965 của hạn ngạch có nguồn gốc quốc gia đã hướng dẫn chính sách nhập cư của Hoa Kỳ Kể từ những năm 1920 và phân biệt đối xử với người châu Á và những người khác không phải từ Tây Bắc Châu Âu. Việc giới thiệu thị thực H-1B cho công nhân lành nghề năm 1990 cũng rất quan trọng; Người nhập cư Ấn Độ thường xuyên là người nhận hàng đầu của các thị thực này. Những người nhập cư Ấn Độ ở Hoa Kỳ có xu hướng được giáo dục cao và có thu nhập cao hơn so với dân số nước ngoài và nước Mỹ nói chung.

Bảng 2. Người nhập cư Ấn Độ theo quốc gia đến, 2020

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Nguồn: Liên Hợp Quốc, Bộ Kinh tế và Xã hội (DESA), Bộ phận dân số, Cổ phiếu di cư quốc tế năm 2020: Điểm đến và nguồn gốc, Bảng 1: Cổ phiếu di cư quốc tế vào giữa năm theo giới tính và theo khu vực, quốc gia hoặc khu vực đến và Nguồn gốc, truy cập vào ngày 4 tháng 2 năm 2022, có sẵn trực tuyến.

Nhiều người Ấn Độ cũng đã di cư để nghiên cứu. Gần 589.000 người Ấn Độ học ở nước ngoài vào năm 2019, theo Bộ Ngoại giao, với ít hơn một phần ba trong số họ sẽ đến Hoa Kỳ. Số lượng đáng kể cũng đã đến Úc, Canada và các quốc gia khác. Tuy nhiên, tuyển sinh quốc tế Ấn Độ đã giảm xuống còn 261.000 vào năm 2020, trong bối cảnh bắt đầu đại dịch Covid-19. Nhiều sinh viên quốc tế từ Ấn Độ đến từ khu vực thành thị, tầng lớp thượng lưu và trung lưu, và các diễn viên khác nhau, với nền tảng về kinh tế, kỹ thuật, quản lý và y học.

Tham gia với người Ấn Độ ở nước ngoài

Tỷ lệ di cư cao đã khiến lo ngại về việc thoát nước não, mà chính phủ đã cam kết xuất phát bằng cách khuyến khích sinh viên và người Ấn Độ không cư trú (NRI) trở về nước. Ấn Độ cũng đã thực hiện các cuộc giám sát đối với những người có nguồn gốc Ấn Độ (PIO), những người không phải là người gốc Ấn Độ; Bộ Ngoại giao cho biết đã có 13,1 triệu PIO trên toàn cầu vào năm 2018. Việc giới thiệu Thẻ công dân ở nước ngoài (OCI) năm 2005 của chính phủ cho phép các công dân Ấn Độ, hậu duệ của họ và công dân của họ Vì các lợi ích khác như theo dõi nhanh đối với quyền công dân (những người có liên kết đến Bangladesh và Pakistan bị loại khỏi chương trình này). & NBSP;

Chuyển tiền hàng đầu thế giới

Một lý do cho những nỗ lực của chính phủ để tham gia với người di cư Ấn Độ là số tiền khá lớn mà họ và con cháu của họ gửi lại. Chuyển tiền đến Ấn Độ đã tăng bóng trong những năm gần đây và ước tính 87 tỷ đô la Mỹ đã nhận được thông qua các kênh chính thức vào năm 2021, một phần do sự hỗ trợ từ cộng đồng người di cư và những người khác trong đại dịch, cũng như giá dầu cao hơn và phục hồi kinh tế ở các quốc gia đích đến đại diện cho mức tăng hơn sáu lần trong năm 2001 (xem Hình 2). Điều này nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác với số lượng tuyệt đối và cao hơn 64 % so với 53 tỷ đô la mỗi quốc gia đối với Trung Quốc và Mexico, người nhận chuyển tiền lớn nhất tiếp theo. Tuy nhiên, kiều hối chiếm một phần 3 phần trăm tương đối nhỏ trong nền kinh tế chung của Ấn Độ.

Hình 2. Chuyển tiền đến Ấn Độ, 1975-2021

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Lưu ý: Dữ liệu cho năm 2021 là các dự báo kể từ tháng 11 năm 2021. có sẵn trên mạng; Nhóm Triển vọng Ngân hàng Thế giới, Dữ liệu chuyển tiền hàng năm, cập nhật tháng 5 năm 2021, có sẵn trực tuyến.
Sources: Dilip Ratha et al., Migration and Development Brief 35: Recovery: COVID-19 Crisis through a Migration Lens, (Washington, DC: KNOMAD-World Bank, 2021), available online; World Bank Prospects Group, “Annual Remittances Data,” May 2021 update, available online.

Trong những năm gần đây, chuyển tiền chuyển từ các quốc gia của Hội đồng Hợp tác Six (GCC), Bahrain Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, Ả Rập Saudi và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã chiếm hơn một nửa số tiền được chuyển đến Ấn Độ. Hoa Kỳ là nguồn gốc của gần một phần năm các khoản kiều hối đến Ấn Độ vào năm 2021. & NBSP;

Chính phủ đã thực hiện các bước để khuyến khích dòng kiều hối và các loại vốn khác từ cộng đồng người di cư. Kể từ những năm 1970, NRI đã có thể giữ tiền trong các tài khoản ngân hàng đặc biệt ở Ấn Độ, đây là một nguồn tăng trưởng quan trọng. Tại những thời điểm quan trọng vào năm 1991, 1998 và 2000, chính phủ cũng đã ban hành trái phiếu đặc biệt cho phép NRI và những người khác đầu tư hàng tỷ đô la vào tiểu bang. Tự do hóa kinh tế từ những năm 1990 cũng đóng một vai trò trong các số liệu chuyển tiền ngày càng tăng, cũng như mức độ kỹ năng cao hơn của những người di cư gần đây. & NBSP;

Bảo vệ người Ấn Độ ở nước ngoài

Trong những thập kỷ gần đây, các báo cáo đã tiết lộ việc khai thác rộng rãi người Ấn Độ làm việc trong các công việc thấp và bán kỹ năng ở các quốc gia khác. Trong một số trường hợp, người di cư đã phải trả các khoản phí tuyển dụng cắt cổ, bị trả lương thấp hoặc bị giữ lại, và bị buộc phải từ bỏ hộ chiếu và các tài liệu khác của họ cho chủ nhân của họ. Trong khi đó, người lao động nhập cư đã bị buộc phải chịu đựng nhiều giờ, điều trị lạm dụng và các điều kiện nghèo nàn khác.

Những loại sự cố này đã thúc đẩy chính phủ can thiệp thay mặt cho người di cư phúc lợi. Kể từ khi thông qua Đạo luật Di cư năm 1983, một số người lao động di cư có giáo dục thấp được gọi là có tình trạng kiểm tra di cư (ECR), thường bao gồm lao động trong nước và những người đang xây dựng, cần phải có được giải phóng mặt bằng từ văn phòng chính phủ trước khi rời khỏi đất nước, Và các công ty nước ngoài cần phải có được chứng nhận trước khi tuyển dụng người Ấn Độ. Luật cũng cố gắng giới hạn phí dịch vụ được tính bởi các nhà tuyển dụng. Kiểm tra di cư chỉ được yêu cầu đối với một số công nhân nhất định hướng đến các quốc gia cụ thể chủ yếu ở Trung Đông, mà các nhà phê bình đã nói là một phần của trọng tâm thiển cận mà không xem xét các dòng chảy sẽ đa dạng hóa như thế nào. Nhiều vụ kiện cũng đã tuyên bố rằng các biện pháp bảo vệ của chính phủ không hiệu quả, đặc biệt là liên quan đến nhiều đại lý tuyển dụng hoạt động bất hợp pháp.

Gần đây, Bộ Ngoại giao đã lưu hành dự thảo luật được gọi là Dự luật Di cư 2021, sẽ thay thế luật năm 1983 và thay đổi quy trình tuyển dụng cho công việc nước ngoài. Nó được thiết kế để cung cấp cho chính phủ nhiều quyền lực và nguồn lực hơn để tham gia với người di cư và đóng vai trò là cơ quan giám sát của họ, bao gồm thông qua một cấu trúc quan liêu mới. Tuy nhiên, nỗ lực mới đã phải đối mặt với những lời chỉ trích vì cho phép người lao động nhập cư phải đối mặt với các hình phạt, không giới hạn các khoản phí của người lao động để tuyển dụng và giữ im lặng về các vấn đề như lạm dụng thể xác và tình dục mà người di cư nữ phải đối mặt. Thay vào đó, một số người ủng hộ đã thúc đẩy một bản viết lại toàn diện về luật pháp sẽ giống với tham vọng toàn cầu hơn như của các mục tiêu phát triển bền vững.

Nhập cư vào Ấn Độ

Ấn Độ trong nhiều thế kỷ là một điểm đến phổ biến cho người di cư quốc tế, với gần 4,9 triệu cư dân sinh ra ở nước ngoài vào năm 2020, trở thành quốc gia đích đến thứ 14 trên toàn cầu, mặc dù người nhập cư chiếm ít hơn 0,4 % trong số 1,4 tỷ người. Cho đến khoảng 1500 BCE, người Aryan mục vụ du mục từ thảo nguyên Á -Âu đã đến với tiểu lục địa Ấn Độ và lãnh thổ của người dân Dravidian bản địa. Họ dần dần lan rộng khắp miền bắc Ấn Độ, đôi khi chinh phục các dân số hiện tại và những lần khác lặng lẽ đồng hóa, sinh ra nền văn minh Vệ Đà. Các đế chế bao gồm những người của Alexander Đại đế, Kushans của Trung Á, Quốc vương Hồi giáo, Ba Tư, người Bồ Đào Nha, Moghuls, và cuối cùng là vùng đất do Anh cai trị hiện được gọi là Ấn Độ cho đến khi độc lập. Các học giả, thương nhân và khách du lịch khác cũng đến qua nhiều thế kỷ, tìm kiếm kiến ​​thức, sự giàu có, v.v.

Hàng chục ngàn công dân Anh và những người châu Âu khác đã chuyển đến Ấn Độ vào thế kỷ 19 dưới sự bảo trợ của Công ty Đông Ấn, quân đội Anh và thương mại đang bùng nổ. Đến năm 1901, gần 170.000 người châu Âu đã được ghi nhận là sống ở Ấn Độ, gần 61.000 người trong số họ là lính (xem Bảng 3). Nhiều người châu Âu dự định ở lại Ấn Độ chỉ tạm thời, với kế hoạch rời đi sau khi hoàn thành nhiệm vụ quân sự, kiếm được sự giàu có khá lớn hoặc hoàn thành các hoạt động khác. Nhà nhân chủng học Bernard Cohn, quan tâm đến việc hình thành Đế chế như một hiện tượng trí tuệ và văn hóa đã chứng minh những đổi mới quan trọng của Anh ở Ấn Độ, như các hệ thống thuế và tư pháp, dẫn đến những thay đổi lớn về cấu trúc trong các tương tác xã hội Ấn Độ.

Bảng 3. Người di cư châu Âu ở Ấn Độ, 1871-1901

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Nguồn: Peter J. Marshall, Nhập cư Anh vào Ấn Độ vào thế kỷ XIX, Iter Iterario 14, số 1 (1990): 25-44.

Dòng chảy này đã thay đổi sau sự độc lập và phân vùng với Pakistan. Phần lớn người nhập cư Ấn Độ hiện nay đến từ các nước láng giềng ở Nam Á, xuất phát từ mối quan hệ giữa các cá nhân và kinh tế mở rộng trong thời đại thuộc địa và trước khi phân vùng (xem Bảng 4). Nhiều người nhập cư đã di chuyển gần các trung tâm thương mại và nông nghiệp, góp phần vào quá trình đô thị hóa khổng lồ đã xác định Ấn Độ đương đại, nơi có một số thành phố lớn nhất thế giới.

Bảng 4. Người nhập cư ở Ấn Độ theo quốc gia xuất xứ, năm 2020

20 quốc gia hàng đầu có dân số Ấn Độ năm 2022

Nguồn: Liên hợp quốc DESA, Bộ phận Dân số, Cổ phiếu di cư quốc tế 2020: Điểm đến và nguồn gốc, Bảng 1: Cổ phiếu di cư quốc tế vào giữa năm theo giới tính và khu vực, quốc gia hoặc khu vực đến và nguồn gốc, đã truy cập vào ngày 4 tháng 2 năm 2022. & nbsp; & nbsp; & nbsp; & nbsp; & nbsp;

Số lượng người nhập cư ở Ấn Độ, chủ yếu đến từ Bangladesh, đã giảm đáng kể trong những thập kỷ gần đây, từ gần 7,6 triệu vào năm 1990 xuống còn khoảng 4,9 triệu vào năm 2020, theo số liệu của Liên Hợp Quốc. Một lời giải thích có thể là tăng trưởng kinh tế ở Bangladesh, đôi khi đã vượt qua Ấn Độ và có thể làm giảm các xung động di cư. Các mô hình di cư của Bangladesh cũng đã đa dạng hóa, với nhiều quốc gia hướng đến Trung Đông và các điểm đến khác.

Dân số trái phép và các vấn đề về bản sắc dân tộc

Một số lượng rất lớn người nhập cư sống mà không có tư cách pháp lý, với Bangladesh là nguồn chính. Các ước tính khác nhau và không nhất thiết đáng tin cậy, nhưng chính phủ năm 2016 tuyên bố rằng có tới 20 triệu người Bangladesh sống ở Ấn Độ ở tình trạng bất thường, có thể là dân số lớn nhất trên toàn cầu (chính phủ đã thừa nhận rằng nó không có dữ liệu chính xác để sao lưu khẳng định này). Một cơ quan đăng ký của công dân ở bang Biên giới Đông Bắc Assam được xuất bản năm 2019, một phần của quá trình nhằm xác định những người nhập cư Bangladesh trái phép, đã loại trừ 1,9 triệu người không thể chứng minh đầy đủ rằng họ đã đến tiểu bang trước Bangladesh, năm 1971 đã chia tay Pakistan.

Như ở nhiều quốc gia có dân số trái phép khá lớn, Ấn Độ đã chứng kiến ​​cuộc tranh luận chính trị quan trọng trong những năm gần đây về nhập cư bất thường. Một số trong những vấn đề này đã xuất hiện với Đạo luật Sửa đổi Công dân 2019 gây tranh cãi (CAA), điều này khiến niềm tin trở thành một sự cân nhắc cho các ứng dụng công dân và cấp một đường đua nhanh chóng cho những người nộp đơn không theo đạo Hồi từ Afghanistan, Bangladesh và Pakistan. CAA được thiết kế một cách phô trương để bảo vệ các nhóm thiểu số ở các quốc gia này, nhưng nó đã được chào đón với một điệp khúc biểu tình và cáo buộc rằng đó là một nỗ lực của Đảng Bharatiya Janata (BJP) cầm quyền để thúc đẩy tầm nhìn dân tộc của đất nước. Ấn Độ không có hệ thống tị nạn chính thức, mặc dù đây là nơi sinh sống của hơn 244.000 người tị nạn và người xin tị nạn vào năm 2020, chủ yếu là từ Tây Tạng và Sri Lanka. Các nhà nghiên cứu như Stephen Croucher đã nhấn mạnh lịch sử nhập cư Hồi giáo ở nước này, và cách người Ấn giáo tôn giáo có xu hướng bị đe dọa và ít tiếp xúc với người Hồi giáo.

Tiếp theo là gì? Triển vọng của dân số cao nguyên và thay đổi dòng chảy di cư

Ấn Độ từ lâu đã là một nguồn chính của người di cư, đặc biệt là người lao động nhập cư. Cho dù là những người lao động được bảo hiểm ở các thuộc địa châu Âu, các nhà xây dựng ở Vịnh Ba Tư hay các lập trình viên phần mềm ở Thung lũng Silicon, người di cư Ấn Độ đã có tác động đáng kể đến cả quốc gia gốc của họ và nơi đến của họ. Việc nhận tiền hàng đầu thế giới của Ấn Độ là đáng chú ý, và chính phủ đã nỗ lực bảo vệ công nhân nước ngoài của mình trong khi cũng tạo ra mối liên kết chặt chẽ hơn với họ và người di cư.

Ấn Độ có cộng đồng người di cư lớn nhất thế giới. Với 17,9 triệu người dân Ấn Độ sống ở nước ngoài và 13,1 triệu người gọi Ấn Độ là ngôi nhà tổ tiên của họ, quốc gia này phải tiếp tục xem xét việc di cư tác động tiềm năng có thể có đối với sự phát triển và tăng trưởng của nó. Các nhà nhân khẩu học dự án rằng Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc để trở thành quốc gia đông dân nhất thế giới trong vài năm tới. Tuy nhiên, những phát hiện của một cuộc khảo sát dân số lớn được công bố vào năm 2021 cho thấy lần đầu tiên tỷ lệ sinh sản của đất nước giảm một chút so với mức thay thế, điều này có thể có ý nghĩa đối với cách tiếp cận của chính phủ đối với người lao động nhập cư và các thành viên của cộng đồng người di cư. Ngoài ra, hiện có 1.020 phụ nữ cho mỗi 1.000 nam giới ở Ấn Độ, lần đầu tiên phụ nữ đông đảo đàn ông và kết quả của các quy định nhằm giảm các hoạt động lựa chọn giới tính và phụ nữ vô cùng, cũng như phụ nữ có tuổi thọ dài hơn. Tỷ lệ giới cải thiện cho thấy sự thành công của các chính sách trao quyền cho phụ nữ ở quốc gia là một quốc gia có sở thích lâu đời và mạnh mẽ.

Trong khi đó, các đặc điểm của di cư Ấn Độ đang thay đổi, phản ánh các bộ phận trong nước. Các quốc gia miền Nam như Kerala và Tamil Nadu là nguồn công nhân nhập cư truyền thống đến Trung Đông và Đông Nam Á, để lại hộ chiếu ECR yêu cầu ủy quyền chính phủ trước đó. Tuy nhiên, các quốc gia phía bắc và ít kinh tế hơn như Uttar Pradesh và Bihar trong những năm gần đây đã vượt qua các đối tác phía nam của họ là nguồn gốc chính của những chàng trai trẻ, có tay nghề thấp, rời khỏi công việc ở nước ngoài. Số người di cư từ Kerala, nơi tỷ lệ sinh thậm chí còn thấp hơn so với toàn quốc, đã giảm từ khoảng 80.000 vào năm 2011 xuống còn ít hơn 25.000 trong năm 2017.

Là quốc gia có nguồn gốc nhập cư hàng đầu thế giới và là nơi sinh sống của hàng triệu người nhập cư, Ấn Độ là một người chơi chính trong di cư quốc tế. Sự lưu hành gần đây của một dự thảo thay thế cho Đạo luật Di cư năm 1983 cho thấy chính phủ quan tâm đến việc xem xét lại vai trò của mình và hiện đại hóa môi trường pháp lý. Một lựa chọn sẽ là để lại giám sát trong tay một cơ quan quản lý thị trường độc lập và cho phép khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ dựa trên thị trường. Những nỗ lực để chống lại di cư bất thường cũng sẽ rất quan trọng, vì sẽ tăng các con đường thường xuyên cho những người lao động lành nghề tìm việc làm ở nước ngoài, đặc biệt là ở các quốc gia mục tiêu nơi lao động có thể được yêu cầu trong nhiều năm tới.

Trong số những thách thức lớn nhất của Ấn Độ là tìm ra cách dịch chuyển đổi nhân khẩu học của mình thành cơ hội kinh tế, cho cư dân Ấn Độ cũng như người di cư và các thành viên của cộng đồng người di cư. Là một sức mạnh kinh tế đang phát triển nhanh chóng với dân số tương đối trẻ, Ấn Độ đóng một vai trò quan trọng trong thị trường lao động quốc tế và các chương trình lao động nước ngoài. Lịch sử cho thấy nó đã lấp đầy vị trí này trong hơn một thế kỷ; Ngay cả khi đất nước thay đổi, người di cư Ấn Độ có thể sẽ tiếp tục làm việc ở nước ngoài trong nhiều năm tới.

Sources:

Audebert, Cédric và Mohamed Kamel Doraï, eds. 2012. Di cư trong một thế giới toàn cầu hóa: Các vấn đề và triển vọng nghiên cứu mới. Amsterdam: Nhà xuất bản Đại học Amsterdam. Có sẵn trên mạng.Available online.

Bates, Crispin, ed. 2003. & NBSP; Cộng đồng, Đế chế và Di cư: Người Nam Á ở Diaspora. Hyderabad: Phương Đông Blackswan.

Becker, Judith. 1967. Sự di cư của đàn hạc hình vòm từ Ấn Độ đến Miến Điện. Tạp chí Hiệp hội Galpin 20: 17-23. Có sẵn trên mạng.Available online.

Bhagat, Ram B. 2014. Báo cáo di cư thế giới 2014: Xu hướng di cư đô thị, thách thức và cơ hội ở Ấn Độ. N.P .: Tổ chức di cư quốc tế. Có sẵn trên mạng.Available online.

Brain, J.P. 1985. Người Ấn Độ được bảo vệ và tự do trong nền kinh tế của thực dân. Trong doanh nghiệp và khai thác ở thuộc địa Victoria: Các khía cạnh của lịch sử kinh tế và xã hội của thực dân, biên tập. Bill Guest và John M. Sellers. Pietermaritzburg, Nam Phi: Đại học Natal.

Campbell, Bruce M. S. 2000. Tiền đề thời trung cổ của tiến bộ nông nghiệp tiếng Anh. Farnham, Vương quốc Anh: Ashgate.

Cohn, Bernard S. 1996. Chủ nghĩa thực dân và các hình thức kiến ​​thức của nó: Người Anh ở Ấn Độ. Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học Princeton.

Croucher, Stephen M., Senna Juntunen và Cheng Zeng. 2014. Nhập cư Hồi giáo vào Ấn Độ: Ảnh hưởng của tôn giáo đến nhận thức về mối đe dọa nhập cư. Tạp chí Truyền thông & Tôn giáo 37 (2): 79-92.

DỉAiglepierre, Rohen et al. Năm 2020. Một hồ sơ toàn cầu của người di cư đến các nước OECD: những người di cư trẻ hơn và lành nghề hơn từ các quốc gia đa dạng hơn. Tài liệu làm việc xã hội, việc làm và di cư, số 239, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Paris, tháng 2 năm 2020. Có sẵn trực tuyến. Available online.

Davis, Kinglsey. 1951. Dân số Ấn Độ và Pakistan. Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học Princeton.

Dobbs, Richard et al. 2012 & nbsp; Thế giới đang làm việc: Việc làm, trả lương và kỹ năng cho 3,5 tỷ người. Seoul: Học viện toàn cầu McKinsey. Có sẵn trên mạng.Available online.

Gerbeau, Hubert. 1986. Tham gia và mát mẻ trên đảo Réunion: Mặt nạ nô lệ và những ràng buộc tự do. In & nbsp; chủ nghĩa thực dân và di cư: lao động được bảo hiểm trước và sau khi nô lệ, ed. MÁY TÍNH. Emmer. Dordrecht, Hà Lan: Springer.

Gillion, Kenneth L. và Kenneth Lowell Oliver Gillion. 1962. Người di cư Ấn Độ Fiji từ: Lịch sử đến cuối ngày năm 1920. London: Nhà xuất bản Đại học Oxford.

Goldin, Ian, Andrew Pitt, Benjamin Nabarro và Kathleen Boyle. 2018. Di cư và nền kinh tế: Thực tế kinh tế, tác động xã hội và lựa chọn chính trị. & NBSP; Oxford: Citi GPS. Có sẵn trên mạng.Available online.

Bộ Ngoại giao Ấn Độ. 2019. Câu hỏi số 2885 Số người Ấn Độ ở nước ngoài. Phát hành phương tiện, ngày 18 tháng 7 năm 2019. Có sẵn trực tuyến.Available online.

Kale, Madhavi. 1995. Bản sắc dự án: Đế chế và di cư lao động được bảo vệ từ Ấn Độ đến Trinidad và Anh Guiana, 1836 Tiết1885. & NBSP; Trong quốc gia và di cư: Chính trị của không gian ở Diaspora Nam Á, ed. Narayana Jayaram. New Delhi: Ấn phẩm Sage.

Kondapi, C. 1951. Người Ấn Độ ở nước ngoài, 1838 Từ1949. New Delhi: Hội đồng các vấn đề thế giới Ấn Độ.

Khadria, Binod. 2001. Các mô hình thay đổi của toàn cầu hóa: Sự chuyển đổi thế kỷ hai mươi sang các thuốc generic trong di cư lành nghề từ Ấn Độ. & NBSP; Di cư quốc tế & NBSP; 39 (5): 45-71.

---. 2006. Ấn Độ: Di cư lành nghề đến các nước phát triển, di cư lao động đến vùng Vịnh. ​​& NBSP; Migración y Desarrollo (7): 4-37. Có sẵn trên mạng.Available online.

Khadria, Binod và Perveen Kumar. 2015. Người nhập cư và nhập cư ở Ấn Độ: Một cách tiếp cận mới. Tuần báo kinh tế và chính trị, ngày 21 tháng 2 năm 2015. Có sẵn trực tuyến. Available online.

Khadria, Binod, Perveen Kumar, Chaianu Sarkar và Rashmi Sharma. 2008 Chính sách di cư quốc tế: Các vấn đề và quan điểm cho Ấn Độ. & NBSP; Tài liệu làm việc số 1, Dự án nghiên cứu di cư và di cư quốc tế, Trung tâm nghiên cứu giáo dục Zakir Husain Trường Khoa học Xã hội, Đại học Jawaharlal Nehru, New Delhi. Có sẵn trên mạng. Available online.

Mahmud, Tayyab. 1997. Di cư, Bản sắc & Cuộc gặp gỡ thuộc địa. & NBSP; Đánh giá luật Oregon & NBSP; 76: 633-90. Có sẵn trên mạng,Available online,

Marshall, Peter J. 1990. Di trú Anh vào Ấn Độ vào thế kỷ XIX. Itinerario 14 (1): 25-44.

Munshi, Kaivan và Mark Rosenzweig. 2009. & nbsp; tại sao di động ở Ấn Độ rất thấp? Bảo hiểm xã hội, bất bình đẳng và tăng trưởng. Cambridge, MA: Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia. Có sẵn trên mạng.Available online.

Ray, Manashi. 2013. Sự lưu thông toàn cầu của kỹ năng và vốn hóa học về sự di cư trở lại của các doanh nhân Ấn Độ từ Hoa Kỳ đến Ấn Độ. Trong & nbsp; tham gia và phát triển diaspora ở Nam Á, eds. Tan Tai Yong và Mohammad Mizanur Rahman. Luân Đôn: Palgrave Macmillan.

Rajan, S. Irudaya và Mitchhat Kumar. 2010. Tổng quan lịch sử về di cư quốc tế. Trong Báo cáo di cư Ấn Độ 2010: Quản trị và di cư lao động, ed. S. Irudaya Rajan. New Delhi: Routledge.

Ratha, Dilip et al. 2021. Di cư và phát triển Tóm tắt 35: Phục hồi: Khủng hoảng Covid-19 qua ống kính di cư. Washington, DC: Ngân hàng Knomad-World. Có sẵn trên mạng.Available online.

Roberts, G.W. và J. Byrne. 1966. Thống kê Tóm tắt về Thuộc tội và Di cư liên quan đến Tây Ấn, 1834 Từ1918. & NBSP; Nghiên cứu dân số & NBSP; 20 (1): 125-14.

Sharma, Chetna. 2019. Dự luật sửa đổi quyền công dân 2016: Liên tục và các cuộc thi có tài liệu tham khảo đặc biệt về chính trị ở Assam, Ấn Độ. Dân tộc châu Á 20 (4): 522-40.

Sharma, Varitka, Lopamudra Ray Saraswati, Susmita Das và Avina Sarna. 2015. Di cư ở Nam Á: Đánh giá. & NBSP; New Delhi: Hội đồng Dân số. Có sẵn trên mạng.Available online.

Singh, Ruchi. 2018. Hạn chế tín dụng và di cư nông thôn: Bằng chứng từ sáu ngôi làng ở Uttar Pradesh. & NBSP; Thư di cư & NBSP; 15 (3): 389-99.

Singh, Ruchi và Ibrahim Sirkeci. 2021. Biên tập: Tập trung vào di cư Ấn Độ. Thư di cư 18 (3): 229-36. Có sẵn trên mạng.Available online.

Tinker, Hugh. 1977. Cây Banyan: Người di cư ở nước ngoài từ Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh. Oxford: Nhà xuất bản Đại học Oxford.

Tumbe, Chinmay. 2014. & nbsp; Làn sóng di cư lớn của Ấn Độ, 1870 Từ2010, sự kiên trì & hậu quả. Bài thảo luận, Đại học Yale, New Haven, CT, tháng 11 năm 2014. Có sẵn trực tuyến.Available online.

---. 2015. Những người đàn ông mất tích, di cư và thị trường lao động: Bằng chứng từ Ấn Độ. & NBSP; Tạp chí Kinh tế Lao động Ấn Độ & NBSP; 58 (2): 245-67.

Vertovec, Steven. 1995. Di cư được bảo hiểm Ấn Độ đến Caribbean. & NBSP; Trong Khảo sát Di cư Thế giới của Cambridge, ed. Robin Cohen. Cambridge, Vương quốc Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.

Wadhwan, Neha. 2018. Cập nhật di cư Lao động Ấn Độ 2018. New Delhi: Tổ chức Lao động Quốc tế. Có sẵn trên mạng.Available online.

Weiner, Myron. 1978. Con trai của đất: Di cư và xung đột đạo đức ở Ấn Độ. Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học Princeton.

Nhóm Triển vọng Ngân hàng Thế giới. 2021. Dữ liệu chuyển tiền hàng năm, cập nhật tháng 5 năm 2021. & NBSP; Có sẵn trực tuyến.Available online.

Zachariah, K.C., K.P. Kannan và S. Irudaya Rajan, biên tập. 2002. & NBSP; Kết nối vùng Vịnh của Kerala: Các nghiên cứu về CDS về di cư lao động quốc tế từ bang Kerala ở Ấn Độ. Kerala, Ấn Độ: Trung tâm nghiên cứu phát triển.

Zachariah, K. C., B.A. Prakash và S. Irudaya Rajan. 2003. Tác động của chính sách nhập cư đối với người di cư hợp đồng Ấn Độ: Trường hợp của Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Di cư quốc tế 41 (4): 161-72.

Nước nào nước ngoài có dân số Ấn Độ cao nhất?

Người Ấn Độ Ả Rập Saudi sống ở Ả Rập Xê Út 9,8% dân số chung của họ, do đó là dân số nước ngoài cao nhất trong cả nước. Thỏa thuận để cân bằng việc tuyển dụng công nhân từ cả hai quốc gia trong lực lượng lao động Saudi đã duy trì mối quan hệ dễ chịu và thân thiện giữa hai nước. Indians living in Saudi form 9.8% of their overall population, thus being the highest expatriate population in the country. The agreement to balance recruitment of workers from both nations in Saudi workforce has maintained pleasant and friendly relations between the two countries.

Quốc gia nào là tốt nhất cho người Ấn Độ?

Canada là một trong những quốc gia tốt nhất cho người Ấn Độ về nhập cư.Sinh viên quốc tế từ khắp nơi trên thế giới chuyển đến Canada cho một tương lai đầy hứa hẹn.Số ứng dụng đang tăng lên hàng năm và một trong những lý do chính là các chính sách nhập cư dễ dàng và thân thiện của Canada. is one of the best countries for Indians in terms of immigration. International students from all over the world move to Canada for a promising future. The application numbers are increasing every year, and one of the major reasons is Canada's easy and friendly immigration policies.

Có bao nhiêu người Ấn Độ sống ở nước ngoài?

Hơn 1,33 người Ấn Độ đang sống ở nước ngoài, theo dữ liệu do chính phủ gửi.Dữ liệu tương tự cho thấy thêm rằng 10.646 cá nhân từ 87 quốc gia đã nộp đơn xin quyền công dân Ấn Độ trong năm năm qua.Trong cùng thời gian, 4.177 cá nhân đã được cấp quyền công dân Ấn Độ.

Có bao nhiêu người Ấn Độ ở châu Âu?

Dân số Ấn Độ ở nước ngoài.